VIỆC LÀM VỮNG MẠNH CỦA THÁNH LINH
Việc làm vững mạnh của Thánh Linh là cần thiết để nhân linh kiểm soát
hồn và thân thể con người và để trở nên ống dẫn để Thánh Linh tuôn chảy sự sống
cho nhiều người. Epheso 3:16 nói: “Để theo sự phong phú của vinh hiển Ngài,
Ngài ban cho anh em được vững mạnh bằng quyền năng qua Linh Ngài vào trong
người bên trong”. Đây là lời mà vị sứ đồ cầu nguyện cho các tín đồ. Nếu điều
này không quan trong thì vị sứ đồ chắc chắn sẽ không cầu nguyện về vấn đề này.
Ông xin Đức Chúa Trời làm vững mạnh bên trong của tín đồ qua Linh Ngài. “Người
bên trong” là người mới của tín đồ chỉ có được sau khi tin Chúa. Vì vậy, đây là
linh của tín đồ, linh được tái sanh. Lời cầu nguyện của vị sứ đồ là để linh của
tín đồ được làm cho vững mạnh bởi Thánh Linh hầu cho linh có thể trở nên mạnh
mẽ.
Câu này bảo chúng ta rằng một số tín đồ có linh yếu đuối, trong khi
những người khác có linh mạnh mẽ. Việc linh của tín đồ mạnh hay yếu phụ thuộc
vào việc người ấy có đặc biệt được Thánh Linh ban quyền năng hay không. Các tín
đồ ở Epheso đã được đóng ấn bằng Thánh Linh từ trước rồi (Eph 1:13-14). Vì vậy,
điều vị sứ đồ cầu thay cho họ chắc hẳn phải là một món quà khác hơn. Thánh Linh
đang cư trú trong họ. Ý nghĩa của lời cầu nguyện của vị sứ đồ là họ không chỉ
tiếp nhận Thánh Linh cư trú trong linh mà còn có quyền năng đặc biệt của Thánh
Linh đổ vào trong linh họ để làm cho bên trong họ có thể trở nên mạnh mẽ. Một
tín đồ có thể có Thánh Linh cư trú trong linh mình mà vẫn có một linh yếu đuối.
Một tín đồ phải nhận thức sự yếu đuối của chính linh mình. Khi đó,
người ấy sẽ cầu nguyện để Thánh Linh đổ đầy linh mình bằng quyền năng, được đổ
đầy bằng quyền năng trong linh là nhu cầu của tín đồ. Nhiều lần, thân thể của
một tín đồ hoàn toàn khỏe mạnh nhưng người ấy vẫn cảm thấy hơi lười một chút.
Vào những lúc như vậy, công tác cho Chúa dường như không thể kham nổi và lòng
người ấy không sẵn sàng nhất. Điều này bày tỏ rằng linh người ấy yếu đuối và
không thể kiểm soát tình cảm.. Vào những lúc như vậy, việc lao tác cho Chúa
cũng dường như bất khả thi. Trong vườn Gethsemane, các môn đồ thật sự có loại
kinh nghiệm này. Nguyên nhân của điều này là gì? Đó là vì “linh thì muốn nhưng
xác thịt thì yếu đuối” (Matt 26:41). Chỉ có lòng muốn trong linh thì không đủ;
linh còn phải mạnh mẽ nữa. Khi mạnh mẽ, linh có thể đắc thắng sự yếu duối của
xác thịt. Đôi lúc khi một tín đồ rao giảng và công tác trên một ai đó, dường
như thể người ấy không thể làm bất cứ điều gì và không có cách nào chế ngự
người kia. Đây là do thiếu quyền năng trong linh của tín đồ. Nếu tình trạng
ngược lại, khi tín đồ không thể cứu người kia thì đó không phải là do thiếu
quyền năng mà là do người kia không muốn được cứu. Đối với môi trường cũng như
vậy. Do sự rối loạn bên ngoài. Nếu linh mạnh mẽ, người ấy có thể quản lý tình trạng
rối loạn nhất cách bình tịnh và điềm tĩnh. Sự cầu nguyện là thử nghiệm lớn nhất
cho sức lực của linh. Những người có linh mạnh mẽ có thể cầu nguyện nhiều và sẽ
không bỏ cuộc trước khi lời cầu nguyện được đáp lại. Những người có linh yếu
đuối sẽ thấy khó nài xin Đức Chúa Trời trong vài năm hoặc vài chục năm mà không
mệt mỏi và chán nản. Đối với mọi vấn đề đều như vậy. Chỉ những người có một
linh mạnh mẽ mới có nghị lực để liên tục tiến tới bất kể môi trường và cảm xúc
như thế nào. Nếu không, họ sẽ sớm cảm thấy rằng mình không thể chịu nổi nữa.
