Thứ Năm, 21 tháng 2, 2013

SÁCH KHẢI THỊ--BÀI 3

Hình 24 trưởng lão


TẦM NHÌN VỀ NGAI VÀNG

(Khải huyền 4:1-5:14)

I. Những điều phải xảy ra:

(Khải huyền 4:1)

"Sau việc ấy tôi đã thấy, kìa, có một cái cửa mở ra trên trời, và tiếng thứ nhứt mà tôi đã nghe như tiếng kèn nói với tôi kìa, lại nói rằng: “Hãy lên đây, ta sẽ chỉ cho ngươi những điều về sau cần phải xảy đến!” Dựa trên các từ ngữ "những điều cần phải xảy ra" trong 4:1, một số người nói rằng những điều trong chương bốn và năm đã chưa được ứng nghiệm bởi vì chúng liên quan đến những điều sẽ xảy ra tại thời điểm mà hội thánh sắp được cất lên, vào lúc Chúa trở lại. Đây là một giải thích rất phổ biến, tuy nhiên, với lời giải thích này rõ ràng là có 8 vấn đề sau đây:

(1) Nếu chúng ta nói rằng các chương bốn và năm đề cập đến những điều sẽ diễn ra sau đó, tại sao một vấn đề quan trọng như vậy là sự cất lên của hội thánh mà không được đề cập gì cả? Vì sự cất lên được đề cập trong các chương bảy, mười hai, mười bốn, mười lăm của cuốn sách này, tại sao nó không được đề cập gì cả trong phần này? Một số người nói rằng những lời "Hãy lên đây" trong 4:1 ám chỉ sự cất lên của Hội Thánh, nhưng câu 2 nói: "Ngay lập tức tôi ở trong linh" ( Không phải Thánh Linh). Hội Thánh sẽ được cất lên về thể chất, nhưng ở đây câu 2 nói về việc ở trong linh. Vì vậy, chúng ta có thể nói rằng phân đoạn này không đề cập đến sự cất lên của Hội Thánh. Làm thế nào có thể, khi chương hai và ba đề cập đến các sự kiện của Hội Thánh, mà không có một lời rõ ràng liên quan đến sự cất lên của Hội Thánh ngay sau đó?

 (2) Nếu Khải huyền 4: 1 nói về sự cất lên của hội thánh, sau đó hội thánh ở đâu trong chương bốn và năm? Một số người nói rằng 24 trưởng lão trong 4:4, 10, và 5:8 đại diện cho hội thánh. Sau đó chúng ta phải chứng minh rằng 24 trưởng lão không phải là đại diện của hội thánh. Vì bây giờ chúng ta chỉ cần hỏi lý do tại sao thậm chí không một ai trong 24 trưởng lão được đề cập sau Khải Huyền 22. Bởi vì hội thánh được giới hạn đối với hoạn nạn và sự vui hưởng vương quốc, nhưng không còn được nhìn thấy hoặc nghe thấy trong trời mới và đất mới sao? Có thể đã có hội thánh khi khởi đầu nhưng biến mất về sau không?

(3) Chương 5 cho thấy làm thế nào Chiên Con nhận được vinh quang trên các tầng trời. Có thể nói rằng Chúa phải chờ đợi 2000 năm trước khi Ngài sẽ được vinh hiển không?

(4) Những lời khen ngợi của những người "ở trên trời và trên mặt đất và dưới mặt đất" (5:13) tương ứng với những gì được nói trong Phi-líp 2:10. Đây là một cảnh vinh quang như vậy bởi vì Chúa đã sống lại, lên trời, và nhận được từ Chúa Cha "danh trên hết mọi danh" (Phil. 2:9). Làm thế nào có thể nói trái ngược với điều này, mà Khải Huyền 5:13 mô tả một cái gì đó xảy ra 2000 năm sau?

(5) Tại sao bài hát mới trong Khải huyền 5:9 nên chờ đợi 2000 năm mới được hát? Có thể nào sự cứu chuộc được thực hiện, mà ca khúc mới vẫn không thể được hát?

(6) "Hình như đã bị giết chết" (5:6) rõ ràng chỉ ra rằng nó mô tả cảnh ở thời điểm Chúa thăng thiên lên trời. Mặc dù cái chết của Chúa thì tươi mới đời đời, những từ ngữ được sử dụng ở đây khá rõ ràng "vừa mới bị giết".

 (7) Trong Khải huyền 4:8, bốn sinh vật nói, "Chúa là Đức Chúa Trời, Đấng Toàn năng, đã có, hiện có, và còn đến!” So sánh điều này với Khải Huyền 11:17: "Chúa là Đức Chúa Trời, Đấng Toàn năng, Ngài biện có, đã có." Ở đây cụm từ "và đấng còn đến" bị loại ra. Từ đây chúng ta có thể thấy rằng sự hiện đến của Chúa phải có sau 4:8, nó không bao giờ có thể có trước 4:8.

 (8) Khải huyền 5:6 nói rằng bảy Linh của Đức Chúa Trời được "sai xuống khắp đất." Đức Thánh Linh sẽ làm gì trong cả trái đất trong suốt cơn đại nạn? Chúng ta biết rằng Đức Thánh Linh chỉ ngự xuống sau khi Chúa Giêsu thăng thiên. Đó là trong thời đại của Hội Thánh mà Đức Thánh Linh được Chúa sai ra.

