Một tín đồ được tái sanh, với linh được làm cho sống động và Thánh Linh
nội cư bên trong, có thể vẫn còn là một tín đồ đầy xác thịt hoặc thuộc xác
thịt, và linh người ấy có thể vẫn bị hồn hoặc thân thể đàn áp. Có một lối mòn
cụ thể mà một tín đồ được tái sanh phải nhận lấy cách cụ thể để thành công
trong việc trở nên thuộc linh
Nói cách ngắn gọn, ít nhất có thể có hai sự thay đổi lớn trong nếp sống
của một con người– thay đổi từ một tội nhân bị diệt vong trở thành một tín đồ
được cứu và thay đổi từ một tín đồ thuộc xác thịt thành một người thuộc linh.
Thật ra, giống như một tội nhân có thể trở nên một tín đồ thì một tín đồ thuộc
xác thịt cũng có thể trở nên người thuộc linh. Đức Chúa Trời có thể khiến cho một tội nhân trở nên tín đồ
và có sự sống Ngài; Đức Chúa Trời cũng có thể khiến cho một tín đồ thuộc xác
thịt trở nên một tín đồ thuộc linh và có sự sống Ngài dư dật hơn. Khi một người
tin vào Đấng Christ, người ấy trở nên một tín đồ được tái sanh; khi vâng phục
Thánh Linh, người ấy trở nên một tín đồ thuộc linh. Khi một người có mối liên
hệ bình thường với Đấng Christ, người ấy trở nên Cơ Đốc nhân; và khi một người
có
một mối liên hệ bình thường với Thánh Linh, người ấy trở nên người thuộc
linh
Chỉ có Thánh Linh mới có thể làm cho một tín đồ trở nên thuộc linh.
Công tác của Thánh Linh là làm cho con người trở nên thuộc linh. Trong sự sắp
xếp đường lối cứu chuộc của Đức Chúa Trời, về phương diện tiêu cực, thập tự giá
thực hiện công tác phá hủy, phá hủy mọi điều ra từ Adam. Về phương diện tích
cực, Thánh Linh thực hiện công tác xây dựng, xây dựng mọi điều ra từ Đấng
Christ. Thập tự giá khiến các tín đồ có thể trở nên thuộc linh và Thánh Linh
làm cho các tín đồ trở nên thuộc linh. Thánh Linh làm vững mạnh nhân linh để
Ngài có thể cai trị toàn bản thể. Vì vậy, nếu chúng ta theo đuổi việc trở nên
thuộc linh, chúng ta không được quên Thánh Linh và không được đặt thập tự giá
qua một bên, vì thập tự giá và Thánh Linh công tác như tay trái và tay phải
vậy. Không thể thiếu điều nào và không một điều nào trong hai điều này công tác
cách độc lập. Thập tự giá luôn hướng dẫn con người đến Thánh Linh và Thánh Linh
luôn hướng dẫn con người đến thập tự giá. Một tín đồ thuộc linh phải có các
kinh nghiệm trong linh mình với Thánh Linh. Nếu muốn trở nên một người thuộc
linh, người ấy phải có nhiều bước kinh nghiệm. Chú ý đến các bước này không
nhất thiết là phải đi từ bước một đến bước hai, rồi từ bước hai đến bước ba.
Tuy nhiên, khi được viết ra thì chúng phải được viết theo thứ tự, mặc dù trong
kinh nghiệm thực tế, chúng thường diễn ra cùng một lúc.
Mặc dù có nhiều điều chúng ta muốn đề cập đến về cách các tín đồ diễn
tiến để trở nên người thuộc linh, nhưng các tín đồ cũng đừng quên các sự dạy dỗ
trước đó (Phần Hai, các Chương Bốn và Năm). Các tín đồ phải biết rằng điều ngăn
trở một người trở nên thuộc linh là xác thịt. Vì vậy, nếu một tín đồ có thể
nhận lấy thái độ dứt khoát mà người ấy phải có đối với xác thịt thì người ấy sẽ
dễ dàng tiến bộ. Điều lạ lùng là một người càng thuộc linh thì người ấy càng
nhận biết và khám phá ra xác thịt. Nếu một người không nhận biết xác thịt thì
người ấy không thuộc linh. Mọi điều được đề cập đến trước đây về xác thịt (Phần
Hai, Chương Năm) là nền tảng để một người theo đuổi việc trở nên thuộc linh và
không ai được xao lãng. Nếu chúng ta không chý ý đến xác thịt thì dù có thể có loại
tiến bộ gì đi nữa, thì điều đó cũng là vô ích, nông cạn và hão huyền. Thật ra,
một khi tín đồ biết cách phủ nhận xác thịt và các hoạt động, khả năng và ý kiến
của nó trong mọi điều thì chúng ta có thể nói rằng người này thuộc linh. Nhưng
chúng ta cũng sẽ đề cập đến một điều gì đó tích cực trực tiếp liên hệ đến linh.