Trong việc chiến đấu với Satan, thậm chí càng cần quyền năng trong linh hơn
nữa. Chỉ những người thật sự có quyền năng trong linh mới biết cách vận dụng
quyền năng của linh để kháng cự và tấn công kẻ thù. Nếu không có quyền năng, mọi
sự chiến đấu chỉ là một vở kịch. Nếu điều đó không ra từ sự tưởng tượng của tâm
trí thì cũng ra từ sự phấn khích của cảm xúc và đôi khi thậm chí là sức lực
thiên nhiên của xác thịt.
Vì vậy, để tín đồ nhận được quyền năng của Thánh Linh, thì về phía người
ấy cần hoàn thành một số công tác. Người ấy phải là một người đầu phục cách cụ
thể; người ấy phải từ bỏ mọi điều và mọi hành động đáng nghi ngờ trong nếp sống
của mình; người ấy phải sẵn lòng hoàn toàn vâng phục ý muốn của Đức Chúa Trời;
người ấy phải tin rằng Đức Chúa Trời sẽ đổ quyền năng của Thánh Linh vào trong
linh mình; và người ấy phải cầu nguyện cho vấn đề này. Nếu không có sự ngăn trở
về phía tín đồ thì Đức Chúa Trời sẽ lập tức hoàn thành điều người ấy hi vọng.
Tín đồ không cần chờ Thánh Linh đến và đổ đầy họ, vì Thánh Linh đã ngự xuống từ
rất lâu rồi. Tín đồ chỉ phải chờ thập tự giá công tác đủ sâu bên trong mình để
thỏa đáp điều kiện cần thiết cho sự đổ đầy của Thánh Linh. Nếu tín đồ trung
tín, vâng phục và tin cậy thì trong một thời gian rất ngắn, quyền năng của
Thánh linh sẽ đổ vào trong linh người ấy, làm cho người trở nên mạnh mẽ và cung
cấp sức lực để người ấy sống và công tác. Đối với một số tín đồ, chỉ cần đầu
phục Chúa trong một vấn đề thôi thì họ cũng đã có thể lập tức nhận được sự đổ đầy
mà không có bất cứ sự trì hoãn nào, vì họ đã thỏa đáp điều kiện cần thiết cho
sự đổ đầy của Thánh Linh.
Việc Thánh Linh đổ quyền năng vào trong tín đồ - cũng có thể gọi là
việc tín đồ được đầy dẫy linh – là vấn đề diễn ra trong linh, người bên trong.
Thánh Linh không đổ đầy cảm xúc hay thân thể con người, đúng hơn, Ngài đổ đầy
nhân linh. “Người bên trong” được chỗi dậy và trở nên mạnh mẽ bằng nghị lực từ
Thánh Linh, không phải người bên ngoài. Đây là điều tối quan trọng, vì điều đó
giữ gìn chúng ta khỏi việc tìm kiếm các cảm xúc thuộc thể, như là rung lắc, co
giật và ngã xuống, khi chúng ta tìm kiếm sự đổ đầy của Thánh Linh, thay vì đơn
giản áp dung đức tin (Gal. 3:14). Tuy nhiên, một tín đồ phải cẩn thận đừng bao
giờ xem đức tin là một cái cớ để không cần sự làm vững mạnh bên trong của Thánh
Linh. Các điều kiện phải được thỏa đáp và thái độ phải vững chắc. Đức Chúa Trời
sẽ hoàn thành lời hứa của Ngài.
