Thứ Năm, 15 tháng 1, 2015

NỀN TẢNG VỮNG CHẮC-

 (Heb. 5: 11-14; 6: 1-3).
"Theo thời gian thì đáng lẽ anh em đã làm thầy từ lâu rồi nhưng nay còn cần có kẻ dạy anh em các điều sơ học về nguyên lý sấm ngôn của Đức Chúa Trời" (Heb. 5:12). Với gánh nặng lớn, vị sứ đồ đang viết những lời này với các tín hữu Hê-bơ-rơ. Họ đã nhận được lời Chúa cặp theo quyền năng trong nhiều năm. Lẽ ra, họ đã phát triển nhiều về mặt thuộc linh và trở thành giáo viên, nhưng họ vẫn như trẻ em. Họ không sẵn sàng tiếp nhận thịt cứng, giống như con người không thể nhận được thực phẩm cứng. "Nhưng đồ ăn cứng thì để cho kẻ trưởng thành, tức là kẻ nhờ sự hay sử dụng mà luyện tập ngộ tài mình để phân biệt thiện ác" (Heb. 5:14).

Trong những ngày này, chúng tôi cũng nhận thấy rằng các tín hữu ở nhiều nơi trên thế giới vẫn còn như trẻ con thuộc linh trong một thời gian dài. Dù có tất cả các kiến thức kinh thánh, họ vẫn còn trẻ con về thuộc linh. Họ không có sự hiểu biết về những điều sâu sắc của Đức Chúa Trời. Paul muốn chia sẻ nhiều điều với các tín hữu Hê-bơ-rơ, nhưng ông không thể làm như vậy bởi vì tình trạng thơ ấu thuộc linh của họ. Thông điệp chính của sứ đồ cho người Hê-bơ-rơ là về "sự cứu rỗi lớn lao" và "Cứu Chúa lớn lao". Paul cho chúng ta thấy sự vĩ đại của Chúa Giêsu Christ của chúng ta, là Thầy thượng tế thuộc thiên của chúng ta và sự cứu rỗi lớn, trong đó chúng ta có được qua Ngài. Các tín hữu Hê-bơ-rơ như những trẻ con trong lớp nhà trẻ, chỉ  được dạy những điều sơ học.

Bây giờ câu hỏi là tại sao họ vẫn cứ là trẻ con thuộc linh. Bởi vì họ không có một sự hiểu biết rõ ràng và chắc chắn về các nguyên tắc cơ bản của sự cứu rỗi. Paul nói, "anh em …còn cần có kẻ dạy anh em các điều sơ học về nguyên lý sấm ngôn của Đức Chúa Trời, và anh em đã trở nên như kẻ cần sữa, chớ không phải đồ ăn cứng " (Heb. 5:12). Vì vậy, nếu bạn không được rõ ràng và chắc chắn về nền tảng, cơ bản, là nguyên tắc đầu tiên của sự cứu rỗi, chúng ta không thể phát triển thuộc  linh. Một tòa nhà mà không có một nền tảng vững chắc sẽ không đứng lâu. Khi bão tố  đến nhiều tòa nhà đổ xuống, vì  chúng không có một nền tảng vững mạnh và sâu. Chúa đã cảnh báo chúng ta trong Lời của Ngài rằng sẽ có nhiều cơn bão trong khi chúng ta còn sống trên trái đất này. Trong Mathew 7:27, chúng ta thấy rõ những gì đã xảy ra với các nhà xây dựng trên đất cát. Trừ khi chúng ta đứng trên một nền tảng vững mạnh, chúng ta sẽ ngã xuống như ngôi nhà đó. Chúng tôi nhận thấy nhiều tín hữu mất đức tin của họ khi họ phải đối mặt với những khó khăn, rắc rối, và thử nghiệm. Họ bị xúc phạm và có thể dễ dàng rút lui, ra đi  theo những lời dạy dỗ sai lạc hoặc bởi các sự thu hút trần tục. Trong suốt cuộc đời của chúng ta, chúng ta phải đối mặt với nhiều cơn bão và đó là lý do tại sao chúng ta phải đảm bảo rằng chúng ta đang ở trên một nền tảng vững chắc.

Trước hết, chúng ta phải đảm bảo rằng chúng ta được xây dựng dựa trên nền tảng của Chúa Jesus Christ "Vì chúng tôi là bạn đồng công với Đức Chúa Trời; anh em là ruộng của Đức Chúa Trời, nhà của Đức Chúa Trời. Theo ân điển Đức Chúa Trời đã ban cho tôi, tôi đã lập nền như một tay kiến trúc khôn khéo, mà có kẻ khác xây cất lên trên. Nhưng ai nấy phải coi chừng thể nào mình xây cất trên nền đó.  Vì chẳng ai có thể lập nền khác ngoài nền đã lập, là Jêsus Christ "(I Cor 3: 9-11).

Chúng ta phải đảm bảo rằng chúng ta có một kinh nghiệm sống, xác định, cá nhân, về sinh hoạt của Chúa Giêsu Christ. Sau khi đã chắc chắn về kinh nghiệm cá nhân của chúng ta về sự cứu rỗi, mà chúng ta có trong Ngài, chúng ta phải được xây dựng dựa trên nền tảng của các sứ đồ và tiên tri. "Được xây dựng trên nền các sứ đồ và tiên tri, chính Christ Jêsus là đá đầu góc nhà,  các gian nhà đều kết liên trong Ngài, lần lần lớn lên nên đền thờ thánh của Chúa. Trong Ngài anh em cũng cùng được xây dựng để làm chỗ ở của Đức Chúa Trời trong Thánh Linh"(Eph 2: 20-22).

Chúng ta làm theo những gì các sứ đồ và các tiên tri dạy trong kinh thánh. Đó là về trật tự thuộc thiên. Chúng ta không thể thay đổi thứ tự thần thượng và kế hoạch thuộc thiên vì chúng ta đã được ban cho theo một cách rất rõ ràng tất cả các hướng dẫn cần thiết cho sự phát triển thuộc linh của chúng ta. Phaolô cho thấy trong bức thư gửi người Hê-bơ-rơ làm thế nào để đến trên nền tảng này. Nếu bạn muốn tiến đến sự trọn vẹn, hãy sáng tỏ và chắc chắn về các nguyên tắc cơ bản, đầu tiên của giáo lý sự cứu rỗi. " Ấy vậy, chúng ta nên gác qua sự sơ học về đạo Đấng Christ mà bươn tới sự trọn vẹn, chớ nên lập lại nền tảng nữa, như sự ăn năn việc chết, đức tin đến Đức Chúa Trời, sự dạy dỗ về báp-têm, về sự đặt tay, về sự sống lại của kẻ chết, và về sự xét đoán đời đời"(Heb. 6: 1-2).