Theo tám điểm này, chúng ta nhận ra rằng chương 4 tiết lộ tình hình bình thường trước mặt Đức Chúa Trời, đó là tình hình nguyên thủy trên các tầng trời. Chương 5 nói về tình hình tại thời điểm thăng thiên của Chúa (vì cho đến 5:6 chúng ta mới thấy Chiên Con đứng), được hiển thị cách có mục đích cho John. "Cánh cửa mở ra ở trên trời" "những điều về sau cần phải xảy đến!” trong 4:1 không xảy ra sau thời kỳ của bảy hội thánh, nhưng sau khi nhìn thấy tầm nhìn trong chương một.

"Kìa, một cánh cửa mở ra ở trên trời." Các tầng trời đã mở ra cho Ê-xê-chi-ên (Ê-xê-chi-ên 1:1), cho Chúa (Ma-thi-ơ 3:16), cho Stephen (Công 7:56), cho Peter (Công 10:11), và cho John (Rev. 4 : 1; 19: 11).

"Và tiếng thứ nhứt mà tôi đã nghe như tiếng kèn nói với tôi ...rằng:" Ở đây có chép "giống như tiếng cây kèn", nhưng không thực sự là một cây kèn. Cụm từ "Hãy lên đây" đã được nói với John cách cá nhân, không phải là một loại sự cất lên của hội thánh. (Ông Scofield cho biết rằng đây là một loại sự cất lên của Hội Thánh, nhưng không thể khẳng định điều này ở đây.). "Ta sẽ chỉ cho ngươi" nói về những từ  ngữ được nghe. "Ta sẽ chỉ cho ngươi những điều về sau cần phải xảy đến!”  là một giới thiệu về những lời sau đây của lời tiên tri.

II. Ngai Vàng

(Khải huyền 4:2-3)

A. Khải huyền 4: 2

"Tức thì tôi cảm Thánh Linh ( Greek: ở trong linh), đã thấy kìa, có một cái ngai đặt ở trên trời, và có một Đấng ngự trên đó”.

Linh của John được cất lên, không phải cơ thể của ông. "Này, có một ngai vàng ở trên trời." Ngai vàng là trung tâm của cuốn sách này, nó cũng là trung tâm của tất cả mọi thứ. Do đó, ngai vàng được nhìn thấy trước nhất, là nơi từ đó tất cả các sự kiện sau đây tuôn ra. Ngai vàng này khác với ngai vàng được đề cập trong các thư tín. Hê-bơ-rơ 4 chạm trên khía cạnh của ân sủng --ngôi ân điển của Đức Chúa Trời. Khải Huyền 4:2 chạm trên khía cạnh của sự công bình của Đức Chúa Trời --ngôi phán xét . "Có một Đấng ngự trên đó." Đấng nầy là Đức Chúa Trời.

B. Khải huyền 4: 3

"Đấng ngự đó xem giống như bích ngọc và hồng bửu thạch, có cái mống bao quanh ngai coi giống như lục bửu thạch."

"Bích ngọc" tốt nhất nên dịch là "kim cương". Về tất cả các vấn đề vật lý, một viên kim cương tương tự như màu sắc của ánh sáng nhất. Không ai có thể phá vỡ nó. Tất cả mọi người quí trọng nó. Cấu trúc của nó là kết quả sự chuyển đổi của than đá. Ánh sáng của nó giống như ánh sáng của phúc âm, mà đem mọi người từ bóng tối vào các lĩnh vực của ánh sáng.

"Hồng bửu thạch" màu đỏ hoàn hảo nhất và ngụ ý sự cứu chuộc của Đức Chúa Trời, vì huyết có màu đỏ. Ý nghĩa của hai chi tiết nầy là màu sắc của chúng. Một biểu thị ánh sáng phúc âm, cái còn lại tượng trưng sự cứu chuộc được Đức Chúa Trời thực hiện qua Chúa Giêsu.

"Có cái mống bao quanh ngai coi giống như lục bửu thạch". Cầu vồng thường thấy trên trái đất có hình dạng như một vòng cung, nhưng cầu vồng ở đây bao quanh ngai vàng. Cầu vồng là dấu hiệu của giao ước Đức Chúa Trời với Noah. Từ đây chúng ta có thể thấy rằng Đức Chúa Trời là một Đức Chúa Trời lập giao ước (Sáng 9:12-16) cũng như là một Đức Chúa Trời giữ gìn giao ước. Đức Chúa Trời sẽ sớm thực thi phán xét của Ngài, tuy nhiên, Ngài vẫn tiếp tục giữ giao ước của Ngài và nhớ lời hứa cùng ân sủng của Ngài. "Lục bửu thạch" màu xanh lá cây, là một màu xanh lá cây cỏ, nó là màu sắc cơ bản của trái đất. Điều này có nghĩa rằng trong sự phán xét của Đức Chúa Trời, Ngài có ân sủng và nhớ về hướng trái đất. Sau khi trái đất đã trải qua sự phán xét, mà xanh lá cây, màu sắc cây cỏ vẫn còn (Sáng 8:11).

III. Hai mươi bốn trưởng lão

(Khải huyền 4:4)

"Xung quanh ngai lại có hai mươi bốn ngôi, trên những ngôi ấy có hai mươi bốn trưởng lão ngồi, mình mặc áo trắng, đầu đội mão miện vàng".

Lời giải thích phổ biến của các nhà giải nghĩa Kinh Thánh là 24 trưởng lão ám chỉ toàn bộ hội thánh được vinh hóa, nhưng sự khẳng định của họ không có bằng chứng đầy đủ. Gần đây, một số người trích dẫn Khải 4:4 và nói rằng những trưởng lão có ngôi, do đó, là các vị vua. Họ cũng nói rằng trong 5:8 các trưởng lão có đàn hạc và bát đầy hương, do đó, cũng là các thầy tế lể. Hơn nữa, 1 Phierơ 2:9 nói rằng các tín đồ là một ban tư tế vương giả. Vì 24 trưởng lão là những vị vua và các thầy tế lể, các nhà giải nghĩa Kinh Thánh lý luận rằng những trưởng lão nầy đại diện cho hội thánh được vinh hóa.