SỰ PHÂN CHIA LINH VÀ HỒN
(SO VỚI PHẦN BA, CHƯƠNG NĂM,
“PHẦN CHIA LINH VÀ HỒN”)
Ý chính của Hebrew 4:12 là chúng ta đang sống theo sự hướng dẫn của
trực giác trong linh mình hay đang sống dưới sự ảnh hưởng của các điều thích và
không thích thiên nhiên (thuộc hồn) của mình. Lời Đức Chúa Trời sẽ thẩm phán
chúng ta về nhiều vấn đề như vậy, cho chúng ta thấy điều gì thuộc về linh và
điều gì thuộc về hồn. Chỉ có lời sắc bén của Đức Chúa Trời mới có thể biện biệt
rõ nguồn của cách sống chúng ta. Giống như dao của con người có thể phân chia
xương và tủy thì lời Đức Chúa Trời cũng có thể phân chia linh và hồn bị gắn
chặt nhất. Sự phân chia này ban đầu chỉ là tri thức và về sau phải trở nên kinh
nghiệm. Thật ra, các tín đồ có thể nhận biết thể nào linh và hồn được phân chia
chỉ bởi kinh nghiệm. Tín đồ phải kinh nghiệm việc để cho Chúa phân chia hồn và
linh của mình. Người ấy không chỉ phải ao ước, theo đuổi, dâng mình, cầu nguyện
và để cho Thánh Linh và thập tự giá công tác bên trong mình mà còn phải có được
và sở hữu loại kinh nghiệm này. Trong thực tế, linh của một tín đồ phải được
giải phóng khỏi sự bao bọc của hồn. Hồn và linh phải được phân chia rõ ràng,
giống như linh và hồn của Chúa Jesus không hề bị pha trộn vậy. Linh của trực
giác phải hoàn toàn được tự do để làm nơi cư trú và văn phòng duy nhất của
Thánh Linh và không để cho hồn (tức là tâm trí và tình cảm) có một chút ảnh
hưởng nào. Linh phải được tự do khỏi mọi sự vướng bận của hồn.
Công tác của thập tự giá trên sự sống – hồn phải rất thực tế, và sự
giới hạn mà thập tự giá đặt trên sự sống hồn phải rất xác định. Sự sống – hồn
phải chịu tổn thất trong kinh nghiệm. Quan năng của hồn phải giữ đúng vị trí ở
dưới sự cai trị của linh.
Một tín đồ phải có các kinh nghiệm về việc hồn và linh được phân chia
đến mức linh không còn bị hồn bao vây nữa. Chỉ khi ấy, người ấy mới có thể trở
nên một tín đồ thuộc linh. Một tín đồ thuộc linh khác với người khác trong việc
toàn bản thể của người ấy được cai trị bởi linh. Sự cai trị của linh không chỉ
là sự cai trị của Thánh Linh trên hồn và thân thể. Linh của một tín đồ chỗi dậy
để làm đầu của toàn bản thể người ấy bởi công tác của Thánh Linh qua thập tự
giá; thay vì bị hồn và thân thể cai trị, linh có sức lực để hoàn toàn kiểm
soát hồn và thân thể.