Ở đây vị sứ đồ nói về sáu nguyên tắc cơ bản và đầu tiên của giáo lý sự cứu rỗi. Đầu tiên là sự ăn năn về những công việc chết; điều thứ hai là niềm tin đối với Đức Chúa Trời; thứ ba là báp-têm; thứ tư sự đặt tay; thứ năm là sự sống lại của người chết; và điều thứ sáu là sự phán xét đời đời. Chúng tôi có thể chia thành ba nhóm, mỗi nhóm có hai nền tảng, vì chúng đi chung với nhau - sự ăn năn và đức tin đi đôi với nhau; tương tự như vậy, báp-têm và đặt tay đi với nhau và sự sống lại của người chết với sự xét đoán đời đời và đi cùng nhau.

1. HỐI CẢI (Ăn Năn)
Trước hết hãy xem ăn năn có nghĩa là gì. Chúng ta phải nhận ra rằng chúng ta không bao giờ có thể được xưng nghĩa bằng những việc làm tốt. Không ai có thể trở nên công chính, công nghĩa bởi những nỗ lực của riêng mình, tuy nhiên con người vẫn cố thử.  Nhưng bởi đức tin bất kỳ ai cũng có thể trở nên công bình. Chúng ta chỉ có thể tin. Không phải bởi việc làm. "Vì nhờ ân điển bởi đức tin mà anh em được cứu, ấy không phải từ anh em đâu, bèn là ban tứ của Đức Chúa Trời;  cũng chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe khoang"(Eph 2: 8-9). Không ai trong chúng có thể trở nên công chính hay công nghĩa trước mặt Đức Chúa Trời bằng lời cầu nguyện dài hoặc bằng cách kiên ăn hoặc bằng kiến thức về Kinh Thánh, hay bởi đau khổ, hay bất kỳ hoạt động nào khác.

Đó là điều đầu tiên chúng ta phải nhớ. Nhiều người nghĩ rằng bằng cách sống cuộc sống đơn giản hoặc bằng cách tham gia vào tiệc thánh của Chúa, họ có thể trở nên công bình hơn. Chúa Jesus Christ, chính thân vị sống động của Ngài là sự công bình của chúng ta. "Nhưng ấy là nhờ Ngài mà anh em được ở trong Christ Jêsus, là Đấng mà Đức Chúa Trời đã làm nên sự khôn ngoan, sự công nghĩa, sự thánh hóa, và sự cứu chuộc cho chúng ta (I Cor 1:30).

Ngài đã phải trả giá đầy đủ cho các tội lỗi của chúng ta. Ngài tiếp lấy sự phán xét, hình phạt và lên án của chúng ta, vì vậy bạn hãy ăn năn khỏi các công việc chết. Chúng tôi thấy rằng quốc gia Do Thái đui mù cách thuộc linh vì sự tự xưng nghĩa và tiêu chuẩn đạo đức cao của họ. Rô-ma 4: 5 nói, "Còn kẻ chẳng làm việc chi, nhưng tin Đấng xưng tội nhân là công nghĩa, thì đức tin của kẻ ấy được kể là công nghĩa".  

Chúng ta phải rất rõ ràng về điểm này. Chúa Jesus Christ là Đức Chúa Trời Hằng Sống. Khi chúng ta dự phần bàn tiệc thánh của Chúa, chúng ta làm chứng rằng Ngài là bánh của chúng ta. Ngài là sự sống của chúng ta và Ngài là sự công bình của chúng ta. Chúng ta phải chiếm hữu sự công bình của Ngài cách liên tục. Đó là do chiếm hữu sự sống của Ngài bởi đức tin mà chúng ta trở nên công bình hơn. Nếu không chúng ta đi vào sự đấu tranh và cố gắng để trở nên thánh thiện thì sẽ bị đánh bại một lần nữa và một lần nữa. Đó là lý do tại sao nhiều người rơi vào sự định tội.
Họ đấu tranh rất khó nhọc để trở nên công bình, nhưng họ không thể trở nên công bình. Những nỗ lực của chúng ta để trở nên công bình giống như các công việc chết. Vì vậy, Paul nói rằng điều đầu tiên phải chết để trở nên công bình là phải ăn năn khỏi các công việc chết như vậy. Chúng ta tin rằng với tất cả tấm lòng của chúng ta, rằng Chúa đã chiếm lấy chỗ của chúng ta, chịu sự phán xét và trừng phạt của chúng ta và chính Ngài là sự công bình của chúng ta. Bởi đức tin, chúng ta sẽ nhận được nhiều hơn và nhiều hơn nữa trong sự sống của Ngài. Mỗi lần chúng ta bị đánh bại, chúng ta nên nói: "Lạy Chúa, tôi không tôn vinh trong bản thân mình. Ngài là sự sống và sự công bình của tôi. "Đó là nguyên tắc đầu tiên, nguyên tắc cơ bản và là nền tảng của sự cứu rỗi.

2. ĐỨC TIN-
Bây giờ nguyên tắc cơ bản thứ hai của giáo lý về sự cứu rỗi là đức tin. Chúng ta phải có niềm tin đối với Đức Chúa Trời. Đối với tất cả mọi thứ, chúng ta cần phải có đức tin. Đối với sự cầu nguyện, chúng ta cần đức tin. Để nhận được sự sống của Ngài, chúng ta cần đức tin. Nếu không có đức tin, bất cứ điều gì chúng ta làm sẽ là một thất bại. Đó là lý do tại sao rất nhiều lần Chúa nói với người bệnh, "đức tin ngươi đã cứu ngươi" (Luca 7:15, 8:48, 17:19, 18:42). Theo Mathew 9: 2, khi thấy đức tin của bốn người khiêng người đàn ông thực sự bại liệt, Chúa chữa lành cho. Bởi đức tin, chúng ta có thể hiểu được những điều vô hình. "Vả, đức tin là thực thể hóa của điều mình hi vọng, bằng cớ của điều mình chưa thấy" (Heb. 11: 1).