Tuy nhiên, theo hình thức giải thích này, toàn bộ Hội thánh sẽ được cất lên cùng một lúc và sẽ không phải đi qua hoạn nạn. Há điều nầy không trái với linh của cuốn sách này sao? Sau đó, làm thế nào về Khải Huyền 3:10? Hiện vẫn còn mười lý do chính yếu khác đủ để chứng minh rằng 24 trưởng lão không phải là Hội thánh vinh hóa.

(1) Văn từ trưởng lão không giống như thuật ngữ Hội thánh. Nếu các trưởng lão ở đây đề cập đến Hội thánh, thì sẽ không làm cho cả Hội thánh đều là trưởng lão sao? Theo thực tế lịch sử, trước tiên, Đức Chúa Trời đã chọn các thiên thần (Ê-sai 14:12; Ê-xê-chi-ên 28:11-19); thứ hai, những người Do Thái (Sáng thế Ký 12:1-3); và thứ ba, Hội thánh (Hội thánh được thành lập trong Công vụ 2). Hội thánh không thể được coi là những trưởng lão, và không có thể là người Do Thái. (Ê-phê-sô 1:4 nói về sự lựa chọn theo mục đích đời đời của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, các thiên thần được chọn trong 1 Ti-mô-thê 5:21 là một vấn đề khác.)

(2) Con số của các trưởng lão không phải là con số của Hội thánh. Con số của Hội thánh là bảy, hoặc ít nhất là một bội số của 7. Nếu các trưởng lão là Hội thánh, số lượng của họ nên được, hoặc bảy hoặc nhiều hơn bảy. Số 24 không phải là số 7, cũng không phải là bội số của 7.

(3) Hội thánh không thể nhận được ngai vàng và mão miện trước khi Chúa Giê-su đến. Đấng ngồi trên ngai vàng trong Khải Huyền 4: 2 là Đức Chúa Trời Cha (Chiên Con đứng trong 5:6). Đầu tiên, trong 4:4 có "ngai vàng", và sau đó có từ ngữ "ngồi". Trong văn bản gốc, "ngồi" là cùng một từ ngữ như "cái ngôi", do đó, nó cũng nên được dịch "cái ngôi". 24 trưởng lão nầy ngồi trên các ngai vàng, cũng đội mão miện vàng. Nếu chúng ta nói rằng họ là Hội thánh, tại sao Hội thánh ngồi, nhưng Chiên Con thì đứng? Vì vậy, trong 5:6, Hội thánh đã được đội mão miện rồi, tại sao Chúa Giêsu phải đợi cho đến chương 20 mới làm vua? Làm thế nào Hội thánh có thể nhận được vinh quang sớm hơn Chúa? Bên cạnh đó, tiếp sau Khải huyền 19:4, chúng ta không thể tìm thấy bất kỳ dấu vết nào về 24 trưởng lão. Nếu chúng ta nói rằng những trưởng lão nầy đại diện cho Hội thánh, thì Hội thánh vinh quang này đã đi đâu rồi, sau 19:4?

(4) Không có lời đề cập rằng các áo xống màu trắng mà các trưởng lão mặc được rửa trong huyết quý giá, tuy nhiên, trong các đoạn khác, nơi mà các áo xống màu trắng được đề cập, Khải Huyền luôn luôn nói rằng họ được tẩy sạch bằng huyết của Chiên Con (ví dụ trong 7 : 14). Các áo xông trắng ở đây chỉ ra rằng những trưởng lão không có tội lỗi.

(5) Các từ ngữ mà các trưởng lão nói thì không phải là lời về sự cứu chuộc. Khải Huyền 4:11 nói rằng họ nói về sự sáng tạo của Đức Chúa Trời. Vì vậy, họ chỉ biết sáng tạo của Đức Chúa Trời và không nhận biết sự cứu chuộc của Đức Chúa Trời. Mặc dù họ hát một bài hát mới trong 5:9-10, họ làm điều đó bởi vì Chúa đã cứu chuộc "loài người". "Loài người" không ám chỉ các trưởng lão, nhưng những người ra từ trong mỗi bộ tộc, tiếng nói, dân tộc và quốc gia.

(6) Tất cả các trường hợp trong chương bốn đại diện cho tình hình của vũ trụ. Bên cạnh ngai vàng và bảy Linh, có bốn con sanh vật và 24 trưởng lão. Không có gì khác được đề cập. Điều này cho thấy rằng những trưởng lão là những người lớn tuổi của vũ trụ. Há chúng ta có thể nói rằng Hội thánh bao gồm trong những người già nhất trong vũ trụ sao?

(7) Để mang các lời cầu nguyện lên trước mặt Đức Chúa Trời, như đã đề cập trong 5:8, không phải là công việc của Hội thánh. Mặc dù Kinh Thánh ra lệnh Hội thánh cầu nguyện cho dân chúng, Đức Chúa Trời đã không ra lệnh hội thánh mang đến trước mặt Ngài những lời khẩn xin của người khác, thay cho dân chúng. Hội thánh không có quyền năng như vậy. Nhiều nhà giải nghĩa Kinh Thánh đồng ý rằng vị thiên sứ trong Khải Huyền 8:3-4 ám chỉ đến Chúa. Hoặc đó là Chúa hay không, hay là thiên thần, mang những lời cầu nguyện đến trước mặt Đức Chúa Trời. Do đó, việc đưa những lời cầu nguyện đến trước mặt Đức Chúa Trời trong 5: 8 phải được các thiên thần thực hiện.

