(Heb. 5: 11-14; 6:
1-3).
"Theo thời gian thì đáng lẽ anh em đã làm thầy từ lâu rồi
nhưng nay còn cần có kẻ dạy anh em các điều sơ học về nguyên lý sấm ngôn của Đức
Chúa Trời" (Heb. 5:12). Với gánh nặng lớn, vị sứ đồ đang viết những lời
này với các tín hữu Hê-bơ-rơ. Họ đã nhận được lời Chúa cặp theo quyền năng
trong nhiều năm. Lẽ ra, họ đã phát triển nhiều về mặt thuộc linh và trở thành
giáo viên, nhưng họ vẫn như trẻ em. Họ không sẵn sàng tiếp nhận thịt cứng, giống
như con người không thể nhận được thực phẩm cứng. "Nhưng đồ ăn cứng thì để
cho kẻ trưởng thành, tức là kẻ nhờ sự hay sử dụng mà luyện tập ngộ tài mình để
phân biệt thiện ác" (Heb. 5:14).
Trong những ngày này, chúng tôi cũng nhận thấy rằng các tín hữu
ở nhiều nơi trên thế giới vẫn còn như trẻ con thuộc linh trong một thời gian
dài. Dù có tất cả các kiến thức kinh thánh, họ vẫn còn trẻ con về thuộc linh. Họ
không có sự hiểu biết về những điều sâu sắc của Đức Chúa Trời. Paul muốn chia sẻ
nhiều điều với các tín hữu Hê-bơ-rơ, nhưng ông không thể làm như vậy bởi vì tình
trạng thơ ấu thuộc linh của họ. Thông điệp chính của sứ đồ cho người Hê-bơ-rơ là
về "sự cứu rỗi lớn lao" và "Cứu Chúa lớn lao". Paul cho
chúng ta thấy sự vĩ đại của Chúa Giêsu Christ của chúng ta, là Thầy thượng tế
thuộc thiên của chúng ta và sự cứu rỗi lớn, trong đó chúng ta có được qua Ngài.
Các tín hữu Hê-bơ-rơ như những trẻ con trong lớp nhà trẻ, chỉ được dạy những điều sơ học.
Bây giờ câu hỏi là tại sao họ vẫn cứ là trẻ con thuộc linh. Bởi
vì họ không có một sự hiểu biết rõ ràng và chắc chắn về các nguyên tắc cơ bản của
sự cứu rỗi. Paul nói, "anh em …còn cần có kẻ dạy anh em các điều sơ học về
nguyên lý sấm ngôn của Đức Chúa Trời, và anh em đã trở nên như kẻ cần sữa, chớ
không phải đồ ăn cứng " (Heb. 5:12). Vì vậy, nếu bạn không được rõ ràng và
chắc chắn về nền tảng, cơ bản, là nguyên tắc đầu tiên của sự cứu rỗi, chúng ta
không thể phát triển thuộc linh. Một tòa
nhà mà không có một nền tảng vững chắc sẽ không đứng lâu. Khi bão tố đến nhiều tòa nhà đổ xuống, vì chúng không có một nền tảng vững mạnh và sâu.
Chúa đã cảnh báo chúng ta trong Lời của Ngài rằng sẽ có nhiều cơn bão trong khi
chúng ta còn sống trên trái đất này. Trong Mathew 7:27, chúng ta thấy rõ những
gì đã xảy ra với các nhà xây dựng trên đất cát. Trừ khi chúng ta đứng trên một
nền tảng vững mạnh, chúng ta sẽ ngã xuống như ngôi nhà đó. Chúng tôi nhận thấy
nhiều tín hữu mất đức tin của họ khi họ phải đối mặt với những khó khăn, rắc rối,
và thử nghiệm. Họ bị xúc phạm và có thể dễ dàng rút lui, ra đi theo những lời dạy dỗ sai lạc hoặc bởi các sự
thu hút trần tục. Trong suốt cuộc đời của chúng ta, chúng ta phải đối mặt với
nhiều cơn bão và đó là lý do tại sao chúng ta phải đảm bảo rằng chúng ta đang ở
trên một nền tảng vững chắc.
Trước hết, chúng ta phải đảm bảo rằng chúng ta được xây dựng
dựa trên nền tảng của Chúa Jesus Christ "Vì chúng tôi là bạn đồng công với
Đức Chúa Trời; anh em là ruộng của Đức Chúa Trời, nhà của Đức Chúa Trời. Theo
ân điển Đức Chúa Trời đã ban cho tôi, tôi đã lập nền như một tay kiến trúc khôn
khéo, mà có kẻ khác xây cất lên trên. Nhưng ai nấy phải coi chừng thể nào mình
xây cất trên nền đó. Vì chẳng ai có thể
lập nền khác ngoài nền đã lập, là Jêsus Christ "(I Cor 3: 9-11).
Chúng ta phải đảm bảo rằng chúng ta có một kinh nghiệm sống,
xác định, cá nhân, về sinh hoạt của Chúa Giêsu Christ. Sau khi đã chắc chắn về
kinh nghiệm cá nhân của chúng ta về sự cứu rỗi, mà chúng ta có trong Ngài,
chúng ta phải được xây dựng dựa trên nền tảng của các sứ đồ và tiên tri. "Được
xây dựng trên nền các sứ đồ và tiên tri, chính Christ Jêsus là đá đầu góc nhà, các gian nhà đều kết liên trong Ngài, lần lần
lớn lên nên đền thờ thánh của Chúa. Trong Ngài anh em cũng cùng được xây dựng để
làm chỗ ở của Đức Chúa Trời trong Thánh Linh"(Eph 2: 20-22).
Chúng ta làm theo những gì các sứ đồ và các tiên tri dạy
trong kinh thánh. Đó là về trật tự thuộc thiên. Chúng ta không thể thay đổi thứ
tự thần thượng và kế hoạch thuộc thiên vì chúng ta đã được ban cho theo một
cách rất rõ ràng tất cả các hướng dẫn cần thiết cho sự phát triển thuộc linh của
chúng ta. Phaolô cho thấy trong bức thư gửi người Hê-bơ-rơ làm thế nào để đến
trên nền tảng này. Nếu bạn muốn tiến đến sự trọn vẹn, hãy sáng tỏ và chắc chắn
về các nguyên tắc cơ bản, đầu tiên của giáo lý sự cứu rỗi. " Ấy vậy, chúng ta nên gác qua sự sơ học
về đạo Đấng Christ mà bươn tới sự trọn vẹn, chớ nên lập lại nền tảng nữa, như sự
ăn năn việc chết, đức tin đến Đức Chúa Trời, sự dạy dỗ về báp-têm, về sự đặt
tay, về sự sống lại của kẻ chết, và về sự xét đoán đời đời"(Heb. 6: 1-2).