Sự phân chia hồn và linh là công tác không thể thiếu về phương diện
tiêu cực để một tín đồ bước vào trong nếp sống thuộc linh. Đây là sự chuẩn bị
thuộc linh. Nếu không có điều này, tín đồ sẽ luôn bị tác động bởi hồn, và linh
với hồn sẽ thường bị pha trộn trong cách sống của người ấy. Có lúc người ấy có
cách sống thuộc linh nhưng có lúc người ấy sống bởi sự sống thiên nhiên. Sự
biểu hiện của sự sống không thuần khiết. Sự pha trộn giữa linh và hồn là nguyên
tắc sống của một tín đồ không có nếp sống thuộc linh thuần khiết. Điều này giữ
tín đồ lại trong vị trí thuộc hồn. Nếp sống của chính người ấy sẽ chịu tổn thất
và Thánh Linh của Đức Chúa Trời sẽ không thể sử dụng người ấy để thực hiện công
tác quan trọng.
Nếu có một sự phân chia đích thực cho linh và hồn của tín đồ và người
ấy bước đi theo linh, không theo hồn, thì mỗi khi hồn người ấy phản ứng, người
ấy sẽ lập tức cảm thức điều đó, như thể người ấy đang bị làm cho ô uế, và tranh
đấu để phá vỡ quyền năng và tầm ảnh hưởng của hồn. Sự sống thiên nhiên thật sự
là ô uế và có thể làm ô uế linh. Sau khi phân chia linh và hồn, trực giác của
linh sẽ rất nhạy bén. Mỗi khi hồn hành động, nó sẽ lập tức chịu đau đớn và bị
kháng cự. Thậm chí khi người khác hành động trong hồn, điều đó lập tức gây cảm
giác khó chịu. Thậm chí khi điều đó là đối tượng của tình yêu hoặc tình cảm
thuộc hồn của người khác, họ vẫn cảm thấy khó chịu dường như không thể chịu
nổi. Chỉ khi việc phân chia linh và hồn của tín đồ nên rất thực tế thì người ấy
mới có các cảm nhận và trực giác tinh sạch đích thực. Chỉ khi đó người ấy mới có sự hiểu biết thật về ý
nghĩa của việc trở nên “tinh sạch”. Chỉ khi đó người ấy mới biết rằng không chỉ
những điều tội lỗi làm ô uế mà mọi sự thiên nhiên đều làm ô uế và cũng phải bị
từ chối. Người ấy nhận biết và cảm nhận trong trực giác của linh rằng mọi sự
tiếp xúc với những điều thuộc hồn – bất kể là của chính người ấy hay của người
khác – đều làm ô uế và phải được tẩy sạch ngay lập tức.
TRI THỨC VỀ VIỆC ĐƯỢC KẾT HIỆP
VỚI CHÚA NHƯ MỘT LINH
Paul nói: “Ai được kết hiệp với Chúa là một linh” (1 Cor 6:17), không
phải một hồn. Chúa phục sinh là Linh ban sự sống (1 Cor.15:45); vì vậy, mối liên
hiệp của Ngài với các tín đồ là mối liên hiệp của Ngài với linh của các tín đồ.
Hồn chỉ là nhân cách của một người và là thiên nhiên; nó chỉ nên được dùng như
một chiếc bình để biểu hiện các kết quả của mối liên hiệp giữa Chúa với linh
của tín đồ. Trong hồn của các tín đồ, không có điều gì tương xứng với bản chất
của sự sống Chúa; chỉ có linh mới có thể có một mối liên hiệp như vậy. Vì mối
liên hiệp đó là một mối liên hiệp của linh nên không có chỗ cho hồn. Nếu hồn và
linh vẫn còn bị pha trộn thì điều đó sẽ làm cho mối liên hiệp không thuần
khiết. Chỉ cần cách sống của chúng ta còn có bất cứ dấu vết nào của việc bước
đi theo các ý tưởng của mình, có ý kiến riêng của mình trong bất cứ điều gì
hoặc có cảm xúc bị khuấy động theo bất cứ cách nào, thì cũng đủ để làm suy yếu
mối liên hiệp này trong kinh nghiệm của chúng ta. Chỉ có những điều có bản chất
tương tự mới có thể có một mối liên hiệp ăn khớp. Sự pha trộn sẽ không tạo nên
một mối liên hiệp như vậy. Giống như Linh của Đức Chúa Trời là thuần khiết và
không có bất cứ dấu vết nào của sự pha trộn thì linh chúng ta cũng phải thuần
khiết để có thể có một mối liên hiệp chân thật và thực tế. Nếu tín đồ không sẵn
lòng buông bỏ các ý tưởng riêng kỳ diệu của mình, không sẵn lòng từ bỏ các sở
thích riêng của mình và không sẵn lòng đặt qua một bên các ý kiến riêng của
mình để vâng phục ý muốn của Đức Chúa Trời thì sẽ không biểu hiện mối liên hiệp
này trong kinh thánh. Đây là mối liên hiệp của linh; bất cứ điều gì của hồn đều
không thể được phép pha trộn vào.