Nếu chúng ta đọc điều vị sứ đồ nói trong đoạn kế tiếp về cách lĩnh hội,
nhận biết và được đổ đầy thì chúng ta sẽ nhận thức rằng việc làm vững mạnh
trong linh khiến cho ý thức của linh chúng ta trở nên rất rõ ràng. Linh, giống
như thân thể, có các chức năng và ý thức của linh. Khi tín đồ chưa có quyền
năng của Thánh Linh đổ linh vào mình cách dư dật thì người ấy khó lĩnh hội được
trực giác của linh. Một khi người ấy có kinh nghiệm mới mẻ về việc được làm
vững mạnh trong linh, thì trực giác của linh người ấy trở nên rất sáng tỏ. Cho
nên, nhiều tín đồ sẽ dễ nhận biết trực giác của linh mình hơn vì người bên trong
họ đã trở nên mạnh mẽ. Khi điều này xảy ra, họ sẽ càng có khả năng cảm nhận các
sự chuyển động nhẹ nhàng của linh mình.
Một linh đầy dẫy quyền năng của Thánh Linh có thể kiểm soát hồn cũng
như thân thể và khiến chúng hoàn toàn thuận phục. Bất kể là ý tưởng, niềm ao
ước, cảm xúc hay trực giác, thì cũng đều phải được kiểm soát bởi linh. Điều này
sẽ giữ gìn chúng ta khỏi việc hành động cách độc lập; đúng hơn, hồn sẽ là quản
gia của linh. Điều này cũng làm cho Thánh Linh có thể tuôn ra sự sống của Đức
Chúa Trời qua linh của tín đồ hầu cho Ngài có thể tưới nước và phục hồi những
người khô hạn và chết chóc. Điều này khác với sự baptism trong Thánh Linh. Việc
làm vững mạnh này nhấn mạnh đến nếp sống hoặc cách sống (nó cũng tác động đến
công tác); tuy nhiên, sự baptism trong Thánh Linh đặc biệt là vì chủ đích công
tác.
BƯỚC ĐI THEO
LINH
Chúng ta đã thấy thể nào một tín đồ thuộc hồn trở nên một tín đồ thuộc
linh. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là người ấy sẽ không còn bước đi theo
xác thịt nữa. Trái lại, người ấy luôn luôn có nguy cơ rơi vào trong việc thuộc
xác thịt. Satan luôn luôn thức canh. Mỗi khi có cơ hội, hắn sẽ khiến tín đồ
đánh mất vị trí cao trọng của mình và bị đem trở lại cách sống thấp kém. Vì
vậy, điều quan trọng là một tín đồ luôn luôn thức canh và bước đi theo linh,
khi đó, người ấy có thể luôn luôn thuộc linh.
Rô ma 8 nói rõ về tầm quan trọng của việc bước đi theo linh. Câu 4 đến
câu 6 nói: “Để sự đòi hỏi công nghĩa của luật pháp có thể được làm trọn trong
chúng ta, những người không bước đi theo xác thịt nhưng theo linh; Ai theo
linh, đặt tâm trí trên những điều của linh”; “Tâm trí đặt trên linh là sự sống
và hòa bình”. Bước đi theo linh tương phản với bước đi theo xác thịt. Nếu một
tín đồ không bước đi theo linh, thì người ấy đang bước đi theo xác thịt. Có lúc
người ấy bước đi theo linh và có lúc theo xác thịt. Nhưng người ấy chỉ nên bước
đi theo linh. Một tín đồ phải học tập chỉ bước đi theo linh, chỉ bước đi theo
trực giác của linh, không một giây phút nào bước đi theo hồn hay thân thể. Một
người bước đi theo linh sẽ “có tâm trí thuộc linh”. Việc có tâm trí thuộc linh
giống như vậy khiến cho toàn bản thể của một người trở nên “sự sống và hòa
bình”. Vì vậy, kết quả của việc bước đi theo linh là sự sống và hòa bình.