Ở đây vị sứ đồ nói về sáu nguyên tắc cơ bản và đầu tiên của giáo
lý sự cứu rỗi. Đầu tiên là sự ăn năn về những công việc chết; điều thứ hai là
niềm tin đối với Đức Chúa Trời; thứ ba là báp-têm; thứ tư sự đặt tay; thứ năm
là sự sống lại của người chết; và điều thứ sáu là sự phán xét đời đời. Chúng
tôi có thể chia thành ba nhóm, mỗi nhóm có hai nền tảng, vì chúng đi chung với
nhau - sự ăn năn và đức tin đi đôi với nhau; tương tự như vậy, báp-têm và đặt
tay đi với nhau và sự sống lại của người chết với sự xét đoán đời đời và đi
cùng nhau.
1. HỐI CẢI (Ăn Năn)
Trước hết hãy xem ăn năn có nghĩa là gì. Chúng ta phải nhận ra rằng chúng ta
không bao giờ có thể được xưng nghĩa bằng những việc làm tốt. Không ai có thể
trở nên công chính, công nghĩa bởi những nỗ lực của riêng mình, tuy nhiên con
người vẫn cố thử. Nhưng bởi đức tin bất
kỳ ai cũng có thể trở nên công bình. Chúng ta chỉ có thể tin. Không phải bởi việc
làm. "Vì nhờ ân điển bởi đức tin mà anh em được cứu, ấy không phải từ anh
em đâu, bèn là ban tứ của Đức Chúa Trời; cũng chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho
không ai khoe khoang"(Eph 2: 8-9). Không ai trong chúng có thể trở nên
công chính hay công nghĩa trước mặt Đức Chúa Trời bằng lời cầu nguyện dài hoặc
bằng cách kiên ăn hoặc bằng kiến thức về Kinh Thánh, hay bởi đau khổ, hay bất kỳ
hoạt động nào khác.
Đó là điều đầu tiên chúng ta phải nhớ. Nhiều người nghĩ rằng
bằng cách sống cuộc sống đơn giản hoặc bằng cách tham gia vào tiệc thánh của
Chúa, họ có thể trở nên công bình hơn. Chúa Jesus Christ, chính thân vị sống động
của Ngài là sự công bình của chúng ta. "Nhưng ấy là nhờ Ngài mà anh em được
ở trong Christ Jêsus, là Đấng mà Đức Chúa Trời đã làm nên sự khôn ngoan, sự
công nghĩa, sự thánh hóa, và sự cứu chuộc cho chúng ta (I Cor 1:30).
Ngài đã phải trả giá đầy đủ cho các tội lỗi của chúng ta.
Ngài tiếp lấy sự phán xét, hình phạt và lên án của chúng ta, vì vậy bạn hãy ăn năn khỏi các công việc
chết. Chúng tôi thấy rằng quốc gia Do Thái đui mù cách thuộc linh vì sự tự xưng
nghĩa và tiêu chuẩn đạo đức cao của họ. Rô-ma 4: 5 nói, "Còn kẻ chẳng làm việc chi,
nhưng tin Đấng xưng tội nhân là công nghĩa, thì đức tin của kẻ ấy được kể là
công nghĩa".
Chúng ta phải rất rõ ràng về điểm này. Chúa Jesus Christ là Đức
Chúa Trời Hằng Sống. Khi chúng ta dự phần bàn tiệc thánh của Chúa, chúng ta làm
chứng rằng Ngài là bánh của chúng ta. Ngài là sự sống của chúng ta và Ngài là sự
công bình của chúng ta. Chúng ta phải chiếm hữu sự công bình của Ngài cách liên
tục. Đó là do chiếm hữu sự sống của Ngài bởi đức tin mà chúng ta trở nên công
bình hơn. Nếu không chúng ta đi vào sự đấu tranh và cố gắng để trở nên thánh
thiện thì sẽ bị đánh bại một lần nữa và một lần nữa. Đó là lý do tại sao nhiều
người rơi vào sự định tội.
Họ đấu tranh rất khó nhọc để trở nên công bình, nhưng họ
không thể trở nên công bình. Những nỗ lực của chúng ta để trở nên công bình giống
như các công việc chết. Vì vậy, Paul nói rằng điều đầu tiên phải chết để trở
nên công bình là phải ăn năn khỏi các công việc chết như vậy. Chúng ta tin rằng
với tất cả tấm lòng của chúng ta, rằng Chúa đã chiếm lấy chỗ của chúng ta, chịu
sự phán xét và trừng phạt của chúng ta và chính Ngài là sự công bình của chúng
ta. Bởi đức tin, chúng ta sẽ nhận được nhiều hơn và nhiều hơn nữa trong sự sống
của Ngài. Mỗi lần chúng ta bị đánh bại, chúng ta nên nói: "Lạy Chúa, tôi
không tôn vinh trong bản thân mình. Ngài là sự sống và sự công bình của tôi.
"Đó là nguyên tắc đầu tiên, nguyên tắc cơ bản và là nền tảng của sự cứu rỗi.
2. ĐỨC TIN-
Bây giờ nguyên tắc cơ bản thứ hai của giáo lý về sự cứu rỗi
là đức tin. Chúng ta phải có niềm tin đối với Đức Chúa Trời. Đối với tất cả mọi
thứ, chúng ta cần phải có đức tin. Đối với sự cầu nguyện, chúng ta cần đức tin.
Để nhận được sự sống của Ngài, chúng ta cần đức tin. Nếu không có đức tin, bất
cứ điều gì chúng ta làm sẽ là một thất bại. Đó là lý do tại sao rất nhiều lần
Chúa nói với người bệnh, "đức tin ngươi đã cứu ngươi" (Luca 7:15, 8:48,
17:19, 18:42). Theo Mathew 9: 2, khi thấy đức tin của bốn người khiêng người đàn
ông thực sự bại liệt, Chúa chữa lành cho. Bởi đức tin, chúng ta có thể hiểu được
những điều vô hình. "Vả, đức tin là thực thể hóa của điều mình hi vọng, bằng
cớ của điều mình chưa thấy" (Heb. 11: 1).