 (8) 24 trưởng lão không bao giờ đề cập đến chính họ là Hội thánh. Chữ "họ" trong 5:10 là sự ám chỉ của các trưởng lão đến Hội thánh. Nếu các trưởng lão đang nói đến chính mình ở đây, họ nên nói, "chúng ta". Thật là rõ ràng bằng lời nói của các trưởng lão ở đây, họ phân biệt mình (họ) với Hội thánh. Từ đây chúng ta có thể thấy rằng 24 trưởng lão chắc chắn không phải Hội thánh. Có ba loại người trong Khải huyền 7:13-17: các trưởng lão, John, và những người mặc áo dài trắng. Nếu chúng ta nói rằng 24 trưởng lão ám chỉ chỉ đến một phần của những người trong Hội thánh, nó vẫn có thể làm cho lời trưởng lão hỏi John nên có ý nghĩa, " Có một trong các trưởng lão cất tiếng hỏi tôi rằng: “Những kẻ mặc áo dài trắng đấy là ai, và từ đâu mà đến?” Nhưng làm thế nào toàn bộ Hội thánh có thể sẽ hỏi câu này liên quan đến một phần khác của Hội thánh?

(9) Trong Khải huyền 7:13-17, John nói với một trong các trưởng lão là "chúa tôi." Chúng ta có thể thấy rằng trưởng lão phải có một vị trí cao hơn so với John. Nếu không, làm thế nào người cao tuổi có thể cho phép John nói với ông ta là "chúa"? So sánh điều này với Khải Huyền 22:8-9 và 5:9-10, chúng ta thấy rằng những người trưởng lão không bao giờ nói rằng chính họ được rửa bằng huyết. Khải Huyền 5:9 chép, " Vì Ngài đã chịu giết, lấy huyết mình mà mua họ cho Đức Chúa Trời." Đó là "những con người" và không phải là "chúng ta," như được dịch trong bản King James. Hơn nữa, nếu từ ngữ "những con người" trong 5:9 đổi thành "chúng ta", làm thế nào từ ngữ "họ" trong 5:10 có thể đúng ngữ pháp?

(10) Thái độ của 24 trưởng lão trước mặt Đức Chúa Trời là bất thường nhất. Không giống như Hội thánh, họ đã không bao giờ đói, khát, hoặc khóc. Họ không sợ Đức Chúa Trời và không có cảm giác tội lỗi hay kinh nghiệm sự cứu chuộc. Từ đây chúng ta biết họ không phải là Hội thánh được cứu chuộc.

Vậy 24 trưởng lão nầy là ai? Chúng ta kết luận, trước tiên, rằng họ là các vị vua và các thầy tế lễ trong số các thiên thần. Họ là những người lớn tuổi của vũ trụ, tể trị các thiên thần và thế giới cùng phục vụ Đức Chúa Trời. Bằng chứng của việc này là như sau:

(1) Họ ngồi trên các ngai vàng và đội mão miện vàng. Do đó, họ phải là những vị vua.

(2) Họ mặc áo dài trắng  là áo xống của thầy tế lễ (xem Xuất 28; Lev 6:10;. 16:4). Họ có đàn hạc, bài hát, và bát vàng đầy hương. Tất cả những điều nầy chứng minh rằng họ là những thầy tế lễ.

 (3) Lý do họ là những thầy tế lễ trong số các thiên thần, vì họ là những người lớn tuổi của vũ trụ. Trong chương bốn và năm, Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời, Chúa là Chiên Con, Đức Thánh Linh là bảy Linh của Đức Chúa Trời, và bốn sinh vật đại diện cho các loài động vật trong việc sáng tạo. Con người trên trái đất, và ma quỷ không tính đến. Do đó, 24 người lớn tuổi (trưởng lão)  là lâu đời nhất trong số tất cả các sinh vật.

 (4) Bên cạnh các thiên thần, không ai có thể ngồi trên các ngai vàng và đội mão miện vàng trước mặt Chúa. Ban đầu, Đức Chúa Trời chỉ định các thiên thần cai quản vũ trụ. Sau đó thiên sứ trưởng không thành công và trở thành Satan, vì vậy, chúng ta có vương quốc của Satan. Các thiên thần còn lại đã không thuận phục Satan vẫn còn được Đức Chúa Trời chỉ định cai quản vũ trụ. Ví dụ, có  Michael, thiên sứ cho dân Y-sơ-ra-ên (Dan. 10:13). Là dân được cứu chuộc, mỗi chúng ta cũng có các thiên thần của mình (Công 12:15, Ma-thi-ơ 18:10; Hê. 1:14). Tại đây, 24 trưởng lão đang ngồi, trong khi ở các chương sau, có các thiên thần thổi bảy chiếc kèn, thì đang đứng (Khải Huyền 8:2).

Bây giờ 24 trưởng lão đang chi phối vũ trụ. Khi họ nhìn thấy Đức Chúa Trời cứu một nhóm người, họ không ghen tị, đúng hơn, họ ca tụng Đức Chúa Trời cho điều đó. Khi vương quốc đến, họ sẽ từ chức khỏi vị trí của họ và sẽ bàn giao quyền bính của vũ trụ cho những con người (Khải Huyền 11:16-18;. Hê. 2:5-8). Đây là lý do tại sao chúng ta không thấy các trưởng lão làm bất cứ công việc nào nữa sau  Khải huyền 19:4.