Mối liên hiệp này ra từ đâu? Nó ra từ sự chết và sự phục sinh với Chúa.
“Vì nếu chúng ta được chôn với Ngài trong hình trạng của sự chết thì chúng ta
cũng thật sự ở trong hình trạng của sự phục sinh Ngài” (Rô ma 6:5). Câu này
giải thích ý nghĩa của việc chúng ta được kết hiệp với Chúa, là được kết hiệp
với sự chết và sự phục sinh của Ngài. Được kết hiệp với Chúa trong sự chết và
sự phục sinh nghĩa là gì? Điều đó đơn giản nghĩa là chúng ta hoàn toàn làm một
với Chúa. Chúng ta chấp nhận sự chết của Ngài làm sự chết của chúng ta và việc
kết hiệp với Ngài trong sự chết như khởi đầu của việc chúng ta được kết hiệp
với Ngài. Vì đã chết với Ngài nên chúng ta cũng chấp nhận sự phục sinh của Ngài
như sự phục sinh của chúng ta. Nếu chấp nhận như vậy bởi đức tin, chúng ta sẽ
đứng cùng với Ngài trong vị trí phục sinh trong kinh nghiệm. Chúa Jesus được
phục sinh theo Linh của sự thánh khiết (Rô ma 1:4) và được làm cho sống trong tâm
linh Ngài (1 Pet 3:18) Vì vậy, khi được kết hiệp với Ngài trong sự phục sinh,
chúng ta được kết hiệp với Ngài trong Linh của sự phục sinh Ngài. Điều này rất
rõ ràng. Chúng ta chết đối với mọi sự thuộc về chính mình và chống đối với Linh
Ngài. Đó là ý nghĩa ở đây. Mọi điều được hoàn thành qua sự vận dụng đức tin
(xem Phần Ba, Chương Một, “Phương Cách để Được Giải Phóng Khỏi Tội lỗi”). Khi
chúng ta được kết hiệp với sự chết Ngài, đánh mất mọi điều tội lỗi và thiên
nhiên, và được kết hiệp với Chúa trong sự sống phục sinh, linh chúng ta sẽ được
kết hiệp với Chúa để làm một linh. Rô ma 7:4 và 6 nói: “Anh em cũng được làm
cho chết đối với luật pháp qua thân thể của Đấng Christ hầu cho anh em có thể
được kết nối với người khác, Đấng đã sống lại từ kẻ chết…để phục vụ trong sự
mới mẻ của linh”. Chúng ta đã được kết hiệp với Đấng Christ bởi sự chết của Đấng
Christ và chúng ta cũng được kết hiệp với sự sống phục sinh của Ngài. Kết quả
của loại liên hiệp này là chúng ta phục vụ trong sự mới mẻ của linh, mà không
có bất cứ sự pha trộn nào.
Thật kỳ diệu biết bao! Thập tự giá là nền tảng của mọi sự. Mục đích và
kết quả công tác của thập tự giá là linh của một tín đồ sẽ được kết hiệp với
Chúa phục sinh như một linh. Thập tự giá phải công tác sâu xa về mặt tiêu cực,
về phương diện phá hủy, để làm cho tón đồ đánh mất mọi điều tội lỗi và thiên
nhiên. Chỉ khi đó tín đồ mới có thể được kết hiệp với sự sống phục sinh, tích
cực của Chúa như một linh. Linh của tín đồ phải khiến mọi điều tín đồ có trải
qua sự chết, hầu cho mọi điều thiên nhiên và thế tục sẽ được đánh mất trong sự
chết, để cho linh, trong sự tươi mới của sự phục sinh, được kết hiệp với Chúa
làm một linh cách thuần khiết, không có bất cứ sự pha trộn nào. Linh của tín đồ
được kết hiệp với Linh Chúa và hai linh được kết hiệp là một linh. Kết quả của
mối liên hiệp này là khả năng phục vụ Chúa trong “sự mới mẻ của linh”. Không có
điều gì của bản ngã thiên nhiên hoặc sự sống động thiên nhiên bị pha trộn trong
cách sống và công tác. Từ giờ trở đi, hồn và thân thể chỉ được dùng để biểu
hiện sự sống và công tác của chính Chúa. Theo cách này, sự sống của linh sẽ
biểu lộ bản chất của chính linh trong mọi sự và sẽ có các kinh nghiệm thường
xuyên về việc “tuôn chảy ra” Linh Chúa.