Những điều vô hình, đó là điều có thật, không thể được hiểu bằng
điều thấy được. Tuy nhiên chúng ta có thể thông minh, dù chúng là bí ẩn đối với
chúng ta, nhưng bởi đức tin chúng ta có thể hiểu được những bí ẩn thuộc thiên
và những thứ vô hình. Bởi đức tin, những lời cầu nguyện của chúng ta được trả lời.
Bởi đức tin, chúng ta được hưởng quyền năng của Ngài. Tất cả đều bởi đức tin.
Như vậy chúng ta thấy đức tin là nguyên tắc cơ bản và là nền tảng của đời sống
cầu nguyện, nghiên cứu kinh thánh hay bất kỳ phụng vụ nào khác.
Bởi đức tin, chúng ta vâng lời Chúa và bước theo Chúa, như đức
tin của ông Mathio (Mathew 9: 9). Ông không tranh luận, hay chất
vấn Chúa, "Lạy Chúa, những gì về công việc làm ăn của tôi? Còn những người
dưới quyền của tôi? "Nhưng ngay lập tức ông đã đi theo Chúa bằng đức tin. Khi
Chúa gọi tôi (Bakht Singh) cho phụng sự của Ngài, tôi không thể hiểu làm thế
nào tôi có thể phục vụ Ngài vì những khuyết tật của mình. Nhưng tôi chỉ tin rằng
Ngài có thể giúp tôi mặc dù tôi nói lắp và nói cà lăm. Khi tôi bắt đầu chức vụ
công khai của tôi, tôi đã cầu nguyện rất khó khăn.
Sau đó, Chúa đã làm cho tôi chú ý đến lời hứa của Ngài trong
Mathio.10: 20. "Bởi ấy chẳng phải các ngươi nói đâu, bèn là Linh của Cha
các ngươi ở trong các ngươi mà nói ra vậy". Tôi tin vào điều đó. Một ngày
kia, tôi đã phải đứng trước một cuộc họp
rất lớn, khoảng bảy trăm người. Khi tôi nhìn thấy những khuôn mặt của họ, tôi bắt
đầu run rẩy. Kinh thánh, mà tôi nắm trong tay tôi, cũng run rẩy. Vì vậy, tôi cầu
nguyện: "Lạy Chúa, xin thương xót con. Chạm vào môi, lưỡi và cổ họng con".
Tôi không bao giờ biết những gì tôi sắp nói, nhưng Chúa chạm vào tôi và một số
câu và chương đến bộ nhớ của tôi.
Tôi đã phải đi đến trường học, trường cao đẳng, trường đại học
và các khu nhà ổ chuột. Khi tôi đi đến các khu ổ chuột và thấy người dân ở đó,
tôi tràn đầy sợ hãi bởi vì họ sẽ thậm chí không nhìn đến tôi. Thay vào đó, họ
chỉ chế giễu tôi. Vì vậy, tôi phải cầu xin Chúa thương xót tôi và giúp đỡ tôi.
Tôi biết những khuyết tật và nhược điểm riêng của tôi. Đó là lý do tại sao mỗi
khi tôi kêu cầu Ngài trong đức tin, Ngài đã giúp tôi.
Đời sống thuộc linh của
chúng ta được sống bởi đức tin. Bởi đức tin, chúng ta buộc trói Satan. Bởi đức
tin, chúng ta đòi hỏi những lời hứa của Đức Chúa Trời. Bởi đức tin mà chúng ta
có thể có sự sống đời đời. Đó là lý do tại sao sự ăn năn và đức tin đi đôi với
nhau. Những người không có đức tin không thể phát triển về mặt tâm linh.
Nhiều nhà truyền giảng không có đức tin. Mặc dù họ tổ chức cuộc
họp lớn và các chiến dịch rao phúc âm, nhưng khi họ muốn có tiền, họ bắt đầu ăn
xin từ người khác. Đó là nơi mà họ bước đi sai lạc. Họ có rất nhiều chương
trình và các mưu đồ để lấy tiền. Khi họ lập kế hoạch các chiến dịch rao tin
lành họ bắt đầu viết thơ gởi đi nhiều nơi gợi ý xin tiền trong nhiều tháng. Đó
không phải là đức tin. Bởi khi có một niềm tin sống động và mạnh mẽ nơi Chúa của
chúng ta, chúng ta có thể hưởng sự bình an hoàn hảo của Ngài và tất cả các nhu
cầu của chúng ta được đáp ứng
3. BÁP-TÊM
Báp-têm là nguyên tắc cơ bản và nền tảng tiếp theo của sự cứu
rỗi (Heb. 6: 2). Nhiều tín đồ không hiểu biết sự cần thiết và tầm quan trọng của
nó. Giả sử trong thân thể của chúng ta còn thiếu một số vitamin, chúng ta sẽ ngã bệnh. Nhiều người đi đến các ngọn đồi ở
miền Nam Ấn Độ cho kỳ nghỉ hè vì miền đó có khí hậu tốt. Những năm trước đây,
những chỗ đó đã cho thấy rằng nhiều người được khỏi một số bệnh ngoài da. Lý do
không được biết đến. Khí hậu rất tốt, các dòng nước tốt đẹp và đã có rất nhiều món
ăn ngon, nhưng về sau họ lại thấy người ta đã ngã bệnh. Sau nhiều sự nghiên cứu,
họ phát hiện ra rằng không có canxi trong nước, khi canxi được bổ sung vào nước
uống, họ được chữa lành. Như vậy chúng ta thấy rằng một sự thiếu hụt canxi hoặc
phốt pho, sắt hoặc các vitamin khác, mang lại bệnh tật trong thân thể. Tương tự
như vậy, nếu chúng ta không tuân theo sự báp têm trong nước, chúng ta không thể
phát triển thuộc linh.