Sống theo linh nghĩa là bước đi theo trực giác (xem phần năm, chương
một). Sống theo linh là sống, công tác và hành động trong linh. Đó cũng là sử
dụng sức lực của linh và được cai trị bởi linh. Do đó, sự sống và sự hòa bình
luôn luôn được duy trì. Nếu một tín đồ không bước đi theo linh, người ấy không
thể duy trì tính thuộc linh của mình. Vì vậy, người ấy phải biết các chức năng
khác nhau của linh và luật của linh để biết cách bước đi theo linh.
Bước đi theo linh là nhiệm vụ hàng ngày của các tín đồ, là điều không
được từ bỏ. Chúng ta phải biết rằng đang khi sống trên đất, chúng ta không sống
theo các cảm xúc tốt lành của mình, làm bất cứ điều gì chúng ta cảm thấy nên
làm. Chúng ta cũng không nên sống theo
các ý tưởng tốt lành trong tâm trí của mình, làm bất cứ điều gì chúng ta nghĩ
cách đột ngột hoặc liên tục. Chúng ta phải hành động và cư xử theo sự hướng dẫn
trong trực giác của linh. Ý thức nhỏ bé của linh là nơi Thánh Linh biểu hiện ý
tưởng của Ngài. Thánh linh không trực tiếp công tác trên tâm trí chúng ta để
khiến chúng ta đột ngột nghĩ về một điều gì đó. Công tác của Thánh Linh luôn
luôn được thực hiện trong linh của chúng ta. Vì vậy, nếu chúng ta muốn hiểu tâm
trí của Thánh linh, chúng ta phải bước đi theo trực giác trong linh mình. Đôi
khi, linh chúng ta có ý thức nhưng chúng ta không biết điều đó nghĩa là gì,
điều đó yêu cầu và diễn đạt điều gì. Khi đó, chúng ta phải dành nhiều thời gian
trong sự cầu nguyện để tâm trí chúng ta có thể hiểu ý nghĩa của trực giác. Sau
khi hiểu được chúng ta phải bước đi theo. Tâm trí có thể đột ngột hiểu trực
giác nghĩa là gì. Tuy nhiên, nếu không có trực giác thì chúng ta không nên bước
theo ý tưởng đột ngột của tâm trí mình. Sự dạy dỗ của trực giác là ý tưởng của
Thánh Linh. Chúng ta phải bước theo điều này thôi.
Loại bước đi theo linh này đòi hỏi sự lệ thuộc và đức tin. Chúng ta đã
thấy rằng mọi hành vi tốt lành của xác thịt đều độc lập với Đức Chúa Trời, chứ
không lệ thuộc vào Đức Chúa Trời. Bản chất của hồn là độc lập. Nếu một tín đồ
muốn bước đi theo ý tưởng, cảm xúc và niềm ao ước của riêng mình, người ấy sẽ
không cần dành thời gian chờ đợi Đức Chúa Trời, cầu nguyện với Đức Chúa Trời và
lệ thuộc Đức Chúa Trời hướng dẫn mình. “Làm theo niềm ao ước của xác thịt và
các ý tưởng” (Eph. 2:3) thì không cần lệ thuộc. Chỉ khi một tín đồ muốn tìm kiếm
ý muốn của Đức Chúa Trời, biết rằng mình vô dụng, không đáng tin cậy và yếu
đuối vô phương cứu chữa, người ấy mới có một tấm lòng lệ thuộc Đức Chúa Trời.
