Thứ Sáu, 5 tháng 4, 2013

Alexandre Yersin –1


 

Lời Ban Biên Tập:
Alexandre Yersin là một khoa học gia nổi tiếng thế giới. Ông đã sống và làm việc tại Việt Nam hơn 50 năm và đã chọn Việt Nam làm quê hương. Năm 2013 là năm kỷ niệm sinh nhật nhật thứ 150 của Alexandre Yersin. Ngày 1/3/2013 là ngày tưởng niệm 70 năm Alexandre Yersin qua đời. Nhân dịp này Thư Viện Tin Lành xin giới thiệu với bạn đọc một ít về tiểu sử của Alexandre Yersin.  Bài viết đưới đây được trích từ sách Những Người Tin Lành Đầu Tiên Đến Việt Nam (2011).  Bài viết sẽ được đăng làm ba kỳ tại www.thuvientinlanh.org vào các ngày 1, 8, và 15/3/2013. Ban Biên Tập chân thành cảm ơn tác giả đã cho phép Thư Viện Tin Lành phổ biến tài liệu này.

Alexandre Yersin (1863-1943)
Hình Alexandre Yersin chụp vào năm 1893 – ba năm sau khi tới Việt Nam.
(Photo credit: www.wikipedia.org)

Một trong những người Pháp được nhiều người Việt biết đến đó là Bác sĩ Alexandre Yersin (1863-1943).  Alexandre Yersin là Giám đốc của Viện Pasteur tại Đông Dương.  Ông cũng là người sáng lập và là Viện Trưởng đầu tiên của Viện Đại Học Y Khoa Hà Nội.   Bác sĩ Alexandre Yersin cũng là một nhà thám hiểm, một nhà nghiên cứu về canh nông và là một khoa học gia nổi tiếng trên thế giới về vi trùng học.

Alexandre Yersin là một người Thụy Sĩ, gốc Pháp, nhưng ông sống phần lớn cuộc đời của ông tại Việt Nam và chọn Việt Nam làm quê hương.  Trong khi nhiều người biết Alexandre Yersin là một khoa học gia nổi tiếng, ít người biết ông là người Tin Lành, và ít người biết động cơ chính yếu đã thúc đẩy Alexandre Yersin đến Việt Nam.

Theo Giáo sư Đoàn Xuân Mựu,  cựu Giám Đốc Viện Dịch Tể Đà Lạt và là một người gần gũi với Alexandre Yersin, Alexandre Yersin là một tín hữu Tin Lành.  Sau vụ thảm sát những người Tin Lành Huguenots tại Pháp vào năm 1572, Hoàng đế Henry Đệ IV ban sắc chỉ cho phép người Tin Lành được phép thờ phượng trong giới hạn tại Pháp (Edict of Nantes - 1598).  Tuy nhiên, đến năm 1685, vua Louis XIV thu hồi chiếu chỉ này, ban hành một chiếu chỉ mới gọi là Edict of Fontainnebleau. Sắc lệnh của vua Louis XIV đặt người Tin Lành ra ngoài vòng pháp luật.  Vua Louis XIV cho các tín hữu Tin Lành Pháp hai sự chọn lựa:  một là từ bỏ đạo Tin Lành trở lại Công giáo,  hai là rời khỏi nước Pháp.  Trước hoàn cảnh đó, tổ tiên của Yersin đã lánh nạn sang Thụy Sĩ.  Yersin là hậu duệ đời thứ tám của những người Tin Lành Huguenots này.  Học giả Thái Văn Kiểm, cựu Tỉnh Trưởng tỉnh Khánh Hòa, trong bài viết Thân Thế và Sự Nghiệp Bác Sĩ Alexandre Yersin (1863-1943) cũng xác nhận chi tiết trên.

1. Tiểu Sử
Alexandre Yersin sinh ngày 22/9/1863 tại Lavaux, một làng nhỏ tại tổng Vaud  của Thụy Sĩ.  Vào nửa đầu của thế kỷ thứ 19,  các nhà truyền giáo Tin Lành tại Trung Hoa thường kêu gọi những thanh niên có trình độ học vấn tham gia vào chương trình truyền giáo qua phương tiện y khoa.  Đáp lời kêu gọi đó, sau khi tốt nghiệp trung học, Yersin theo học y khoa tại Đại học Lausanne được một năm (1883-1884). Năm 1884, Yersin sang Đức học y khoa tại University of Marburg. Đây là trường đại học xưa nhất do người Tin Lành sáng lập từ năm 1527.  University of Marburg  cũng là trường đại học y khoa rất uy tín tại Đức.  Tại đây, Yersin theo học với Emil Adolf von Behring, người vài năm sau đó đã đoạt giải Nobel Y Khoa đầu tiên của thế giới (1901).  Một thời gian sau, Alexandre Yersin sang Paris (1885-1888) thực tập tại Hôtel-Dieu Paris.
Năm 1886, Yersin gặp Louis Pasteur nhà nghiên cứu vi trùng học nổi tiếng nhất thế giới vào thời đó.  Ngưỡng mộ tài năng của Pasteur, Yersin xin vào làm nhân viên kỹ thuật của phòng thí nghiệm Pasteur tại École Normale Supérieure  để có cơ hội nghiên cứu.  Tại đây, Yersin trở thành phụ tá của Emile Roux, một học trò thân tín của Pasteur.