Những điều vô hình, đó là điều có thật, không thể được hiểu bằng điều thấy được. Tuy nhiên chúng ta có thể thông minh, dù chúng là bí ẩn đối với chúng ta, nhưng bởi đức tin chúng ta có thể hiểu được những bí ẩn thuộc thiên và những thứ vô hình. Bởi đức tin, những lời cầu nguyện của chúng ta được trả lời. Bởi đức tin, chúng ta được hưởng quyền năng của Ngài. Tất cả đều bởi đức tin. Như vậy chúng ta thấy đức tin là nguyên tắc cơ bản và là nền tảng của đời sống cầu nguyện, nghiên cứu kinh thánh hay bất kỳ phụng vụ nào khác.

Bởi đức tin, chúng ta vâng lời Chúa và bước theo Chúa, như đức tin của  ông Mathio  (Mathew 9: 9). Ông không tranh luận, hay chất vấn Chúa, "Lạy Chúa, những gì về công việc làm ăn của tôi? Còn những người dưới quyền của tôi? "Nhưng ngay lập tức ông đã đi theo Chúa bằng đức tin. Khi Chúa gọi tôi (Bakht Singh) cho phụng sự của Ngài, tôi không thể hiểu làm thế nào tôi có thể phục vụ Ngài vì những khuyết tật của mình. Nhưng tôi chỉ tin rằng Ngài có thể giúp tôi mặc dù tôi nói lắp và nói cà lăm. Khi tôi bắt đầu chức vụ công khai của tôi, tôi đã cầu nguyện rất khó khăn.

Sau đó, Chúa đã làm cho tôi chú ý đến lời hứa của Ngài trong Mathio.10: 20. "Bởi ấy chẳng phải các ngươi nói đâu, bèn là Linh của Cha các ngươi ở trong các ngươi mà nói ra vậy". Tôi tin vào điều đó. Một ngày kia,  tôi đã phải đứng trước một cuộc họp rất lớn, khoảng bảy trăm người. Khi tôi nhìn thấy những khuôn mặt của họ, tôi bắt đầu run rẩy. Kinh thánh, mà tôi nắm trong tay tôi, cũng run rẩy. Vì vậy, tôi cầu nguyện: "Lạy Chúa, xin thương xót con. Chạm vào môi, lưỡi và cổ họng con". Tôi không bao giờ biết những gì tôi sắp nói, nhưng Chúa chạm vào tôi và một số câu và chương đến bộ nhớ của tôi.
Tôi đã phải đi đến trường học, trường cao đẳng, trường đại học và các khu nhà ổ chuột. Khi tôi đi đến các khu ổ chuột và thấy người dân ở đó, tôi tràn đầy sợ hãi bởi vì họ sẽ thậm chí không nhìn đến tôi. Thay vào đó, họ chỉ chế giễu tôi. Vì vậy, tôi phải cầu xin Chúa thương xót tôi và giúp đỡ tôi. Tôi biết những khuyết tật và nhược điểm riêng của tôi. Đó là lý do tại sao mỗi khi tôi kêu cầu Ngài trong đức tin, Ngài đã giúp tôi.

Đời sống thuộc linh  của chúng ta được sống bởi đức tin. Bởi đức tin, chúng ta buộc trói Satan. Bởi đức tin, chúng ta đòi hỏi những lời hứa của Đức Chúa Trời. Bởi đức tin mà chúng ta có thể có sự sống đời đời. Đó là lý do tại sao sự ăn năn và đức tin đi đôi với nhau. Những người không có đức tin không thể phát triển về mặt tâm linh.

Nhiều nhà truyền giảng không có đức tin. Mặc dù họ tổ chức cuộc họp lớn và các chiến dịch rao phúc âm, nhưng khi họ muốn có tiền, họ bắt đầu ăn xin từ người khác. Đó là nơi mà họ bước đi sai lạc. Họ có rất nhiều chương trình và các mưu đồ để lấy tiền. Khi họ lập kế hoạch các chiến dịch rao tin lành họ bắt đầu viết thơ gởi đi nhiều nơi gợi ý xin tiền trong nhiều tháng. Đó không phải là đức tin. Bởi khi có một niềm tin sống động và mạnh mẽ nơi Chúa của chúng ta, chúng ta có thể hưởng sự bình an hoàn hảo của Ngài và tất cả các nhu cầu của chúng ta được đáp ứng

3. BÁP-TÊM
 Báp-têm là nguyên tắc cơ bản và nền tảng tiếp theo của sự cứu rỗi (Heb. 6: 2). Nhiều tín đồ không hiểu biết sự cần thiết và tầm quan trọng của nó. Giả sử trong thân thể của chúng ta còn thiếu một số vitamin, chúng ta sẽ ngã bệnh. Nhiều người đi đến các ngọn đồi ở miền Nam Ấn Độ cho kỳ nghỉ hè vì miền đó có khí hậu tốt. Những năm trước đây, những chỗ đó đã cho thấy rằng nhiều người được khỏi một số bệnh ngoài da. Lý do không được biết đến. Khí hậu rất tốt, các dòng nước tốt đẹp và đã có rất nhiều món ăn ngon, nhưng về sau họ lại thấy người ta đã ngã bệnh. Sau nhiều sự nghiên cứu, họ phát hiện ra rằng không có canxi trong nước, khi canxi được bổ sung vào nước uống, họ được chữa lành. Như vậy chúng ta thấy rằng một sự thiếu hụt canxi hoặc phốt pho, sắt hoặc các vitamin khác, mang lại bệnh tật trong thân thể. Tương tự như vậy, nếu chúng ta không tuân theo sự báp têm trong nước, chúng ta không thể phát triển thuộc linh.