Nếu muốn Đức Chúa Trời hướng dẫn mình trong linh, người ấy phải chờ đợi Đức
Chúa Trời trong linh mình và không tùy tiện nhận lấy các cảm xúc và ý tưởng
riêng làm sự hướng dẫn của mình. Tín đồ phải nhớ rằng bất cứ điều gì được thực
hiện và có thể được thực hiện mà không lệ thuộc, chờ đợi, tin cậy và tìm kiếm
Đức Chúa Trời, đều là đang bước đi theo xác thịt. Chỉ khi nào tin cậy cách run
rẩy để Đức Chúa Trời hướng dẫn trong linh thì chúng ta mới đang bước đi theo
linh.
Bước đi cũng cần đức tin. Đức tin tương phản với việc nhìn thấy và cảm
thấy. Cảm xúc của hồn luôn luôn đòi hỏi, nắm bắt và ao ước mọi điều có thể nhìn
thấy và cảm thấy được như một sự bảo đảm dể hành động và cư xử. Nếu một tín đồ
bước đi theo linh, người ấy không bước đi theo hồn. Nói cách khác, người ấy
bước đi bởi đức tin và không bởi mắt thấy. Vì vậy, một người bước đi theo linh,
về một mặt, sẽ không cảm thấy ngã lòng nếu không có sự giúp đỡ từ con người, và
mặt khác, cũng không bị lay chuyển khi có sự chống đối từ con người. Bởi đức
tin, người ấy có thể tin cậy Đức Chúa Trời trong sự tối tăm và không lệ thuộc
vào tài xoay xở của mình; người ấy có thể tin cậy năng lực không thấy được
nhiều hơn năng lực thấy được của chính mình.
Việc bước đi theo linh có hai phần: một là bắt đầu công tác và hai là
làm công tác với quyền năng. Nhiều lần, tín đồ thiếu sự khải thị để làm một số
điều trong trực giác của linh, nhưng người ấy lại xin Đức Chúa Trời ban cho
mình quyền năng thuộc linh để làm công tác này. Điều này là không thể, vì điều
gì được sinh bởi xác thịt là xác thịt. Đôi khi, điều tín đồ làm là dựa trên tri
thức về ý muốn của Đức Chúa Trời qua sự khải thị trong linh, nhưng người ấy lại
dùng năng lực riêng để làm công tác này (xem phần hai, chương bốn). Điều này
cũng không thể, vì điều gì đã bắt đầu trong linh thì không thể được hoàn hảo
bởi xác thịt. Để bước đi theo Chúa, một người phải bị Chúa phá vỡ đến mức người
ấy tuyệt đối không tự tin; người ấy phải nhận thức rằng không có ý tưởng tốt
lành nào xuất phát từ chính mình; và người ấy không thể có bất cứ năng lực nào
để hoàn tất công tác được Thánh Linh khởi đầu. Người ấy phải từ bỏ mọi ý tưởng,
sự khôn khéo, tri thức, khả năng, và ân tứ; người ấy phải tuyệt đối lệ thuộc
Chúa. Thế giới thờ phượng và tin cậy những điều này cách mê tín. Nhưng từng lúc
một, chúng ta phải xưng nhận rằng chúng ta bị kết thúc, vô giá trị, bất năng và
vô dụng. Chúng ta không dám làm bất cứ điều gì trước khi Đức Chúa Trời truyền
lệnh; thậm chí trong điều Đức Chúa Trời truyền lệnh, chúng ta cũng không dám có
một chút tự tin nào.
Nếu muốn bước đi theo linh theo cách này, chúng ta phải bước theo ý
thức nhỏ bé trong trực giác của linh để bắt đầu công tác, và chúng ta phải lệ
thuộc vào quyền năng của linh để làm công tác được khải thị bởi trực giác. Việc
không bước theo các ý tưởng, ý kiến, cảm xúc và khuynh hướng, nhưng chỉ bước
theo trực giác, sẽ khiến chúng ta có một khởi đầu tốt. Việc không lệ thuộc vào
tài năng, năng lực và khả năng của chúng ta nhưng chỉ lệ thuộc vào năng lực của
linh, sẽ khiến chúng ta tiếp tục được hoàn hảo. Chúng ta phải nhớ rằng ngay khi
ngừng bước đi theo linh, chúng ta lập tức bắt đầu bước theo xác thịt và đặt tâm
trí trên những điều của xác thịt, để cho sự chết vận hành trong linh chúng ta.