Báp têm cũng quan trọng như bất kỳ nguyên tắc cơ bản và nền tảng
nào khác của sự cứu rỗi. Kẻ thù sử dụng nhiều mưu kế để cầm giữ tín đồ ở trong
sự đui mù về nó. Một số người tin rằng báp têm không cần thiết; nếu chúng ta được
sinh ra một lần nữa thì đủ rồi. Đối với các Cơ đốc Nhân theo danh nghĩa, báp-têm
chỉ là một nghi thức, nhưng đối với các tín hữu, đó là một minh chứng. Bởi báp
têm, bằng cách mặc khải, chúng ta hiểu sự kết hiệp với Chúa Giêsu Christ
trong cái chết, sự chôn cất và sự sống lại của Ngài.
Sau khi được hoán cải trong hai năm, tôi chưa bao giờ nghĩ về
phép báp-têm. Tôi đọc Kinh Thánh mỗi ngày. Đôi khi tôi dành cả ngày đọc Kinh
Thánh, nhưng vì đã không được báp-têm, tôi nghĩ rằng điều đó không cần thiết. Một
buổi sáng thứ bảy trong tháng hai năm 1932, khi tôi có thời gian ở riêng, Chúa
đã nói với tôi qua Matthew 3:13. "Khi ấy Jêsus từ Ga-li-lê đến cùng Giăng
tại Giô-đanh đặng chịu người làm báp-têm". Chúa nói rõ ràng cùng tôi,
"con có bất kỳ cách nào tốt hơn là Cứu Chúa của con không?" Tôi trả lời,
"Lạy Chúa, con không bao giờ nói như vậy". Ngài nói ," vậy về báp
têm của con thì thể nào? “.
"Tôi đã nghĩ rằng báp têm không thật quan trọng bởi vì
tôi được sinh ra một lần nữa và đã đưa ra lời chứng của tôi ở khắp mọi nơi.
Nhưng Chúa đã nói với tôi rất rõ ràng, rằng Ngài đã chịu báp-têm vì cớ tôi, thậm
chí dù không có nhu cầu để Ngài chịu báp-têm như vậy. Ngày hôm sau tôi đã chịu báp-têm.
Ngày hôm đó tôi dự cuộc nhóm họp và trong cuộc họp tôi đã được báp-têm. Tôi đã
được đầy dẫy niềm vui lớn khi tôi bước ra khỏi nước, và từ ngày đó trở đi, Kinh
Thánh đã trở thành một cuốn sách mới với tôi. Tôi tận hưởng nhiều tự do trong lời
cầu nguyện và làm chứng, mọi việc trở nên mới mẻ với tôi. Tôi phát hiện ra rằng
có năm mươi mốt chỗ tham chiếu trong các sách Phúc Âm và các thư tín về phép
báp têm. Tôi gom chúng lại với nhau và nghiên cứu chúng.
Bây giờ chúng ta đọc trong Heb.6: 2, đó là giáo lý về phép báp-têm.
Tại sao nó được viết là "báp-têm"? Khi chúng ta được sinh ra một lần
nữa, chúng ta được báp-têm vào một Thân Thể, bởi Đức Thánh Linh. Đó là lễ báp-têm
đầu tiên. "Vì chưng chúng ta, hoặc người Do-thái hoặc người Hi-lạp, hoặc
tôi mọi, hoặc tự chủ, thảy đều đã chịu báp têm trong một Thánh Linh để nên một
thân, và thảy đều đã chịu uống cùng một Thánh Linh nữa"(I Cor.12: 13).
Điều thứ hai là báp têm bằng nước. Trong Kinh Thánh, từ ngữ báp-têm
không bao giờ được sử dụng cho sự đầy đủ. Báp-têm có nghĩa là rửa sạch hoặc dìm
xuống hoặc tắm. Khi chúng ta đi tắm chúng ta rửa toàn bộ thân thể của chúng ta.
Nếu chúng ta chỉ rửa tay hoặc bàn chân của chúng ta mà thôi, đó không phải là tắm.
Trong cùng một cách, trong báp têm, chúng ta đang đắm mình vào trong nước mà qua
đó chúng ta làm chứng rằng Chúa Jesus Christ đã hoàn toàn rửa sạch mọi tội lỗi
của chúng ta đi.
Thứ hai, thông qua báp
têm, chúng ta tuyên bố sự kết hiệp với Chúa Giêsu Christ trong sự chết, sự chôn
và sự sống lại của Ngài. “Anh em há chẳng biết rằng hết thảy chúng ta là những
người đã chịu báp-têm trong Christ Jêsus, đều đã chịu báp-têm trong sự chết của
Ngài sao? Vậy, chúng ta đã nhờ báp-têm
trong sự chết của Ngài mà được đồng chôn với Ngài, hầu cho như Christ nhờ sự
vinh hiển của Cha mà được từ kẻ chết sống lại thể nào, thì chúng ta cũng phải
ăn ở trong đời sống mới thể ấy. Vì nếu chúng ta đã được liên hiệp với Ngài
trong hình trạng của sự chết Ngài, thì chúng ta cũng sẽ được liên hiệp với Ngài
trong hình trạng của sự sống lại Ngài”(Romans 6:3-5).
Như chúng ta đã thấy, khi chúng ta được cứu chúng ta đã được báp-têm
bởi Thánh Linh vào Thân Thể của Đấng Christ, có nghĩa là chúng ta đã được liên
kết với Ngài. Chúng ta trở thành các chi thể Thân Thể của Ngài và sự sống của
Ngài bắt đầu tuôn chảy trong chúng ta. Trong báp têm bằng nước, chúng ta tuyên
bố sự liên hiệp thuộc linh này với Chúa Giêsu Christ. Ngài là Đấng Tạo Hóa của chúng
ta, Ngài đã ban cho chúng ta sự sống của Ngài. Nói cách khác, cuộc sống của chúng
ta đang ở trong Ngài. "Trong Ngài có sự sống; và sự sống là sự sáng của
loài người "(Giăng 1: 4). Đó là lý do tại sao khi Ngài qua đời, chúng ta đã
chết với Ngài. Khi Ngài đã bị chôn, chúng được chôn cất. Khi Ngài sống lại một lần nữa, chúng ta cũng được sống lại với
Ngài.
Sự liên hiệp với Chúa Giêsu Christ có thể được giải thích như
thế này. Nếu một người phụ nữ có mang, sắp sinh một trẻ em mà cô lại chết, đứa
trẻ trong bụng cô cũng chết. Khi cô được chôn, đứa trẻ cũng được chôn cất. Nếu có
một phép lạ nào mà người phụ nữ được đưa trở lại cuộc sống, đứa trẻ trong lòng
cô cũng được làm cho sống động. Cuộc sống của chúng ta ở trong Chúa Giêsu Christ.