(5) Con số 24 trưởng lão là con số của các thầy tế lễ. Trong thời của David, các thầy tế lễ đã được chia thành 24 ban (1 Sử. 24:7-18). Trách nhiệm của các thầy tế lễ là  mang những lời cầu nguyện của các thánh đồ đến trước mặt Đức Chúa Trời. Đàn hạc là để ca hát, và các bát hương cho các lời cầu nguyện.

 

IV. Tình Hình Của Ngai Vàng

(Khải huyền 4:5-6)

A. Khải huyền 4:5

"Từ ngai ra những chớp, tiếng và sấm. Cũng có bảy ngọn đèn bằng lửa cháy trước ngai, tức là bảy Linh của Đức Chúa Trời."

" Từ ngai ra những chớp, tiếng và sấm". Chúng ta thấy rằng Đức Chúa Trời sẽ  sớm thực hiện phán xét ngay. Chiếc ngai nầy là ngai vàng của Đức Chúa Trời về sự công bình, ngai vàng của Ngài về sự phán xét. "Ngôn đèn bằng lửa" trong văn bản gốc là "ngọn đuốc lửa". Đèn được sử dụng trong nhà, và một ngọn đuốc lửa được sử dụng ngoài trời. (Ngọn đuốc lửa được những người Hy Lạp sử dụng trong hình dạng của một cây kèn và nhét đầy vải lanh hoặc bông tẩm dầu bên trong. Nó đã được sử dụng ngoài trời nơi mà có nhiều không khí.).

Tất nhiên, chỉ có một Đức Thánh Linh trước mặt Đức Chúa Trời. Bảy Linh đây chỉ tỏ rằng sự nhấn mạnh là về công việc và hiệu quả của Đức Thánh Linh. Điều này hoàn toàn tương ứng với ý nghĩa của những ngọn đuốc lửa (xem Khải 5:6, Ê-sai 11:02).

B. Khải huyền 4:6

"Trước ngai dường có biển pha ly giống như thuỷ tinh; còn chính giữa và xung quanh ngai có bốn sanh vật, đằng trước đằng sau đều đầy mắt".

Một biển thủy tinh ở trước ngai vì cầu vồng bao quanh ngai vàng. Trong thời Nô-ê, Đức Chúa Trời lập giao ước rằng Ngài sẽ không bao giờ phá hủy trái đất bằng nước (Sáng 9:15). Ở đây chúng ta thấy rằng phán xét bằng nước qua đi, sự phán xét bằng biển sẽ không còn. Trong Khải huyền 15:2 biển thủy tinh được trộn lẫn với lửa. Trong trời mới và đất mới, sẽ không có biển. Tuy nhiên, sẽ có địa ngục--là hồ lửa. Nó là một cái hồ, nhưng là hồ lửa cháy. Vì lý do này, ông Govett nói rằng biển thủy tinh này về sau trở thành hồ lửa. Theo ông, sự phán xét sẽ không bằng phương tiện của một biển nước, đúng hơn, nó sẽ bởi một hồ lửa. Điều này có vẻ khá hợp lý.

Chỉ có một ngai vàng, do đó, "chính giữa ngai vàng" không có thể có nghĩa là trung tâm của ngôi. Nó chỉ có thể được giải thích như là giữa bên dưới ngai vàng, có nghĩa là, khu vực trung tâm dưới ngai vàng. " Bốn sanh vật, đằng trước đằng sau đều đầy mắt." "Các con mắt" đại diện cho trí thông minh. Nếu mắt bị nhắm, người ta không thể nhìn thấy thế giới. Đôi mắt là những gì để có sự tiếp xúc với thế giới nhất. "Đầy mắt ở phía trước và phía sau." Điều này cho chúng ta thấy rằng bốn sinh vật rất thông minh trước mặt Đức Chúa Trời.

V. Bốn sinh vật

(Khải huyền 4:7-8)

" Sanh vật thứ nhứt giống như sư tử, sanh vật thứ nhì như bò con, sanh vật thứ ba có mặt như người, và sanh vật thứ tư như chim ưng đang bay. Bốn sanh vật ấy mỗi một đều có sáu cánh, khắp trong ngoài đều đầy mắt, ngày đêm không dứt nói rằng:
“Thánh thay, thánh thay, thánh thay là Chúa là Đức Chúa Trời, Đấng Toàn năng, đã có, hiện có, và còn đến!”

Một số người cho rằng vì 24 trưởng lão ngụ ý Hội thánh, bốn sinh vật nầy cũng biểu thị  Hội thánh. Chúng tôi đã nói trước đó rằng Khải Thị không phải là một cuốn sách của các dấu hiệu. Bất cứ điều gì trong cuốn sách này không được sử dụng như một dấu hiệu nên được giải thích theo nghĩa đen. Nếu 24 trưởng lão là Hội thánh, nếu họ là một dấu hiệu với rất nhiều con số, làm thế nào chúng ta giải thích các con số tiếp thep sau đó? Một giải thích như vậy không chỉ làm cho khó hiểu, nhưng cũng làm cho chúng ta dễ dàng làm mất đi giá trị của cuốn sách này. Do đó, bốn sinh vật không phải là một dấu hiệu, nhưng đúng hơn là đại diện của các sinh vật trong sách Khải huyền 5:13. (Các thiên thần được đại diện trong 5:11.). 24 trưởng lão là đại diện của các thiên thần ở trên trời, và bốn sinh vật là đại diện các sinh vật sống trên trái đất.