Chỉ khi nào không bước theo xác thịt, chúng ta mới có thể bước đi theo linh.
“Vì ai theo xác thịt đặt tâm trí trên những điều của xác thịt….vì tâm trí đặt
trên xác thịt là sự chết” (Rô ma 8:5-6).
Chủ đích của chúng ta là trở nên người thuộc linh, chứ không phải trở
nên một linh. Sự biện biệt này sẽ giúp cho nếp sống thuộc linh của chúng ta
không trở nên phiến diện. Chúng ta là con người, và sẽ mãi mãi là con người, nhưng
sự đạt đến cao nhất của việc làm người là làm một người thuộc linh. Các thiên
sứ là linh, không phải con người. Họ không có thân thể và hồn. Con người có hồn
và thân thể. Chúng ta là những người thuộc linh chứ không phải là các linh. Vì
vậy, chúng ta vẫn có hồn và thân thể. “Người thuộc linh” không phải là người
chỉ có linh, không có hồn và thân thể; trong trường hợp đó, người ấy sẽ là một
linh chứ không phải là một người. Là “người thuộc linh” đơn giản nghĩa là một
người thuận phục sự cai trị của linh mình. Linh là phần cao nhất của toàn bộ
con người. Chúng ta phải chú ý nhiều đến điểm này; nếu không chúng ta sẽ hiểu
lầm. Các chức năng và quan năng của hồn và thân thể không bị xóa bỏ khi một
người trở nên thuộc linh. Một người thuộc linh vẫn có hồn và thân thể.
Người thuộc linh vẫn có ý muốn, tâm trí và tình cảm của hồn. Mặc dù đây
là các phần khác nhau của sự sống-hồn, nhưng các chức năng này là những điều
thiết yếu để làm người. Vì vậy, mặc dù người thuộc linh không sống bởi chúng
nhưng người ấy không phá hủy chúng. Trái lại, chúng đã chết, được đổi mới và
phục sinh. Do đó, bây giờ chúng hoàn toàn hiệp nhất với linh để làm công cụ
biểu hiện linh. Người thuộc linh có tình cảm, tâm trí và ý muốn, nhưng những
điều đó hoàn toàn thuận phục sự hướng dẫn của trực giác trong linh.
Người thuộc linh có tình cảm,
nhưng tình cảm của người ấy không hành động cách độc lập như trước đây nữa; nó
hoàn toàn ở dưới sự kiểm soát của linh. Bây giờ tình cảm người ấy không còn có
các sở thích, tình yêu và cảm xúc riêng, là những điều đã từng cản trở linh và
chống đối mọi chuyển động của linh. Bây giờ nó chỉ thích những gì linh thích,
chỉ yêu những điều linh chọn và chỉ cảm nhận điều linh cho phép. Linh là sự
sống của tình cảm và tình cảm đáp ứng với sự chuyển động của linh ngay lập tức.
Người thuộc linh cũng có tâm trí, nhưng tâm trí người ấy không lơi lỏng
như trước đây nữa; nó cùng công tác với linh. Tâm trí không chống đối sự khải
thị của linh bởi các lập luận và lý lẽ của nó. Nó không quấy rầy sự yên tĩnh
trong linh bởi các ý tưởng khó hiểu. Nó không khoe khoang trong sự khôn ngoan
riêng và không bất phục sự khải thị của linh. Nó có cùng một tâm trí với linh
và hợp tác với linh để tiến lên trong hành trình thuộc linh. Nếu linh có sự
khải thị, tâm trí sẽ hiểu thông suốt ý nghĩa của sự khải thị đó. Nếu linh bị
“suy yếu” vì phải chiến đấu, tâm trí sẽ hỗ trợ linh chiến đấu. Nếu linh muốn
dạy lẽ thật, tâm trí sẽ giúp linh suy nghĩ và hiểu biết. Linh có quyền năng để
dừng các ý tưởng của tâm trí và cũng có quyền năng để làm cho tâm trí suy nghĩ.