Đó là lý do tại sao chúng ta được hiệp nhất với Ngài trong sự chết, sự chôn và
sự sống lại của Ngài. Tuyên bố sự đồng nhất như vậy với Chúa, chúng ta được báp-têm.
Bởi đức tin, chúng ta có thể tận hưởng đầy đủ sự liên hiệp
thuộc linh của chúng ta với Chúa Giêsu. Ngài đã qua đời nhiều năm trước đây và thậm
chí bây giờ chúng ta cũng có thể được hưởng lợi ích từ điều đó. Bởi quyền năng
sự chết của Ngài, chúng ta có thể chết với bản chất cũ của chúng ta. Chúng ta
không thể chết đối với nó bằng năng lực ý chí của chúng ta. Đối với tất cả các
điểm yếu của chúng ta như nóng giận, ghen tị, kiêu ngạo và lòng thù hận và cho
tất cả những thất bại của chúng ta, chúng ta nên nói bằng đức tin, "Lạy
Chúa Giêsu, con nhìn thấy những điểm yếu nầy trong con. Hãy cất đi những nghi
ngờ và sợ hãi. Con muốn chết đối với những điểm yếu, tư tưởng, khát vọng và kế
hoạch của con bởi quyền năng sự chết của Ngài. Tương tự như vậy, con muốn tất cả
những ham muốn và những điểm yếu của con bị chôn vùi bởi quyền năng sự chôn cất
của Ngài. Bởi cùng một đức tin, con muốn nhận vào trong tôi quyền năng sự phục
sinh của Ngài".
Đó là cách chúng ta có
để chiếm đoạt quyền năng sự chết, sự chôn và sự sống lại của Ngài. Sự chết của Ngài có giá trị
tồn tại và vĩnh cửu. Lời Ngài là vĩnh cửu, và những hành động của Ngài cũng là
vĩnh cửu, vì Ngài là vĩnh cửu. Sự chết của Ngài có lợi cho những người sống trước
mặt Ngài và cũng cho những người sống sau Ngài.
Mỗi ngày, bằng đức tin, chúng ta được tiếp nhận quyền năng của sự chết của Chúa
Giêsu, để chết đối với những suy nghĩ của chúng ta; quyền năng sự chôn cất của Ngài
để quên chúng nó; và quyền năng sự phục sinh của Ngài để tiếp nhận sự sống mới
cho chiến thắng trên tội lỗi và cám dỗ. Vì mục đích này mà chúng ta nên được báp-têm,
và học cách tận hưởng sự hiệp nhất thuộc linh của chúng ta với Chúa trong cách
gấp ba này. Báp têm không phải là một lễ nghi, nhưng một lời chứng. Những người
không tuân theo trong phép báp-têm sống cuộc sống thất bại. Họ phụ thuộc vào năng
lực ý chí hoặc kiêng ăn hoặc lời cầu nguyện dài để có chiến thắng, nhưng họ
đang bị đánh bại. Bởi sự hiệp nhất của chúng ta với Chúa, chúng ta có được chiến
thắng. Bởi báp têm bằng nước, chúng ta tuyên bố rằng chúng ta được liên hiệp thuộc linh với Chúa chúng ta. Đó là lý do tại
sao báp-têm là một nguyên tắc cơ bản, giúp chúng ta tận hưởng phần chia của chúng
ta trong sự đầy đủ của Đấng Christ.
4. ĐẶT TAY-
Nguyên tắc thứ tư cơ bản và nền tảng của sự cứu rỗi là sự đặt
tay (Heb. 6: 2). Sáu nền tảng là: “sự ăn năn việc chết, đức tin đến Đức Chúa Trời,
sự dạy dỗ về báp-têm, về sự đặt tay, về sự sống lại của kẻ chết, và về sự xét
đoán đời đời”. Bài nầy bàn luận về sự đặt
tay:
Trong Kinh Thánh sự đặt tay đã được sử dụng cho các mục đích khác
nhau như thể hiện các mối quan hệ, sự hiệp một, bình đẳng và đồng nhất. Lần đề
cập đầu tiên của sự đặt tay được tìm thấy trong Sáng. 48:14. "Y-sơ-ra-ên
đưa tay mặt ra, để trên đầu Ép-ra-im, là đứa nhỏ, còn tay trái lại để trên đầu
Ma-na-se. Người có ý riêng để đặt tay như vậy, vì Ma-na-se là đứa lớn". Jacob
đặt tay trên hai cháu trai của ông và chúc phước cho chúng nó.
Joseph đã trở thành một con người rất vĩ đại và giàu có ở Ai Cập; ông chỉ dưới quyền
Pharaoh, nhưng ông đã mang hai con trai của mình đến trước mặt người cha nghèo nàn
của ông là Jacob, để cụ có thể ban phước cho chúng nó. Gia Cốp đã không mang lại
cho chúng một phước lành của thế giới. Về vật chất, Joseph đã giàu hơn Jacob nhiều,
nhưng ông đã mang hai con trai của ông đến cha mình là Jacob, vì ông biết rằng Đức
Chúa Trời đã hứa một phước hạnh gấp bảy lần cho Abraham và dòng dõi người (Sáng
12:. 2- 3)
Có rất nhiều tín đồ bị dân thế tục lừa dối. Họ bước đi trong
đường lối của thế giới. Họ quan tâm nhiều hơn trong các bữa tiệc tối và những
buổi dã ngoại chung với dân ngoại đạo, hơn những việc của Đức Chúa Trời. Đó là
lý do tại sao họ không phát triển thuộc linh. Là tín đồ, chúng ta không thể có
bất kỳ sự tương giao nào với người thế giới. Chúng ta không nên có bất kỳ sự dự
phần nào trong các hoạt động trần thế. Chúng ta có thể nhân từ và lịch sự với họ,
nhưng về mối liên hệ của chúng ta thì phải chỉ với dân của Đức Chúa Trời, ngay
cả khi họ là người nghèo hoặc không biết chữ, bởi vì họ là dân tộc của chúng ta.
Vì vậy, bằng cách đặt tay sau khi báp-têm, chúng ta tuyên bố với nhau rằng chúng
ta được đồng nhất với dân của Chúa.