Báp têm cũng quan trọng như bất kỳ nguyên tắc cơ bản và nền tảng nào khác của sự cứu rỗi. Kẻ thù sử dụng nhiều mưu kế để cầm giữ tín đồ ở trong sự đui mù về nó. Một số người tin rằng báp têm không cần thiết; nếu chúng ta được sinh ra một lần nữa thì đủ rồi. Đối với các Cơ đốc Nhân theo danh nghĩa, báp-têm chỉ là một nghi thức, nhưng đối với các tín hữu, đó là một minh chứng. Bởi báp têm, bằng cách mặc khải,  chúng ta hiểu sự kết hiệp với Chúa Giêsu Christ trong cái chết, sự chôn cất và sự sống lại của Ngài.
Sau khi được hoán cải trong hai năm, tôi chưa bao giờ nghĩ về phép báp-têm. Tôi đọc Kinh Thánh mỗi ngày. Đôi khi tôi dành cả ngày đọc Kinh Thánh, nhưng vì đã không được báp-têm, tôi nghĩ rằng điều đó không cần thiết. Một buổi sáng thứ bảy trong tháng hai năm 1932, khi tôi có thời gian ở riêng, Chúa đã nói với tôi qua Matthew 3:13. "Khi ấy Jêsus từ Ga-li-lê đến cùng Giăng tại Giô-đanh đặng chịu người làm báp-têm". Chúa nói rõ ràng cùng tôi, "con có bất kỳ cách nào tốt hơn là Cứu Chúa của con không?" Tôi trả lời, "Lạy Chúa, con không bao giờ nói như vậy". Ngài nói ," vậy về báp têm của con thì thể nào? “.

"Tôi đã nghĩ rằng báp têm không thật quan trọng bởi vì tôi được sinh ra một lần nữa và đã đưa ra lời chứng của tôi ở khắp mọi nơi. Nhưng Chúa đã nói với tôi rất rõ ràng, rằng Ngài đã chịu báp-têm vì cớ tôi, thậm chí dù không có nhu cầu để Ngài chịu báp-têm như vậy. Ngày hôm sau tôi đã chịu báp-têm. Ngày hôm đó tôi dự cuộc nhóm họp và trong cuộc họp tôi đã được báp-têm. Tôi đã được đầy dẫy niềm vui lớn khi tôi bước ra khỏi nước, và từ ngày đó trở đi, Kinh Thánh đã trở thành một cuốn sách mới với tôi. Tôi tận hưởng nhiều tự do trong lời cầu nguyện và làm chứng, mọi việc trở nên mới mẻ với tôi. Tôi phát hiện ra rằng có năm mươi mốt chỗ tham chiếu trong các sách Phúc Âm và các thư tín về phép báp têm. Tôi gom chúng lại với nhau và nghiên cứu chúng.

Bây giờ chúng ta đọc trong Heb.6: 2, đó là giáo lý về phép báp-têm. Tại sao nó được viết là "báp-têm"? Khi chúng ta được sinh ra một lần nữa, chúng ta được báp-têm vào một Thân Thể, bởi Đức Thánh Linh. Đó là lễ báp-têm đầu tiên. "Vì chưng chúng ta, hoặc người Do-thái hoặc người Hi-lạp, hoặc tôi mọi, hoặc tự chủ, thảy đều đã chịu báp têm trong một Thánh Linh để nên một thân, và thảy đều đã chịu uống cùng một Thánh Linh nữa"(I Cor.12: 13).

Điều thứ hai là báp têm bằng nước. Trong Kinh Thánh, từ ngữ báp-têm không bao giờ được sử dụng cho sự đầy đủ. Báp-têm có nghĩa là rửa sạch hoặc dìm xuống hoặc tắm. Khi chúng ta đi tắm chúng ta rửa toàn bộ thân thể của chúng ta. Nếu chúng ta chỉ rửa tay hoặc bàn chân của chúng ta mà thôi, đó không phải là tắm. Trong cùng một cách, trong báp têm, chúng ta đang đắm mình vào trong nước mà qua đó chúng ta làm chứng rằng Chúa Jesus Christ đã hoàn toàn rửa sạch mọi tội lỗi của chúng ta đi.

 Thứ hai, thông qua báp têm, chúng ta tuyên bố sự kết hiệp với Chúa Giêsu Christ trong sự chết, sự chôn và sự sống lại của Ngài. “Anh em há chẳng biết rằng hết thảy chúng ta là những người đã chịu báp-têm trong Christ Jêsus, đều đã chịu báp-têm trong sự chết của Ngài sao?  Vậy, chúng ta đã nhờ báp-têm trong sự chết của Ngài mà được đồng chôn với Ngài, hầu cho như Christ nhờ sự vinh hiển của Cha mà được từ kẻ chết sống lại thể nào, thì chúng ta cũng phải ăn ở trong đời sống mới thể ấy. Vì nếu chúng ta đã được liên hiệp với Ngài trong hình trạng của sự chết Ngài, thì chúng ta cũng sẽ được liên hiệp với Ngài trong hình trạng của sự sống lại Ngài”(Romans 6:3-5).

Như chúng ta đã thấy, khi chúng ta được cứu chúng ta đã được báp-têm bởi Thánh Linh vào Thân Thể của Đấng Christ, có nghĩa là chúng ta đã được liên kết với Ngài. Chúng ta trở thành các chi thể Thân Thể của Ngài và sự sống của Ngài bắt đầu tuôn chảy trong chúng ta. Trong báp têm bằng nước, chúng ta tuyên bố sự liên hiệp thuộc linh này với Chúa Giêsu Christ. Ngài là Đấng Tạo Hóa của chúng ta, Ngài đã ban cho chúng ta sự sống của Ngài. Nói cách khác, cuộc sống của chúng ta đang ở trong Ngài. "Trong Ngài có sự sống; và sự sống là sự sáng của loài người "(Giăng 1: 4). Đó là lý do tại sao khi Ngài qua đời, chúng ta đã chết với Ngài. Khi Ngài đã bị chôn, chúng được chôn cất. Khi Ngài sống lại  một lần nữa, chúng ta cũng được sống lại với Ngài.