Theo Sáng thế ký, các sinh vật sống đều có sáu phân loại: (1) dưới nước, (2) các loài chim, (3) gia súc, (4) côn trùng (loài bò sát), (5) loài thú, và con người (6). Tuy nhiên, theo Khải Huyền 4:7, chỉ có bốn loại:

(1) Con sư tử là vua của  loài thú (Châm ngôn 30:30).

(2) Con bê là vua của gia súc.

(Trong số các vật nuôi bê là loài lớn nhất.)

(3) Con người đại diện cho những con người trên thế giới. Con người không đại diện cho Hội thánh, trong thời đại vương quốc "trái đất sẽ đầy dẫy sự hiểu biết Đức Giê-hô-va, như các dòng nước che lấp biển. (Ê-sai 11:9). Trong suốt thời đại của vương quốc, Hội thánh sẽ được chia giữa những người chỉ đơn thuần là được cứu và những người đắc thắng. Nhưng trong trời mới và đất mới sẽ không có sự phân biệt như vậy. Trong suốt thời đại vương quốc, mặc dù những con người trên trái đất cũng sẽ tin vào Đức Chúa Trời, sẽ không có báp têm trong Đức Thánh Linh, vì thế, họ sẽ không trở thành thành viên của Thân Thể Đấng Christ. Họ chỉ có thể tin như các cá nhân. Trong trời mới và đất mới, họ sẽ chỉ được phục hồi trở lại điều kiện của Adam trước khi phạm tội. Họ sẽ ăn trái cây, ngủ, kết hôn, và sinh ra con trai và con gái, nhưng họ sẽ không còn chết, bị bệnh, hoặc tội lỗi, bởi vì họ sẽ không còn bị  Ma quỷ cám dỗ. (Nhiều điều sẽ được xác minh sau này.)

(4) Đại bàng là vua của các loài chim.

Không có đề cập loài bò sát hoặc loài cá. Loài bò sát  lớn nhất là con rắn, do đó, nó không có đại diện ở đây. Cá không bị phán xét trong thời đại của Noah, nhưng tất cả các sinh vật sống khác đều bị. Hơn nữa, trong trời mới và đất mới sẽ có không có biển. Bằng cách này, chúng ta có thể thấy rằng cá sẽ chỉ được phán xét trong tương lai, do đó, chúng cũng không có đại diện ở đây.

Do ảnh hưởng sự sa ngã của con người, cõi thọ tạo cách xa tình trạng ban đầu của chúng. Do đó, Rô-ma 8:19 đến 22 nói rằng toàn cõi sáng tạo trông mong bước vào sự tự do vinh hiển của các con cái Đức Chúa Trời. Khi Chúa đến, chúng ta sẽ được vinh hóa, và cõi thọ tạo sẽ được giải phóng khỏi ách nô lệ của sự hư nát. Chỉ khi nào Chúa đến, tất cả mọi thứ sẽ được phục hồi (Công 3:21). Hiệu quả sự chết của Chúa trên thập tự giá không chỉ vươn tới con người, nhưng đến tất cả mọi thứ nữa (Col 1:20). Hê-bơ-rơ 2:9 nói rằng "tất cả mọi thứ."( muôn vật). Chúa đã nếm cái chết vì cớ "tất cả mọi thứ", có nghĩa là, cho tất cả các tạo vật. Phần trước nói rằng "tất cả mọi thứ" (câu 8), phần dưới đây nói rằng "tất cả mọi thứ" (câu 9). Do đó trong tương lai, không chỉ con người mà tất cả mọi thứ mà đã được sáng tạo sẽ được cứu chuộc lại. Chúa Giê-xu không chỉ là một con người mà còn Con Trưởng của tất cả mọi tạo vật (Cô-lô-se 1:15; Khải 3:14).

Bốn sinh vật đại diện cho các sinh vật sống, được cứu chuộc trước mặt Đức Chúa Trời . Trong số bốn con sanh vật, bò con và con người thì sạch sẽ, trong khi sư tử và đại bàng thì ô uế. Hai loại sinh vật đứng trước mặt Đức Chúa Trời không có phân biệt giữa thanh sạch và ô uế, vì tất cả đều đã được cứu chuộc. Con sư tử và con đại bàng hung dữ, trong khi con người và con bê nhẹ nhàng. Tuy nhiên, vì tất cả đều đã được cứu chuộc, họ có thể sống chung với nhau.

Trong Cựu Ước, có hai loại sứ giả: (1) chê-ru-bim và (2) seraphim. Chê-ru-bim chỉ có bốn cánh (Ê-xê-chi-ên 1:6) và seraphim có sáu cánh (Ê-sai 6:2). Bốn sinh vật sống ở đây trong sách Khải huyền giống bốn sinh vật mà Ê-xê-chi-ên nói, --họ có khuôn mặt của cherubim (Ê-xê-chi-ên 1:10) và các cánh của seraphim (Ê-sai 6:2). Từ đây chúng ta thấy rằng các sinh vật sống ở đây là một sự kết hợp của chê-ru-bim và seraphim. Cherubim là vì vinh quang Đức Chúa Trời. Xuất. 37:7 nói người, “làm hai tượng chê-ru-bim bằng vàng đánh dát”. Điều này ngụ ý sự vinh quang của các Chê-ru-bim. Seraphim là vì sự thánh khiết của Đức Chúa Trời (xem chữ "thánh thay" trong Ê-sai 6: 3). Vinh quang có liên quan đến chính Đức Chúa Trời. Đức thánh khiết có liên quan đến bản chất của Đức Chúa Trời. Do đó, bốn sinh vật sống ở đây biểu hiện vinh quang và sự thánh khiết Đức Chúa Trời. " Thánh thay, thánh thay, thánh thay là Chúa là Đức Chúa Trời, Đấng Toàn năng, đã có, hiện có, và còn đến!” ,có nghĩa là Ngài sẽ đến. Điều này cho thấy sự đến lần thứ hai của Chúa.