Tôi nhớ một biến cố trong cuộc sống của tôi. Trong ngày tôi
học đại học tôi đã có một người bạn rất tốt. Khi tôi sắp sửa Canada trở về Ấn Độ,
tôi đã đến thăm anh ta. Bởi sau đó, anh đã trở nên rất giàu có. Anh yêu cầu tôi
để dành một vài ngày ở lại chơi với anh ta. Anh ấy rất tốt với tôi, và làm tôi
rất thoải mái, nhưng tôi chỉ cảm thấy mình giống như một người lạ trong nhà anh.
Tôi không thể cầu nguyện với anh ta hay nói chuyện với anh ta về Đức Chúa Trời.
Tôi thậm chí không thể tìm thấy một nơi nào thích hợp để cầu nguyện riêng cho
thời gian khá dài của tôi. Vì vậy, mỗi buổi sáng, tôi thường đi đến cánh đồng gần
đó. Một ngày kia, sau khi kết thúc thời gian cầu nguyện của tôi, tôi nghe lời ca
hát từ phía bên kia cánh đồng này. Tôi đã đi theo hướng đó và thấy một túp lều
nhỏ làm bằng bùn và rơm. Tôi đứng đó và nghe cả gia đình đang hát một bài hát
Giáng sinh. Thấy tôi đứng đó, một con người bước ra ngoài và hỏi tôi, "ông
ơi, ông muốn thăm ai?" Tôi nói,
"Không, tôi là một Cơ Đốc nhân. Tôi nghe một bài hát Cơ Đốc được hát lên ở đây, và trái tim của tôi bị thu hút đến với bạn.
"Ông nói." xin vui lòng mời vào". Tôi bước vào trong.
Đó là một túp lều nhỏ. Không có đồ nội thất. Tôi ngồi trên
sàn nhà, nhưng tôi đã rất hạnh phúc. Mặc dù người bạn của tôi đã rất tốt với tôi, ngôi nhà của anh được trang bị đồ
nội thất đắt tiền và mọi thứ đều tuyệt vời, tôi vẫn cảm thấy như một người lạ.
Nhưng bây giờ, tôi đã gặp con người này lần đầu tiên; tôi thậm chí còn không biết
tên của ông. Ông rất nghèo, thu nhập hầu như không được 10 đô-la một tháng,
nhưng tôi đã được hạnh phúc khi ở với ông ta, bởi vì chúng tôi đã ca hát với
nhau và cùng nhau cầu nguyện. Tôi tự nhũ thầm, "minh đã tìm thấy dân của
mình rồi".- Chúng ta thuộc về Đức Chúa Trời và dân Ngài. Những ai bị thu
hút bởi bạn bè thế giới, họ không phát triển thuộc linh.
Khi Joseph đã đưa hai con trai của mình đến trước mặt Jacob,
Ông đặt tay trên chúng nó. Bằng cách làm như vậy, ông đã làm đồng nhất hai cậu cháu
trai với cả gia đình mình. Ông nói, "hai cháu là con của tôi, ngay cả khi
hai cháu đã được sinh ra ở Ai Cập. Hai cháu thuộc về gia đình của tôi. Bây giờ
hai cháu có một phần bình đẳng trong các phước lành mà Đức Chúa Trời đã ban cho
Abraham và dòng dõi của ông ấy". Bằng cách đặt tay trên chúng, ông cũng nhắc
nhở chúng," Bây giờ, các cháu của tôi ơi, đừng để mình bị lừa gạt bởi Ai Cập
, bởi sự giàu có hay vinh quang của nó. Đức Chúa Trời đã ban cho hai cháu một cơ
nghiệp thuộc linh và vĩnh cửu tuyệt vời cùng với những đứa con khác của Abraham".
Như vậy, bằng cách đặt tay, chúng ta bày tỏ sự hiệp một thuộc
linh và mối quan hệ của
chúng ta với con cái của Chúa, những người đã được chuộc bằng huyết quí báu của
Chúa Jesus Christ. Trong thị trấn của bạn có thể có nhiều người, nhưng chỉ có dân
biết Chúa Giêsu Christ là anh em, chị em của bạn mà thôi. Trong Mathio12: 50,
Chúa chúng ta nói, " Vì hễ ai làm theo ý chỉ Cha ta ở trên trời, nấy là anh em, chị em, và mẹ
Ta". Trong sự đặt tay, chúng ta tuyên bố rằng chúng ta thuộc về dân yêu mến
Chúa, không phân biệt quốc gia hay nền văn hóa và giáo dục. Chúng ta thuộc về
cùng một gia đình. Chúng ta không thể bị lừa gạt nữa bởi thế giới và sự hấp dẫn
của nó. Vì vậy, ý nghĩa đầu tiên của sự đặt-tay là mối quan hệ thuộc linh của chúng
ta với các tín đồ khác.
Thứ hai, bằng sự đặt tay, chúng ta tuyên bố sự đồng nhất của
chúng ta với Chúa Giêsu trong sự chết hy sinh của Ngài. "Người sẽ nhận tay
mình trên đầu con sinh, nó sẽ được nhậm thế cho, hầu chuộc tội cho người"(Lê-vi
ký 1:. 4). Bất cứ khi nào mà bất cứ ai trong thời Cựu ước, đã mang một sinh tế đến
cửa đền tạm, ông sẽ đặt tay mình trên động vật và thú nhận các tội lỗi của
mình. Sau đó, con sinh đã bị giết chết và hy sinh trên bàn thờ.
Bằng cách đặt tay mình trên con sinh, ông tuyên bố, "con
vật này sẽ phải chết thay cho tôi". Bản thân ông không thể đi vào bên
trong. Ở vị trí của mình, con vật đã bị giết và được đem vào bên trong làm một
sự hy sinh. Tương tự như vậy, bởi đức tin chúng ta tuyên bố rằng Chúa Jesus đã
chết thay cho chúng ta. Vì vậy việc đồng nhất hóa thuộc linh của chúng ta trong
sự chết của Chúa Giêsu được thể hiện bởi cách đặt tay.