Sự liên hiệp với Chúa Giêsu Christ có thể được giải thích như thế này. Nếu một người phụ nữ có mang, sắp sinh một trẻ em mà cô lại chết, đứa trẻ trong bụng cô cũng chết. Khi cô được chôn, đứa trẻ cũng được chôn cất. Nếu có một phép lạ nào mà người phụ nữ được đưa trở lại cuộc sống, đứa trẻ trong lòng cô cũng được làm cho sống động. Cuộc sống của chúng ta ở trong Chúa Giêsu Christ. Đó là lý do tại sao chúng ta được hiệp nhất với Ngài trong sự chết, sự chôn và sự sống lại của Ngài. Tuyên bố sự đồng nhất như vậy với Chúa, chúng ta được báp-têm.

Bởi đức tin, chúng ta có thể tận hưởng đầy đủ sự liên hiệp thuộc linh của chúng ta với Chúa Giêsu. Ngài đã qua đời nhiều năm trước đây và thậm chí bây giờ chúng ta cũng có thể được hưởng lợi ích từ điều đó. Bởi quyền năng sự chết của Ngài, chúng ta có thể chết với bản chất cũ của chúng ta. Chúng ta không thể chết đối với nó bằng năng lực ý chí của chúng ta. Đối với tất cả các điểm yếu của chúng ta như nóng giận, ghen tị, kiêu ngạo và lòng thù hận và cho tất cả những thất bại của chúng ta, chúng ta nên nói bằng đức tin, "Lạy Chúa Giêsu, con nhìn thấy những điểm yếu nầy trong con. Hãy cất đi những nghi ngờ và sợ hãi. Con muốn chết đối với những điểm yếu, tư tưởng, khát vọng và kế hoạch của con bởi quyền năng sự chết của Ngài. Tương tự như vậy, con muốn tất cả những ham muốn và những điểm yếu của con bị chôn vùi bởi quyền năng sự chôn cất của Ngài. Bởi cùng một đức tin, con muốn nhận vào trong tôi quyền năng sự phục sinh của Ngài".

 Đó là cách chúng ta có để chiếm đoạt quyền năng sự chết, sự chôn và sự sống lại của Ngài. Sự chết của Ngài có giá trị tồn tại và vĩnh cửu. Lời Ngài là vĩnh cửu, và những hành động của Ngài cũng là vĩnh cửu, vì Ngài là vĩnh cửu. Sự chết của Ngài có lợi cho những người sống trước mặt Ngài và cũng cho những người sống sau Ngài.

Mỗi ngày, bằng đức tin, chúng ta được tiếp nhận quyền năng của sự chết của Chúa Giêsu, để chết đối với những suy nghĩ của chúng ta; quyền năng sự chôn cất của Ngài để quên chúng nó; và quyền năng sự phục sinh của Ngài để tiếp nhận sự sống mới cho chiến thắng trên tội lỗi và cám dỗ. Vì mục đích này mà chúng ta nên được báp-têm, và học cách tận hưởng sự hiệp nhất thuộc linh của chúng ta với Chúa trong cách gấp ba này. Báp têm không phải là một lễ nghi, nhưng một lời chứng. Những người không tuân theo trong phép báp-têm sống cuộc sống thất bại. Họ phụ thuộc vào năng lực ý chí hoặc kiêng ăn hoặc lời cầu nguyện dài để có chiến thắng, nhưng họ đang bị đánh bại. Bởi sự hiệp nhất của chúng ta với Chúa, chúng ta có được chiến thắng. Bởi báp têm bằng nước, chúng ta tuyên bố rằng chúng ta được liên hiệp  thuộc linh với Chúa chúng ta. Đó là lý do tại sao báp-têm là một nguyên tắc cơ bản, giúp chúng ta tận hưởng phần chia của chúng ta trong sự đầy đủ của Đấng Christ.

 4. ĐẶT TAY-
Nguyên tắc thứ tư cơ bản và nền tảng của sự cứu rỗi là sự đặt tay (Heb. 6: 2).  Sáu nền tảng là:  “sự ăn năn việc chết, đức tin đến Đức Chúa Trời, sự dạy dỗ về báp-têm, về sự đặt tay, về sự sống lại của kẻ chết, và về sự xét đoán đời đời”.  Bài nầy bàn luận về sự đặt tay:

 Trong Kinh Thánh sự đặt  tay đã được sử dụng cho các mục đích khác nhau như thể hiện các mối quan hệ, sự hiệp một, bình đẳng và đồng nhất. Lần đề cập đầu tiên của sự đặt tay được tìm thấy trong Sáng. 48:14. "Y-sơ-ra-ên đưa tay mặt ra, để trên đầu Ép-ra-im, là đứa nhỏ, còn tay trái lại để trên đầu Ma-na-se. Người có ý riêng để đặt tay như vậy, vì Ma-na-se là đứa lớn". Jacob đặt tay trên hai cháu trai của ông và chúc phước cho chúng nó.

Joseph đã trở thành một con người rất vĩ đại và giàu có ở Ai Cập; ông chỉ dưới quyền Pharaoh, nhưng ông đã mang hai con trai của mình đến trước mặt người cha nghèo nàn của ông là Jacob, để cụ có thể ban phước cho chúng nó. Gia Cốp đã không mang lại cho chúng một phước lành của thế giới. Về vật chất, Joseph đã giàu hơn Jacob nhiều, nhưng ông đã mang hai con trai của ông đến cha mình là Jacob, vì ông biết rằng Đức Chúa Trời đã hứa một phước hạnh gấp bảy lần cho Abraham và dòng dõi người (Sáng 12:. 2- 3)
Có rất nhiều tín đồ bị dân thế tục lừa dối. Họ bước đi trong đường lối của thế giới. Họ quan tâm nhiều hơn trong các bữa tiệc tối và những buổi dã ngoại chung với dân ngoại đạo, hơn những việc của Đức Chúa Trời. Đó là lý do tại sao họ không phát triển thuộc linh. Là tín đồ, chúng ta không thể có bất kỳ sự tương giao nào với người thế giới. Chúng ta không nên có bất kỳ sự dự phần nào trong các hoạt động trần thế. Chúng ta có thể nhân từ và lịch sự với họ, nhưng về mối liên hệ của chúng ta thì phải chỉ với dân của Đức Chúa Trời, ngay cả khi họ là người nghèo hoặc không biết chữ, bởi vì họ là dân tộc của chúng ta. Vì vậy, bằng cách đặt tay sau khi báp-têm, chúng ta tuyên bố với nhau rằng chúng ta được đồng nhất với dân của Chúa.