Đây là nếp sống thăng thiên. Tín đồ được kết hiệp với Chúa, Đấng ngồi
bên tay hữu Đức Chúa Trời. Linh của Chúa ở trên ngai tuôn chảy đến linh của tín
đồ ở trong thế giới, nhưng không thuộc về thế giới, và sự sống trên ngai được
sống ra trên đất. Đầu và Thân Thể có cùng một sự sống tuôn chảy. Sau khi được
kết hiệp với Chúa phục sinh, hằng ngày tín đồ phải tiếp tục “kể” và “giao nộp”.
Khi đó Chúa có thể đổ quyền năng ban sự sống của Ngài ra qua linh của tín đồ.
Giống như vòi nước được kết nối với một suối nước tuôn ra từ nước hằng sống,
thì linh của tín đồ, được kết hiệp với Linh Chúa, cũng phun ra sự sống. Đây là
vì Chúa không chỉ là Linh mà còn là “Linh ban sự sống”. Không điều gì có thể
ngăn trở một tín đồ như vậy. Linh người ấy đầy dẫy sự sống và không điều gì có
thể giới hạn sự sống này vì linh người ấy gắn chặt với Linh ban sự sống. Chúng
ta cần sự sống trong linh mình hầu cho chúng ta có thể luôn luôn có sự chiến
thắng trong nếp sống hàng ngày của mình. Chúng ta có thể có được mọi chiến
thắng của Chúa Jesus bởi một mối liên hiệp như vậy. Chúng ta có thể nhận biết
mọi ý muốn và tâm trí của Ngài bởi một mối liên hiệp như vậy. Một mối liên hiệp
như vậy khiến cho tín đồ có được sự sống và bản chất của Chúa và xây dựng sáng
tạo mới của Chúa trong mình. Bởi sự chết và sự phục sinh, linh của một tín đồ
sẽ thăng thiên, giống như Chúa đã thăng thiên; người ấy sẽ ở trong “các nơi thiên
thượng” trong kinh nghiệm, đạp nát mọi điều thế tục dưới chân mình. Bởi kết
hiệp với Chúa như một linh, linh của tín đồ không còn bị ngăn trở bất cứ điều
gì và không còn bị quấy rầy bởi bất cứ điều gì nữa. Thay vi vậy, linh bay vút
lên cõi thiên thượng vượt trên các đám mây, luôn luôn tự do và luôn luôn tươi
mới. Linh sẽ có cái nhìn sáng tỏ, thiên thượng về mọi sự. Điều này khác với các
cảm xúc thế tục, thuộc tình cảm; đó là nếp sống thiên thượng được sống ra trên
đất. Một cách sống như vậy có bản chất thiên thượng bên trong và đó là thuộc linh.