VI. Những lời khen ngợi

(Khải huyền 4:9-11)

" Mỗi khi các sanh vật đem sự vinh hiển, tôn trọng cảm tạ mà dâng cho Đấng ngự trên ngai, là Đấng hằng sống đời đời, 10 thì hai mươi bốn trưởng lão sấp mình xuống trước mặt Đấng ngự trên ngai, thờ lạy Đấng hằng sống đời đời, và quăng mão miện mình trước ngai mà rằng:11 “Lạy Chúa của chúng tôi, là Đức Chúa Trời của chúng tôi, Chúa đáng được vinh hiển, tôn trọng và quyền năng, Vì Chúa đã dựng nên muôn vật, Và ấy là vì ý chỉ Chúa mà muôn vật đã có và được dựng nên."

Trong Khải huyền 4:9 các lời"cảm ơn" được đưa ra. Bốn sinh vật là đại diện của những sinh vật được cứu chuộc. Vì họ đã được cứu chuộc, họ tạ ơn. Trong 4:11,  thì 24 trưởng lão không tạ ơn, nhưng nói về Chúa là xứng đáng về quyền bính. Những trưởng lão không có kinh nghiệm về sự cứu rỗi, họ chỉ biết quyền bính. Nhưng khi 24 trưởng lão nhìn thấy bốn con sanh vật ca ngợi, họ không ghen tị mà tham gia vào: "Và ấy là vì ý chỉ Chúa mà muôn vật đã có và được dựng nên". Theo điều ông Govett tra cứu, các bản chép tay tốt nhất chép, "Theo ý muốn Đức Chúa Trời tất cả mọi thứ đã không được, và đã được tạo ra," có nghĩa là trước đây Đức Chúa Trời  đã không tạo ra theo ý muốn của Ngài, và sau đó sự tạo ra của Ngài đã theo ý muốn của Ngài.

VII. Ai xứng xứng đáng mở cuộn sách?

(Khải huyền 5:1-4)

A. Khải Huyền 5:1

" Đoạn, tôi đả thấy trong tay hữu Đấng ngự trên ngai một quyển sách viết cả trong lẫn ngoài, niêm bảy ấn."

"Đấng ngồi trên ngai vàng" là Đức Chúa Trời Cha. Loại cuộn sách này là gì? Đó là Tân Ước. Tân Ước nói về cách thế nào Đức Chúa Trời cứu Hội thánh, dân Y-sơ-ra-ên, thế giới, và vũ trụ. Cuộn sách này cũng ghi lại quan điểm Đức Chúa Trời liên quan đến Hội thánh, dân Y-sơ-ra-ên, thế giới, và vũ trụ. "Niêm bảy con dấu (ấn) ." Điều này không có nghĩa là tháo mỗi con dấu rồi người ta mới thấy nhiều hơn một chút về cuộn sách. Thay vào đó, người ta phải tháo tất cả bảy ấn trước khi anh ta có thể nhìn thấy những gì đã được thành lập. Cuộn sách này là Tân Ước được huyết của Chiên Con thành lập. Đây là toàn bộ kế hoạch của Đức Chúa Trời trong Tân Ước.

B. Khải huyền 5:2

" Tôi cũng đã thấy một thiên sứ mạnh mẽ cất tiếng lớn truyền rằng: “Ai đáng mở sách và tháo ấn nó?”

Bởi vì tiếng nói đã thấu đến trời, đất, và bên dưới trái đất, một thiên thần mạnh mẽ  cần tuyên bố lớn tiếng, "Có Ai là người xứng đáng không?" Đây không phải là một vấn đề của quyền lực, mà là vấn đề đủ tư cách. Ai là người xứng đáng mang lại kế hoạch của Đức Chúa Trời? Không ai cả.

C. Khải huyền 5:3

"Dầu trên trời, dưới đất, hoặc bên dưới đất, không ai có thể mở sách ấy, hoặc xem nó được”.  

Giữa vòng các thiên sứ trên trời, những con người trên trái đất, và các linh ở dưới đất, không ai xứng đáng mở cuộn sách cả.

D. Khải huyền 5:4

"Vì không thấy ai đáng mở sách ấy hoặc xem nó, nên tôi khóc dầm dề".

Bởi vì John thấy rằng kế hoạch của Đức Chúa Trời không ai có thể thực hiện được, ông đã khóc nhiều. Đây là một trái tim đồng cảm với trái tim trên ngai vàng.

VIII. CHIÊN CON- SƯ TỬ

(Khải huyền 5:5-7)

A. Khải huyền 5:5

"Một trong các trưởng lão bèn nói với tôi rằng: “Chớ khóc; kìa, sư tử thuộc chi phái Giu-đa, Cội gốc của Đa-vít, đã đắc thắng để mở sách và tháo bảy ấn ấy".

"Sư tử của bộ tộc Giu-đa." Chúa xuất thân từ chi phái Giu-đa. Trước mặt Đức Chúa Trời, Chúa là Chiên Con, không phải là Sư Tử. Nhưng với người Do Thái, Chúa là Sư tử của bộ tộc Giu-đa, không phải là Chiên Con. Sư tử có quyền lực và là vua.