Người thuộc linh cũng có ý muốn, nhưng ý muốn của người ấy không tập
trung vào chính mình như trước đây nữa; nó không độc lập đối với Đức Chúa Trời
nhưng vâng phục hoặc từ chối theo tiếng có hoặc không của linh. Nó không còn có
ý muốn riêng hoặc bất phục ý muốn của Đức Chúa Trời nữa. Nó không còn cứng cỏi
và không thể được làm mềm mại nữa. Nó hoàn toàn bị phá vỡ; nó không còn kháng
cự Đức Chúa Trời nữa, không còn công tác nghịch với Đức Chúa Trời nữa và không
còn hoang dã và khó khuất phục nữa. Hễ có sự khải thị của linh và hiểu biết ý
muốn của Đức Chúa Trời, nó sẽ thay mặt linh quyết định bước theo như thể nó là
người cung phụng của linh, đứng ở cửa và chờ lệnh của linh vậy.
Thân thể của người thuộc linh cũng thuận phục linh. Nó không lôi kéo
hồn phạm tội lỗi bởi các dục vọng của nó như trước đây nữa. Bây giờ nó được
huyết quý báu tẩy sạch, các dục vọng của nó được thập tự giá xử lý và nó hoàn
toàn là nô lệ của hồn, mà hồn thì nhận lệnh từ linh. Nó nhanh chóng đáp ứng với
quyền kiểm soát trọn vẹn trên nó bởi ý muốn được đổi mới. Nó không còn đàn áp
linh yếu đuối nữa. Linh của người thuộc linh đã được làm cho vững mạnh và thân
thể ở dưới quyền năng của linh.
Vị sứ đồ đề cập đến tình trạng thật của một người thuộc linh trong 1
Thessalonica 5:23: “Và chính Đức Chúa Trời của sự hòa bình thánh hóa anh em
hoàn toàn, và nguyện linh, hồn và thân thể anh em chịu bảo tồn trọn vẹn”. Câu
này nói về người thuộc linh như sau:
(1)
Người ấy có Đức
Chúa Trời cư trú trong linh mình để thánh hóa người ấy hoàn toàn. Sự sống của
linh, được đổ vào trong toàn bản thể người ấy, khiến cho mọi quan năng đều sống
bởi sự sống của linh và bước đi bởi quyền năng của linh.
(2)
Người ấy không
sống bởi sự sống-hồn. Tâm trí, sự tưởng tượng, cảm xúc, ý kiến, tình yêu và ý
tưởng của người ấy đều được đổi mới và làm sạch bởi Thánh linh. Những điều này
hoàn toàn ở dưới sự cai trị của linh và không còn hành động cách độc lập nữa,
(3)
Mặc dù người ấy
vẫn có thân thể và không phải là linh đã lìa khỏi thân thể, nhưng sự mệt mỏi,
đau đớn và các đòi hỏi khác của thân thể tuyệt đối không ảnh hưởng trên linh,
khiến linh đánh mất vị trí thăng thiên. Mọi chi thể của thân thể đều là công cụ
của sự công nghĩa.
Vì vậy, người thuộc linh là người thuộc về linh. Toàn bộ thân vị của
người ấy đều được cai trị bởi linh, và mọi quan năng của thân vị người ấy đều
hoàn toàn ở dưới linh và được điều chỉnh bởi linh. Linh người ấy là đặc điểm
của nếp sống người ấy; mọi sự đều ra từ linh. Người ấy có sự lệ thuộc tuyệt
đối: điều người ấy nói và điều người ấy làm đều không phải bởi người ấy tự do
thực hiện. Người ấy luôn luôn phủ nhận sức lực riêng của mình và nhận lấy sức
lực từ linh. Một người thuộc linh là một người sống bởi linh.
Watchman Nee (Người Thuộc Linh)