TRI THỨC VỀ SỰ NỘI CƯ CỦA THÁNH LINH
Thánh Linh ở bên trong tín đồ, nhưng tín đồ không nhận biết hoặc không
vâng phục Ngài. Vì vậy, người ấy phải nhận biết Thánh Linh nội cư bên trong
mình và hoàn toàn vâng phục Ngài. Tín đồ phải biết rằng Thánh Linh của Đức Chúa
Trời, là một thân vị nội cư bên trong để dạy dỗ, hướng dẫn và ban “thực tại” lẽ
thật, trong Đấng Christ cho tín đồ. Công tác này của Thánh Linh chỉ có thể được
thực hiện khi tín đồ nhận biết hồn mình dốt nát và đần độn thể nào và quyết
định rằng mặc dù ngu dại, nhưng người ấy sẵn lòng chịu dạy dỗ. Tín đồ phải sẵn
lòng để cho Thánh Linh nắm giữ mọi sự và khải thị lẽ thật. Khi tín đồ biết rằng
Thánh Linh của Đức Chúa Trời cư trú trong phần sâu nhất của bản thể mình, trong
linh mình và chờ đợi sự dạy dỗ của Ngài thì Thánh Linh có thể công tác. Khi
chúng ta không tự theo đuổi một mình và sẵn lòng chịu dạy dỗ, Thánh Linh có thể
dạy chúng ta lẽ thật theo cách mà tâm trí chúng ta có thể tiêu hóa được. Nếu
không thì sẽ có một nguy cơ. Khi chúng ta biết rằng bên trong chúng ta có linh,
Nơi Chí Thánh của Đức Chúa Trời, là điều sâu hơn tâm trí và tình cảm, là điều
có thể tương giao với Thánh Linh và khi chúng ta chờ đợi Thánh Linh của Đức
Chúa Trời thì chúng ta biết rằng Ngài thật sự nội cư trong chúng ta. Khi chúng
ta xưng nhận và tôn trọng Ngài, Ngài sẽ biểu lộ quyền năng và công tác của Ngài
từ nơi kín giấu bên trong chúng ta và sẽ cho phép sự sống của hồn và ý thức của
chúng ta có sự sống của Ngài.
Các tín đồ Corinth
thuộc xác thịt. Khi Paul thuyết phục họ lìa khỏi tình trạng thuộc xác thịt, ông
nài khuyên họ thêm một lần nữa rằng họ là đền thờ của Thánh Linh và Thánh Linh
nội cư trong họ. Việc nhận biết rằng Thánh Linh nội cư trong một tín đồ sẽ giúp
chúng ta thoát ra khỏi tình trạng thuộc xác thịt. Tín đồ phải nhận biết bởi đức
tin, nhận biết cách hoàn toàn, sáng tỏ và liên tục rằng Thánh Linh thật sự nội
cư trong mình. Tín đồ không nên chỉ biết các giáo lý trong Kinh Thánh, là điều
nói về Thánh Linh, người ấy phải nhận biết chính Thánh Linh. Với loại tri thức
này, tín đồ phải giao nộp mình cho Thánh Linh cách không dè dặt để được đổi mới
và sẵn lòng để các phần khác nhau của hồn và thân thể mình thuận phục Ngài, để
Ngài hướng dẫn và điều chỉnh.
Vị sứ đồ hỏi các tín đồ Corinth:
“Anh em không biết rằng anh em là đền thờ của Đức Chúa Trời và Linh Đức Chúa
Trời cư trú trong anh em sao?” (1 Cor 3:16). Dường như ông ngạc nhiên về sự
thiếu hiểu biết của họ về một điều chắc chắn như vậy. Ông xem sự nội cư của
Thánh Linh là kết quả đầu tiên của sự cứu rỗi, nhưng họ lại không biết điều
này! Tín đồ ở mức độ nào, thậm chí ở mức thấp nhất như người Corinth, thì cũng không thành vấn đề. Đáng
tiếc là nhiều tín đồ cũng không khá hơn họ! Họ phải biết rõ sự kiện này. Nếu
không có điều này, một tín đồ sẽ thuộc xác thịt và không thể trở nên thuộc
linh. Nếu chưa từng kinh nghiệm việc Ngài nội cư thì anh em có bao nhiêu nhận
biết trong đức tin rằng Ngài nội cư trong anh em không?
Khi chúng ta xem xét thể nào Thánh Linh là Đức Chúa Trời, thể nào Ngài
là một trong Đức Chúa Trời Tam Nhất, thể nào Ngài là sự sống của Cha và Con và
rồi xem xét xa hơn về sự cao trọng của Ngài và thể nào Ngài nội cư trong chúng
ta, những người thuộc xác thịt, chắc chắn chúng ta sẽ kính sợ, tôn trọng và
ngợi khen Ngài. Chúa Jesus mặc lấy hình trạng của xác thịt tội lỗi, và Thánh
Linh cư trú bên trong hình trạng của xác thịt tội lỗi. Điều này thật là ân
điển!
Watchman Nee (Người thuộc Linh)