Tôi nhớ một biến cố trong cuộc sống của tôi. Trong ngày tôi học đại học tôi đã có một người bạn rất tốt. Khi tôi sắp sửa Canada trở về Ấn Độ, tôi đã đến thăm anh ta. Bởi sau đó, anh đã trở nên rất giàu có. Anh yêu cầu tôi để dành một vài ngày ở lại chơi với anh ta. Anh ấy rất tốt với tôi, và làm tôi rất thoải mái, nhưng tôi chỉ cảm thấy mình giống như một người lạ trong nhà anh. Tôi không thể cầu nguyện với anh ta hay nói chuyện với anh ta về Đức Chúa Trời. Tôi thậm chí không thể tìm thấy một nơi nào thích hợp để cầu nguyện riêng cho thời gian khá dài của tôi. Vì vậy, mỗi buổi sáng, tôi thường đi đến cánh đồng gần đó. Một ngày kia, sau khi kết thúc thời gian cầu nguyện của tôi, tôi nghe lời ca hát từ phía bên kia cánh đồng này. Tôi đã đi theo hướng đó và thấy một túp lều nhỏ làm bằng bùn và rơm. Tôi đứng đó và nghe cả gia đình đang hát một bài hát Giáng sinh. Thấy tôi đứng đó, một con người bước ra ngoài và hỏi tôi, "ông ơi,  ông muốn thăm ai?" Tôi nói, "Không, tôi là một Cơ Đốc nhân. Tôi nghe một bài hát  Cơ Đốc được hát lên ở đây, và trái tim của tôi bị thu hút đến với bạn. "Ông nói." xin vui lòng mời vào". Tôi bước vào trong.

Đó là một túp lều nhỏ. Không có đồ nội thất. Tôi ngồi trên sàn nhà, nhưng tôi đã rất hạnh phúc. Mặc dù người bạn của tôi đã rất  tốt với tôi, ngôi nhà của anh được trang bị đồ nội thất đắt tiền và mọi thứ đều tuyệt vời, tôi vẫn cảm thấy như một người lạ. Nhưng bây giờ, tôi đã gặp con người này lần đầu tiên; tôi thậm chí còn không biết tên của ông. Ông rất nghèo, thu nhập hầu như không được 10 đô-la một tháng, nhưng tôi đã được hạnh phúc khi ở với ông ta, bởi vì chúng tôi đã ca hát với nhau và cùng nhau cầu nguyện. Tôi tự nhũ thầm, "minh đã tìm thấy dân của mình rồi".- Chúng ta thuộc về Đức Chúa Trời và dân Ngài. Những ai bị thu hút bởi bạn bè thế giới, họ không phát triển thuộc linh.

Khi Joseph đã đưa hai con trai của mình đến trước mặt Jacob, Ông đặt tay trên chúng nó. Bằng cách làm như vậy, ông đã làm đồng nhất hai cậu cháu trai với cả gia đình mình. Ông nói, "hai cháu là con của tôi, ngay cả khi hai cháu đã được sinh ra ở Ai Cập. Hai cháu thuộc về gia đình của tôi. Bây giờ hai cháu có một phần bình đẳng trong các phước lành mà Đức Chúa Trời đã ban cho Abraham và dòng dõi của ông ấy". Bằng cách đặt tay trên chúng, ông cũng nhắc nhở chúng," Bây giờ, các cháu của tôi ơi, đừng để mình bị lừa gạt bởi Ai Cập , bởi sự giàu có hay vinh quang của nó. Đức Chúa Trời đã ban cho hai cháu một cơ nghiệp thuộc linh và vĩnh cửu tuyệt vời cùng với những đứa con khác của Abraham".

Như vậy, bằng cách đặt tay, chúng ta bày tỏ sự hiệp một thuộc linh và mối quan hệ của chúng ta với con cái của Chúa, những người đã được chuộc bằng huyết quí báu của Chúa Jesus Christ. Trong thị trấn của bạn có thể có nhiều người, nhưng chỉ có dân biết Chúa Giêsu Christ là anh em, chị em của bạn mà thôi. Trong Mathio12: 50, Chúa chúng ta nói, " Vì hễ ai làm theo ý chỉ Cha ta ở trên trời, nấy là anh em, chị em, và mẹ Ta". Trong sự đặt tay, chúng ta tuyên bố rằng chúng ta thuộc về dân yêu mến Chúa, không phân biệt quốc gia hay nền văn hóa và giáo dục. Chúng ta thuộc về cùng một gia đình. Chúng ta không thể bị lừa gạt nữa bởi thế giới và sự hấp dẫn của nó. Vì vậy, ý nghĩa đầu tiên của sự đặt-tay là mối quan hệ thuộc linh của chúng ta với các tín đồ khác.

Thứ hai, bằng sự đặt tay, chúng ta tuyên bố sự đồng nhất của chúng ta với Chúa Giêsu trong sự chết hy sinh của Ngài. "Người sẽ nhận tay mình trên đầu con sinh, nó sẽ được nhậm thế cho, hầu chuộc tội cho người"(Lê-vi ký 1:. 4). Bất cứ khi nào mà bất cứ ai trong thời Cựu ước, đã mang một sinh tế đến cửa đền tạm, ông sẽ đặt tay mình trên động vật và thú nhận các tội lỗi của mình. Sau đó, con sinh đã bị giết chết và hy sinh trên bàn thờ.

Bằng cách đặt tay mình trên con sinh, ông tuyên bố, "con vật này sẽ phải chết thay cho tôi". Bản thân ông không thể đi vào bên trong. Ở vị trí của mình, con vật đã bị giết và được đem vào bên trong làm một sự hy sinh. Tương tự như vậy, bởi đức tin chúng ta tuyên bố rằng Chúa Jesus đã chết thay cho chúng ta. Vì vậy việc đồng nhất hóa thuộc linh của chúng ta trong sự chết của Chúa Giêsu được thể hiện bởi cách đặt tay.