Năm 1888, Yersin hoàn tất luận án tiến sĩ với đề tài Etude sur le Développement du Tubercule Expérimental (Nghiên Cứu Về Sự Phát Triển Của Bệnh Lao Bằng Thực Nghiệm).  Luận án của Yersin rất ngắn chỉ hơn 20 trang với 6 minh họa, nhưng đây là những khám phá mới và quan trọng của ngành y khoa nên Yersin được ban Giáo sư của trường Đại Học Y Khoa Paris tặng huy chương đồng vào năm 1889.

Trong thời gian chờ bảo vệ luận án, Alexandre Yersin cộng tác với nhóm nghiên cứu của Emile Roux nghiên cứu về các độc tố bạch hầu.  Alexandre Yersin và Emile Roux  sang Đức làm việc vài tháng.  Đây là những nghiên cứu tiên phong của ngành vi trùng học vào thời đó.  Như đã nói ở trên, vị giáo sư dạy ông trong lĩnh vực này về sau đã được trao giải Nobel về y khoa là Emil Adolf von Behring (Nobel 1901).

Louis Pasteur và Emile Roux quí mến ý chí, tính tình và tài năng của  Yersin.  Hai khoa học gia này muốn mời Yersin cùng nghiên cứu lâu dài nên đã khuyên Yersin nhập tịch Pháp để được phép ở lại làm việc tại Pháp. Yersin đã làm theo lời khuyên của những người bảo trợ mình.  Yersin nhập tịch Pháp vào năm 1888, tuy nhiên ông có một dụng ý xa hơn.
Hơn một năm sau khi Alexandre Yersin tốt nghiệp, ngày 14/11/1889 Viện Pasteur tại Paris được khánh thành. Yersin được mời vào làm việc tại đây với vai trò là cộng sự viên của Emile Roux. Ngoài việc nghiên cứu, Alexandre Yersin còn có trách nhiệm dạy môn vi sinh vật cho các sinh viên.  Emile Roux và Alexandre Yersin là những người đầu tiên soạn giáo trình và dạy môn vi sinh vật trên thế giới.

2. Động Lực Đến Đông Dương
Mới 26 tuổi, tốt nghiệp với văn bằng tiến sĩ y khoa, được mời làm việc trong một viện nghiên cứu y khoa nổi tiếng, tại một thành  phố tráng lệ vào thời đó, cuộc sống tốt đẹp và tương lai sáng lạng dọn sẵn cho nhà khoa học trẻ tuổi.  Tuy nhiên, Alexandre Yersin không dừng lại ở đó.  Ông đi theo một tiếng gọi cao cả hơn.
Từ nhỏ, Alexandre Yersin ngưỡng mộ David Livingstone (1813-1873), một bác sĩ và là một nhà truyền giáo Tin Lành người Anh. David Livingstone là một trong những người đã sốt sắng hưởng ứng việc truyền giáo qua phương tiện y khoa.  Đáp ứng lời kêu gọi của Mục sư Charles Gützlaff, một nhà truyền giáo Tin Lành tại Trung Hoa,  David Livingstone đã thuyết phục cha của ông cho ông học y khoa và sau đó sẽ tình nguyện đi truyền giáo qua lãnh vực y khoa tại Trung Hoa. Chẳng may sau khi David Livingstone tốt nghiệp, cuộc Chiến Tranh Nha Phiến diễn ra tại Trung Hoa.  Vì tình hình tại Trung Hoa bất an nên Hội Truyền Giáo London quyết định gởi Livingstone sang Phi Châu.