"Cội Gốc của David." David sống vừa lòng của Đức Chúa Trời và là vị vua đầu tiên được Đức Chúa Trời chọn. Chúa Giê-xu là sự nảy mầm của Jesse, bởi vì Ngài đến từ Jesse ( bố David) (Ê-sai 11:1). Nhưng Chúa Giêsu không phải là sự nảy mầm của David. Thay vào đó, Ngài là "Cội Gốc của David", vì David ra từ Chúa Giêsu. David đã trở thành một vị vua theo khuôn mẫu của Chúa Giêsu. Đức Chúa Trời cần một vị vua chiến thắng để mở cuộc sách, đến nỗi kế hoạch của Ngài có thể được thực hiện.

B. Khải huyền 5:6

"Tôi đã thấy chính giữa ngai và bốn sanh vật, cùng chính giữa các trưởng lão, có một Chiên Con đứng, hình như đã bị giết, có bảy sừng và bảy mắt, là bảy Linh của Đức Chúa Trời sai xuống khắp đất".

"Một Chiên Con đứng." Đây là cảnh tượng ở thời điểm thăng thiên của Chúa. "Có bảy sừng và bảy mắt." Sừng biểu thị quyền năng bởi vì những cái sừng của con bò và chiên đực thì mạnh mẽ. Do đó, trong Kinh Thánh có các lời diễn tả như "sừng của chúng ta sẽ được ngước lên" (Psa. 89:17), "sừng của sự cứu rỗi tôi" (Psa. 18:02), và vv. Đôi mắt biểu thị sự thông minh. Bảy Linh của Đức Chúa Trời không ở đó để tỏa sáng trên Đức Chúa Trời, nhưng có ở đó như các ngọn đuốc lửa được sai đi vào những nơi tối tăm. Bảy Linh trên Chúa Giêsu làm cho Ngài có quyền năng, trí thông minh, và .v..v.... (Ê-sai 11:2). Bảy Linh  khiến chúng ta đến với Chúa gần hơn và ca ngợi Ngài.

C. Khải huyền 5:7  

" Chiên Con đến, lấy sách ở tay hữu Đấng ngự trên ngai."

Ngay sau khi Ngài lấy cuộn sách, đã có các lời khen ngợi ở trên trời và trên mặt đất. Tân Ước được thực hiện thông qua bàn tay của Chiên Con.

IX. Ca ngợi của bốn con sanh vật và hai mươi bốn trưởng lão

(Khải huyền 5:8-10)

A. Khải Huyền 5:8-9

" Khi đã lấy sách rồi, bốn sanh vật và hai mươi bốn trưởng lão bèn sấp mình xuống trước mặt Chiên Con, mỗi kẻ cầm một đờn cầm và những bát vàng đầy hương, tức là lời cầu nguyện của các thánh đồ. 9 Chúng hát bài ca mới rằng: “Ngài đáng lấy sách mà mở những ấn ra,Vì Ngài đã chịu giết, lấy huyết mình mà mua họ cho Đức Chúa Trời. Từ trong các chi phái, các tiếng, các dân, các nước".

Mục đích cho những lời cầu nguyện của các thánh  đồ (câu 8) là sự hiện đến của Chúa. Đàn hạc để ca ngợi và "bát hương" để trình dâng những lời cầu nguyện. "Một bài hát mới." Bởi vì Chúa đã vừa mới chết một thời gian ngắn trước đây, đó là một bài hát mới. “Các chi phái, các tiếng, các dân, các nước." Bốn là con số của trái đất. "Mua ... loài người." Những "con người nầy " không phải là 24 trưởng lão, bởi vì câu nầy không nói "đã mua chúng ta."

B. Khải huyền 5:10

"Khiến họ nên nước, nên thầy tế lễ cho Đức Chúa Trời chúng tôi, và họ sẽ làm vua trên đất.”

Dựa trên những lời này, há không phải tất cả các tín hữu được làm vua và các thầy tế lễ sao? Thật vậy, chúng ta có thể nói điều này. Sự cứu rỗi của chúng ta dựa trên sự chết của Chúa, nhưng các thủ tục của sự cứu rỗi là dựa trên đức tin của con người. Trong cùng một cách, việc chúng ta làm các vị vua và các thầy tế lễ trước mặt Đức Chúa Trời dựa trên những thành tựu của huyết Chúa, nhưng các thủ tục mà thông qua đó chúng ta có được điều này là dựa trên hành vi của chúng ta.

X. Những lời ca ngợi của các thiên thần và các sinh vật

(Khải huyền 5:11-13)

" Đoạn, tôi đã thấy và nghe tiếng của nhiều thiên sứ xung quanh ngai và các sanh vật cùng các trưởng lão, số của chúng là muôn muôn ngàn ngàn, 12 cất tiếng lớn rằng: “Chiên Con đã chịu giết đáng được quyền năng, giàu có, khôn ngoan, lực lượng, tôn trọng, vinh hiển và chúc tụng!” 13 Tôi lại nghe mọi vật thọ tạo trên trời, dưới đất, bên dưới đất, trên biển, cùng mọi vật trong vũ trụ đều nói rằng: Nguyện sự chúc tụng, tôn trọng, vinh hiển và đại năng đều về nơi Đấng ngự trên ngai, cùng về nơi Chiên Con cho đến đời đời vô cùng!”

Câu 11 và 12 là những lời khen ngợi của các thiên thần, 24 trưởng lão, và các sinh vật sống. Câu 13 chứa đựng những lời khen ngợi của tất cả các loài thọ tạo trong vũ trụ và lời ca ngợi của bốn con sanh vật.

Watchman Nee