Kế đến, chúng ta đọc trong Công 8: 14-17 cách Peter và John đặt tay mình trên các tín đồ Samaritan. "Các sứ đồ tại Giê-ru-sa-lem nghe dân Sa-ma-ri đã nhận Lời Đức Chúa Trời, bèn sai Phi-e-rơ và Giăng đến cùng họ.  Khi hai người tới nơi, thì cầu nguyện cho họ để họ nhận lãnh Thánh Linh;  vì Ngài chưa giáng xuống trên một ai trong họ, họ chỉ nhơn danh Chúa Jêsus mà chịu báp-têm thôi. Hai người bèn đặt tay trên họ thì họ đều nhận lãnh Thánh Linh". Trong tiến trình bình thường, người Samari nên nhận được Đức Thánh Linh khi họ tin tưởng, nhưng trong trường hợp đặc biệt này, vì một mục đích, Chúa đã nắm giữ Đức Thánh Linh lại, Đấng đã được ban ra sau đó với sự đặt tay.
Chúng ta đọc trong Giăng 4: 9 rằng người Do Thái đã không giao dịch với người Samaria. Bây giờ chính những người Samari đó đã tin Chúa Giêsu Christ. Nếu Chúa đã ban Thánh Linh cho họ khi họ mới tái sinh, người Do Thái đã có thể nói rằng những gì họ nhận được vào ngày Lễ Ngũ Tuần là một cái gì đó tốt hơn so với những gì người Samari nhận được. Đó là lý do tại sao Đức Chúa Trời đã sai Phi-e-rơ và Giăng đến Samaria để chính họ có thể nhìn thấy cách thế nào chính cùng món quà, mà dân Do Thái nhận được vào ngày Lễ Ngũ Tuần cũng đã được trao cho người Samari. Sau đó, Peter và John đặt tay mình trên người Samari để thừa nhận rằng họ bình đẳng và rằng họ là anh em của hai ông.

Trước đó, họ đã được chia ra. Hai ông đặt tay trên họ để thể hiện sự bình đẳng và sự hiệp nhất thuộc linh. Để thể hiện sự thật này rằng chúng ta đều là một, chúng ta có các lời chứng của sự đặt tay. Chúng ta tuyên bố rằng không có sự khác biệt giữa người giàu và người nghèo, cao và thấp, có học hay thất học: chúng ta đều là một. "Chẳng chia ra hoặc người Do-thái hay người Hi-lạp, tôi mọi hay tự chủ, nam hay nữ, vì anh em thảy đều là một trong Christ Jêsus "(Gal 3:28). Chúng ta có thể xuất thân từ bất kỳ gia đình, bất cứ nước nào, hoặc bất kỳ bước đi nào của cuộc sống khi chúng ta được sinh ra một lần nữa; chúng ta trở nên quý  giá cách đồng đều, đều cần thiết và quan trọng ngang bằng với Đức Chúa Trời. Chúng ta bày tỏ sự thật này bằng cách đặt-tay.

Các tín đồ Côrintô được chia thành nhiều nhóm. "Tôi có ý nói rằng trong anh em mỗi người nói: “Ta thuộc về Phao-lô,” - “Ta thuộc về A-bô-lô,” - “Ta thuộc về Sê-pha,” - “Ta thuộc về Christ.”  Đấng Christ há bị chia xé ra sao? Phao-lô há vì anh em đã chịu đóng đinh trên thập tự giá sao? Hay là anh em đã nhơn danh Phao-lô mà chịu báp-têm sao?"( 1Cor.1: 12-13). Bằng cách này, họ bắt đầu gọi mình bằng cái tên khác nhau, khi chúng ta gọi mình bằng những cái tên (danh hiệu) khác nhau, chẳng hạn như Baptist, Methodist, Anh giáo,  Anh Em, Ngũ Tuần và như vậy, nó mang lại sự chia rẽ. Chúng ta đều chỉ thuộc về Đấng Christ. Chúng ta không có quyền để  được gọi bằng những tên nào khác.

Khi tôi áp dụng cho một giấy hôn thú để  được cử hành nghi thức kết hôn cho tôi, tôi đã được hỏi, "giáo phái của bạn là gì?”. Tôi trả lời. "Thân thể của Đấng Christ. Chúng tôi không có tên và không có nhãn hiệu; chúng tôi chỉ là Cơ Đốc nhân". Sau đó, câu hỏi tiếp theo là, "bạn có có bao nhiêu thành viên? ". Tôi trả lời, "chúng tôi không có bất kỳ quyền thành viên nào?; chúng tôi đều bình đẳng. Chúng tôi là một”. Tất cả đều được chào đón nếu họ được sinh ra một lần nữa. Nhưng sự hiệp nhất này phải được duy trì.

Bằng cách đặt tay, chúng ta làm chứng với nhau rằng chúng ta đều là một và như nhau trong cái nhìn của Chúa. Dù giáo dục, của cải và địa vị  chúng ta có là gì đi nữa, đó chỉ là bởi ân sủng của Đức Chúa Trời. "Nhưng tôi nay là người thể nào, ấy là nhờ ân điển của Đức Chúa Trời, và ân điển Ngài ban cho tôi cũng không phải là luống nhưng đâu. Trái lại, tôi đã quá lao khổ hơn họ hết thảy, nhưng nào phải tôi, bèn là ân điển Đức Chúa Trời ở cùng tôi. "(I Cor.15: 10). Sứ đồ Phaolô đã làm nhiều việc hơn các sứ đồ khác, chỉ vì ân sủng của Đức Chúa Trời. Nếu Chúa đã ban cho bất cứ ai trong chúng ta bất cứ ân tứ giảng dạy hoặc rao giảng nào, đó chỉ là bởi ân điển của Ngài, chúng ta không đáng hưởng. Chúng ta được cứu bởi ân điển của Ngài, và chúng ta nhận được ân tứ khác nhau cũng bởi ân sủng của Ngài. Khi chúng ta đến thiên đàng chúng ta sẽ được thưởng theo lòng trung thành của chúng ta, và không theo ân tứ của chúng ta.