Kế đến, chúng ta đọc trong Công 8: 14-17 cách Peter và John đặt
tay mình trên các tín đồ Samaritan. "Các sứ đồ tại Giê-ru-sa-lem nghe dân
Sa-ma-ri đã nhận Lời Đức Chúa Trời, bèn sai Phi-e-rơ và Giăng đến cùng họ. Khi hai người tới nơi, thì cầu nguyện cho họ để
họ nhận lãnh Thánh Linh; vì Ngài chưa
giáng xuống trên một ai trong họ, họ chỉ nhơn danh Chúa Jêsus mà chịu báp-têm
thôi. Hai người bèn đặt tay trên họ thì họ đều nhận lãnh Thánh Linh".
Trong tiến trình bình thường, người Samari nên nhận được Đức Thánh Linh khi họ
tin tưởng, nhưng trong trường hợp đặc biệt này, vì một mục đích, Chúa đã nắm giữ
Đức Thánh Linh lại, Đấng đã được ban ra sau đó với sự đặt tay.
Chúng ta đọc trong Giăng 4: 9 rằng người Do Thái đã không
giao dịch với người Samaria. Bây giờ chính những người Samari đó đã tin Chúa
Giêsu Christ. Nếu Chúa đã ban Thánh Linh cho họ khi họ mới tái sinh, người Do
Thái đã có thể nói rằng những gì họ nhận được vào ngày Lễ Ngũ Tuần là một cái
gì đó tốt hơn so với những gì người Samari nhận được. Đó là lý do tại sao Đức
Chúa Trời đã sai Phi-e-rơ và Giăng đến Samaria để chính họ có thể nhìn thấy cách
thế nào chính cùng món quà, mà dân Do Thái nhận được vào ngày Lễ Ngũ Tuần cũng
đã được trao cho người Samari. Sau đó, Peter và John đặt tay mình trên người
Samari để thừa nhận rằng họ bình đẳng và rằng họ là anh em của hai ông.
Trước đó, họ đã được chia ra. Hai ông đặt tay trên họ để thể
hiện sự bình đẳng và sự hiệp nhất thuộc linh. Để thể hiện sự thật này rằng chúng ta đều là một,
chúng ta có các lời chứng của sự đặt tay. Chúng ta tuyên bố rằng không có sự
khác biệt giữa người giàu và người nghèo, cao và thấp, có học hay thất học:
chúng ta đều là một. "Chẳng chia ra hoặc người Do-thái hay người Hi-lạp,
tôi mọi hay tự chủ, nam hay nữ, vì anh em thảy đều là một trong Christ Jêsus "(Gal
3:28). Chúng ta có thể xuất thân từ bất kỳ gia đình, bất cứ nước nào, hoặc bất
kỳ bước đi nào của cuộc sống khi chúng ta được sinh ra một lần nữa; chúng ta trở
nên quý giá cách đồng đều, đều cần thiết
và quan trọng ngang bằng với Đức Chúa Trời. Chúng ta bày tỏ sự thật này bằng
cách đặt-tay.
Các tín đồ Côrintô được chia thành nhiều nhóm. "Tôi có ý
nói rằng trong anh em mỗi người nói: “Ta thuộc về Phao-lô,” - “Ta thuộc về
A-bô-lô,” - “Ta thuộc về Sê-pha,” - “Ta thuộc về Christ.” Đấng Christ há bị chia xé ra sao? Phao-lô há
vì anh em đã chịu đóng đinh trên thập tự giá sao? Hay là anh em đã nhơn danh
Phao-lô mà chịu báp-têm sao?"( 1Cor.1: 12-13). Bằng cách này, họ bắt đầu gọi
mình bằng cái tên khác nhau, khi chúng ta gọi mình bằng những cái tên (danh hiệu)
khác nhau, chẳng hạn như Baptist, Methodist, Anh giáo, Anh Em, Ngũ Tuần và như vậy, nó mang lại sự
chia rẽ. Chúng ta đều chỉ thuộc về Đấng Christ. Chúng ta không có quyền để được gọi bằng những tên nào khác.
Khi tôi áp dụng cho một giấy hôn thú để được cử hành nghi thức kết hôn cho tôi, tôi đã
được hỏi, "giáo phái của bạn là gì?”. Tôi trả lời. "Thân thể của Đấng
Christ. Chúng tôi không có tên và không có nhãn hiệu; chúng tôi chỉ là Cơ Đốc
nhân". Sau đó, câu hỏi tiếp theo là, "bạn có có bao nhiêu thành viên?
". Tôi trả lời, "chúng tôi không có bất kỳ quyền thành viên nào?;
chúng tôi đều bình đẳng. Chúng tôi là một”. Tất cả đều được chào đón nếu họ được
sinh ra một lần nữa. Nhưng sự hiệp nhất này phải được duy trì.
Bằng cách đặt tay, chúng ta làm chứng với nhau rằng chúng ta
đều là một và như nhau trong cái nhìn của Chúa. Dù giáo dục, của cải và địa vị chúng ta có là gì đi nữa, đó chỉ là bởi ân sủng
của Đức Chúa Trời. "Nhưng tôi nay là người thể nào, ấy là nhờ ân điển của
Đức Chúa Trời, và ân điển Ngài ban cho tôi cũng không phải là luống nhưng đâu.
Trái lại, tôi đã quá lao khổ hơn họ hết thảy, nhưng nào phải tôi, bèn là ân điển
Đức Chúa Trời ở cùng tôi. "(I Cor.15: 10). Sứ đồ Phaolô đã làm nhiều việc
hơn các sứ đồ khác, chỉ vì ân sủng của Đức Chúa Trời. Nếu Chúa đã ban cho bất cứ
ai trong chúng ta bất cứ ân tứ giảng dạy hoặc rao giảng nào, đó chỉ là bởi ân
điển của Ngài, chúng ta không đáng hưởng. Chúng ta được cứu bởi ân điển của
Ngài, và chúng ta nhận được ân tứ khác nhau cũng bởi ân sủng của Ngài. Khi chúng
ta đến thiên đàng chúng ta sẽ được thưởng theo lòng trung thành của chúng ta,
và không theo ân tứ của chúng ta.
Trong Hội thánh sơ khai, kẻ thù mang lại sự phân chia giữa
người Do Thái và các dân ngoại. Chúng ta thấy trong Gal. 2: 11-14, thế nào Đức
Chúa Trời đã phải dùng Paul quở trách thậm chí Peter, vì chúng ta tìm thấy sự
khác biệt về đẳng cấp cao và đẳng cấp thấp. Trong cùng một cách, một số Cơ Đốc
nhân theo danh nghĩa tin rằng người ta không thể tham gia vào tiệc thánh trừ
khi ông ta được xác nhận. Sự chia rẽ như vậy đến, vì những lời dạy sai trật. Tất
cả dân được sinh ra một lần nữa là một và phải vẫn là một. Là tín đồ, chúng ta
nên từ chối tham gia vào bất kỳ hoạt động, chức năng hay nghi lễ nào, trong đó
đem lại sự chia rẽ giữa dân Chúa.