Khi đến Phi Châu, bên cạnh chức vụ giáo sĩ trong lĩnh vực y khoa, David Livingstone đã trở thành một nhà thám hiểm. Ông thực hiện nhiều chuyến hành trình xuyên Phi Châu.  Ông  khám phá thượng nguồn sông Nile và giúp cho thế giới biết về vẻ đẹp và sự phong phú của châu Phi.  Sau khi nổi tiếng, David Livingstone dùng uy tín của mình để đấu tranh cho việc bãi bỏ nô lệ, cải tổ chế độ phong kiến và cổ võ cho việc kinh doanh.  Để thay đổi Phi Châu, lúc đó được gọi là lục địa đen, khỏi tình trạng hoang sơ, David Livingstone  đã hoạt động với phương châm bắt đầu bằng ba chữ C: “Christianity, Commerce and Civilization”  - Cơ Đốc giáo, Kinh Doanh và Khai Hóa. 
Noi gương David Livingstone, Alexandre Yersin cũng học y khoa và chờ ngày đi truyền giáo.  Ông giấu kín ý định đi truyền giáo của mình cho bạn bè và những người cộng sự. Ngoài chuyện học hành nghiên cứu, Yersin đã dành nhiều thì giờ nghiên cứu bản đồ Trung Hoa và Đông Dương.

Thế kỷ 19 là thế kỷ phấn hưng của phong trào truyền giáo Tin Lành.  Các giáo sĩ tiên phong thường kêu gọi các thanh niên Âu Châu tận hiến cuộc đời để truyền bá tình yêu của Chúa cho những dân tộc tại các quốc gia xa xôi.  Prong trào phục hưng trong cộng đồng Tin Lành khởi đầu từ thập niên 1730 tại Anh với các Mục sư John Wesley và George Whitefield.  Trong suốt hơn 150 năm kế tiếp, các giáo sĩ Tin Lành đã hoạt động gần như mọi miền trên thế giới; tuy nhiên có vài nơi có đông dân nhưng các giáo sĩ Tin Lành vẫn chưa đặt chân tới.
Vào cuối thế kỷ 19, các tạp chí truyền giáo thường đăng lời kêu gọi: Sudan, Tây Tạng và Đông Dương là những khu vực rộng lớn đông dân nhưng vẫn chưa có giáo sĩ Tin Lành nào đến hoạt động.  Alexandre Yersin và Albert Schweitzer – người nhận giải Nobel Hòa Bình 1952  – là những bác sĩ Tin Lành đã đáp ứng lời kêu gọi đó.  Alexandre Yersin  đến Đông Dương và Albert Schweitzer  đến Gabon, Phi Châu.  Bên cạnh việc chia xẻ tình yêu của Chúa cho những dân tộc đang sống trong vùng đất xa xôi, những người này đã dùng những kiến thức y tế và khoa học nâng cao cuộc sống của các dân tộc đó.

Làm việc tại Viện Pasteur Paris chưa trọn một năm, tháng 9 năm 1890 Alexandre Yersin từ chức lên tàu Messangeries Maritimes sang Đông Dương.  Vì không hiểu động lực sâu kín của Yersin, các cộng sự viên và bạn bè ông kinh ngạc khi ông từ bỏ công việc nghiên cứu, giảng dạy và một vị trí quan trọng tại viện Pasteur nổi tiếng tại Paris để làm một bác sĩ trên một chiếc tàu viễn dương.  Sau khi Yersin ra đi, Louis Pasteur viết trong nhật ký vào ngày 21/10/1890 như sau: “Sự thôi thúc đi đến các quốc gia xa xôi thình lình cuốn hút Yersin, và không có cách nào để giữ anh ở lại với chúng ta.”

Là người Tin Lành gốc Pháp,  Alexandre Yersin hiểu được những khó khăn mà người Tin Lành phải đối diện khi sống trong lãnh thổ Pháp.  Yersin biết được lý do lúc đó vì sao tại Đông Dương những nhà truyền giáo Tin Lành không được phép hoạt động. Do đó, Yersin không xin làm giáo sĩ cho London Mission Society hoặc Paris Mission Society, những cơ quan truyền giáo Tin Lành.  Yersin chỉ xin nhập tịch Pháp.  Như Sứ Đồ Phao Lô trong Thánh Kinh dùng quốc tịch Roma và nghề may trại của mình đi từ nơi này sang nơi khác hầu việc Chúa, Alexandre Yersin đến Đông Dương với tư cách là một khoa học gia Pháp chứ không phải là một nhà truyền giáo Tin Lành thuần túy.  Tháng 10 năm 1890, Yersin đến Sài Gòn.  Tháng 7 năm 1891, trên chuyến tàu từ Sài Gòn đi Hải Phòng, Yersin bị chinh phục bởi vẻ đẹp của bờ biển Nha Trang.  Yersin đã chọn thị trấn ven biển này làm nơi định cư.
(còn tiếp)