Trong Hội thánh sơ khai, kẻ thù mang lại sự phân chia giữa người Do Thái và các dân ngoại. Chúng ta thấy trong Gal. 2: 11-14, thế nào Đức Chúa Trời đã phải dùng Paul quở trách thậm chí Peter, vì chúng ta tìm thấy sự khác biệt về đẳng cấp cao và đẳng cấp thấp. Trong cùng một cách, một số Cơ Đốc nhân theo danh nghĩa tin rằng người ta không thể tham gia vào tiệc thánh trừ khi ông ta được xác nhận. Sự chia rẽ như vậy đến, vì những lời dạy sai trật. Tất cả dân được sinh ra một lần nữa là một và phải vẫn là một. Là tín đồ, chúng ta nên từ chối tham gia vào bất kỳ hoạt động, chức năng hay nghi lễ nào, trong đó đem lại sự chia rẽ giữa  dân Chúa.

Trong Công 13: 2-3, chúng ta có một ví dụ của sự đặt-tay. "Đang khi họ phụng sự Chúa và kiêng ăn, thì Thánh Linh phán rằng: “Hãy biệt riêng Ba-na-ba và Sau-lơ cho ta để làm công việc ta đã gọi họ làm. Vậy, khi đã kiêng ăn và cầu nguyện xong, họ bèn đặt tay trên hai người, rồi sai đi". Barnabas và Saul đã được hội thánh sai đi. Họ không tự mình ra đi. Nhờ đặt tay trên họ, các trưởng lão nói, "Anh đi thay cho chúng tôi. Chúng tôi đang đi với bạn. Chúng tôi đang đứng bên cạnh bạn trong sự cầu nguyện và tương giao".

Việc đặt tay không phải là một nghi lễ. Không có gì trong tay cả. Khi chúng ta bắt tay chào hỏi mọi người, chúng ta cho thấy rằng chúng ta là bạn bè tốt. Để thể hiện sự bình đẳng thuộc linh của chúng ta, sự hiệp nhất và đồng nhất, chúng ta đặt tay để thay mặt cho toàn thể Hội thánh rải rác khắp nơi trên thế giới và tuyên bố rằng chúng ta thuộc về một gia đình, Hội thánh của Chúa Jesus Christ. Chúng ta đã được mua bằng huyết quý giá như nhau, và vì vậy chúng ta cũng rất quan trọng và quý giá cách ngang bằng đối với Ngài.

Trong 1Cor. 12: 18-21, chúng ta đọc về huyền nhiệm của Thân Thể Đấng Christ. Trong thân thể con người, mỗi chi thể nhỏ bé và các tuyến đều cần thiết. Ngay cả đầu không thể nói đến chân, tôi không cần bạn. Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta như vậy. Trong cùng một cách, mỗi người tín đồ trong gia đình thuộc thiên cũng không kém phần cần thiết và hữu ích như nhau trong tầm nhìn của Đức Chúa Trời. Việc đặt tay không nên được thực hiện như là một buổi lễ, nhưng như lời làm chứng. Báp-têm và đặt tay cùng đi với nhau. Nếu chúng ta thực sự làm theo trật tự của Đức Chúa Trời, sau khi làm báp-têm, chúng ta nên đặt tay và cầu nguyện cho những ai vâng phục trong báp-têm. Những ngày này có sự tối tăm thuộc linh ở khắp mọi nơi và nhiều người đã bỏ qua những sự thật thần thượng nầy.

5. Sự Phục Sinh Của Người Chết:
Đây là nguyên tắc cơ bản thứ năm của sự cứu rỗi. Chúng ta phải tin rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ được sống lại từ cõi chết (1 Cor 15: 50-57). Những người không tin chân lý này trở nên bất cẩn. Bởi sự sống lại, tôi tin rằng, y như Chúa Giêsu Christ của tôi đã sống lại, Ngài cũng đang quay trở lại vì tôi và khi tôi nhìn thấy Ngài, tôi sẽ giống như Ngài. Những người không tin vào sự sống lại của người chết, sẽ trở thành người thế tục. Họ không mong muốn sẵn sàng cho sự hiện đến lần thứ hai của Chúa.

Chủ Nhật nầy tiếp đến chủ nhật kia, chúng ta tham gia vào bàn của Chúa để chuẩn bị cho ngày đó. "Ấy vậy, hễ lần nào anh em ăn bánh nầy, uống chén nầy, thì rao giảng sự chết của Chúa cho tới lúc Ngài đến" (1 Cor.11: 26). Như vậy chúng ta tuyên bố rằng Chúa Giêsu Christ, Đấng đã chết cho chúng ta đang trở lại một lần nữa để tiếp nhận chúng ta và ban cho chúng ta thân thể bất tử. Bởi tin vào sự sống lại của kẻ chết, chúng ta được cứu khỏi sự lừa dối của thế giới.

6.  Sự Xét Đoán Đời Đời:
Đây là nguyên tắc cơ bản thứ sáu và cuối cùng của sự cứu rỗi. Một ngày kia chúng ta phải đứng trước mặt Chúa để khai trình về cuộc sống của chúng ta trên trái đất. "Mỗi người trong chúng ta đều sẽ khai trình việc của chính mình với Đức Chúa Trời" (Roma 14:12). Điều này có nghĩa là chúng ta phải khai trình cho Chúa về lời nói và hành động của chúng ta."Ta nói cùng các ngươi, mọi lời tầm phào mà người ta nói ra đều phải khai trình trong ngày xét đoán. Vì bởi lời nói mà ngươi được xưng nghĩa, cũng bởi lời nói mà ngươi bị định tội”(Mathio 12:36-37). Nếu chúng ta tin vào sự phán xét đời đời, chúng ta sẽ rất cẩn thận với lời nói của chúng ta. Phải, phải và không không của chúng ta nên rõ ràng. Nhiều lần chúng ta nói những điều mà chúng ta không có ngụ ý. Những người tin vào sự phán xét đời đời sẽ không lãng phí tiền bạc hoặc thời gian hoặc năng lượng của họ. Chúng ta phải rất cẩn thận để sống một cuộc sống tỉnh thức.

Sáu nguyên tắc cơ bản nầy đi kèm nhau; chúng ta không thể phân biệt chúng. Nếu bạn đã ăn năn khỏi công việc chết, và có niềm tin đối với Chúa, nếu bạn đã làm chứng trong nước báp-têm và đặt tay, và nếu bạn tin vào sự sống lại của người chết và sự xét đoán vĩnh cửu, bạn sẽ dựa vào nền tảng vững mạnh đó mà tiến tới và sẽ phát triển thuộc linh.
Bakht Singh


.