Trong Công 13: 2-3, chúng ta có một ví dụ của sự đặt-tay.
"Đang khi họ phụng sự Chúa và kiêng ăn, thì Thánh Linh phán rằng: “Hãy biệt
riêng Ba-na-ba và Sau-lơ cho ta để làm công việc ta đã gọi họ làm. Vậy, khi đã
kiêng ăn và cầu nguyện xong, họ bèn đặt tay trên hai người, rồi sai đi".
Barnabas và Saul đã được hội thánh sai đi. Họ không tự mình ra đi. Nhờ đặt tay
trên họ, các trưởng lão nói, "Anh đi thay cho chúng tôi. Chúng tôi đang đi
với bạn. Chúng tôi đang đứng bên cạnh bạn trong sự cầu nguyện và tương giao".
Việc đặt tay không phải là một nghi lễ. Không có gì trong tay
cả. Khi chúng ta bắt tay chào hỏi mọi người, chúng ta cho thấy rằng chúng ta là
bạn bè tốt. Để thể hiện sự bình đẳng thuộc linh của chúng ta, sự hiệp nhất và đồng
nhất, chúng ta đặt tay để thay mặt cho toàn thể Hội thánh rải rác khắp nơi trên
thế giới và tuyên bố rằng chúng ta thuộc về một gia đình, Hội thánh của Chúa
Jesus Christ. Chúng ta đã được mua bằng huyết quý giá như nhau, và vì vậy chúng
ta cũng rất quan trọng và quý giá cách ngang bằng đối với Ngài.
Trong 1Cor. 12: 18-21, chúng ta đọc về huyền nhiệm của Thân
Thể Đấng Christ. Trong thân thể con người, mỗi chi thể nhỏ bé và các tuyến đều
cần thiết. Ngay cả đầu không thể nói đến chân, tôi không cần bạn. Đức Chúa Trời
đã làm cho chúng ta như vậy. Trong cùng một cách, mỗi người tín đồ trong gia
đình thuộc thiên cũng không kém phần cần thiết và hữu ích như nhau trong tầm
nhìn của Đức Chúa Trời. Việc đặt tay không nên được thực hiện như là một buổi lễ,
nhưng như lời làm chứng. Báp-têm và đặt tay cùng đi với nhau. Nếu chúng ta thực
sự làm theo trật tự của Đức Chúa Trời, sau khi làm báp-têm, chúng ta nên đặt
tay và cầu nguyện cho những ai vâng phục trong báp-têm. Những ngày này có sự tối
tăm thuộc linh ở khắp mọi nơi và nhiều người đã bỏ qua những sự thật thần thượng
nầy.
5. Sự Phục Sinh Của Người Chết:
Đây là nguyên tắc cơ bản thứ năm của sự cứu rỗi. Chúng ta phải
tin rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ được sống lại từ cõi chết (1 Cor 15: 50-57).
Những người không tin chân lý này trở nên bất cẩn. Bởi sự sống lại, tôi tin rằng,
y như Chúa Giêsu Christ của tôi đã sống lại, Ngài cũng đang quay trở lại vì tôi
và khi tôi nhìn thấy Ngài, tôi sẽ giống như Ngài. Những người không tin vào sự
sống lại của người chết, sẽ trở thành người thế tục. Họ không mong muốn sẵn
sàng cho sự hiện đến lần thứ hai của Chúa.
Chủ Nhật nầy tiếp đến chủ nhật kia, chúng ta tham gia vào bàn
của Chúa để chuẩn bị cho ngày đó. "Ấy vậy, hễ lần nào anh em ăn bánh nầy,
uống chén nầy, thì rao giảng sự chết của Chúa cho tới lúc Ngài đến" (1
Cor.11: 26). Như vậy chúng ta tuyên bố rằng Chúa Giêsu Christ, Đấng đã chết cho
chúng ta đang trở lại một lần nữa để tiếp nhận chúng ta và ban cho chúng ta thân
thể bất tử. Bởi tin vào sự sống lại của kẻ chết, chúng ta được cứu khỏi sự lừa
dối của thế giới.
6. Sự Xét Đoán Đời Đời:
Đây là nguyên tắc cơ bản thứ sáu và cuối cùng của sự cứu rỗi.
Một ngày kia chúng ta phải đứng trước mặt Chúa để khai trình về cuộc sống của
chúng ta trên trái đất. "Mỗi người trong chúng ta đều sẽ khai trình việc của
chính mình với Đức Chúa Trời" (Roma 14:12). Điều này có nghĩa là chúng ta
phải khai trình cho Chúa về lời nói và hành động của chúng ta."Ta nói cùng
các ngươi, mọi lời tầm phào mà người ta nói ra đều phải khai trình trong ngày
xét đoán. Vì bởi lời nói mà ngươi được xưng nghĩa, cũng bởi lời nói mà ngươi bị
định tội”(Mathio 12:36-37). Nếu chúng ta tin vào sự phán xét đời đời, chúng ta
sẽ rất cẩn thận với lời nói của chúng ta. Phải, phải và không không của chúng
ta nên rõ ràng. Nhiều lần chúng ta nói những điều mà chúng ta không có ngụ ý.
Những người tin vào sự phán xét đời đời sẽ không lãng phí tiền bạc hoặc thời
gian hoặc năng lượng của họ. Chúng ta phải rất cẩn thận để sống một cuộc sống tỉnh
thức.
Sáu nguyên tắc cơ bản nầy đi kèm nhau; chúng ta không thể
phân biệt chúng. Nếu bạn đã ăn năn khỏi công việc chết, và có niềm tin đối với
Chúa, nếu bạn đã làm chứng trong nước báp-têm và đặt tay, và nếu bạn tin vào sự
sống lại của người chết và sự xét đoán vĩnh cửu, bạn sẽ dựa vào nền tảng vững mạnh
đó mà tiến tới và sẽ phát triển thuộc linh.
Bakht Singh
.