Ngày nay, các Cơ Đốc nhân thiếu hai loại tri thức. Vì sự thiếu hụt này
mà rơi vào trong sự khổ sở vô tận đến nỗi không thể phục hồi. Hai loại tri thức
này là: (1) điều kiện để các ác linh công tác, và (2) nguyên tắc của nếp sống
thuộc linh. Vì cớ sự thiếu hiểu biết, Satan và các ác linh của hắn được trao
cho lợi thế lớn nhất và hội thánh của Đức Chúa Trời kinh nghiệm nỗi khổ lớn
nhất. “Dân ta bị diệt vì thiếu tri thức” (Hosea 4:6). Đây thật sự là lời được
viết cho các tín đồ ngày nay. Nhiều điều con người xem là tri thức thì chỉ là
quan niệm mà thôi. Do đó, chúng vô dụng. Ngoại trừ tri thức này ra, tri thức
tin kính là điều không thể thiếu đối với các tín đồ. Việc thiếu tri thức tin kính
sẽ dẫn đến sự tổn hại nghiêm trọng. Đáng buồn là trong một thời kỳ mà sự thiếu
hiểu biết lan rộng như hiện nay, các tín đồ vẫn không hạ mình trước mặt Đức
Chúa Trời và tìm kiếm lẽ thật mà Đức Chúa Trời khải thị. Họ vẫn kiêu ngạo và
khoe khoang về việc mình quen thuộc với Kinh Thánh và dư dật kinh nghiệm. Về
một mặt, họ rơi vào trong nguy hiểm và không biết cách nào xoay trở lại; họ rơi
vào trong tình trạng vô vọng và không hề có ý tưởng gì về nhu cầu được giải
cứu. Mặt khác, họ khoe khoang về sự giàu có tri thức của mình. Điều này thật
đáng thương biết bao!
BỊ QUỶ ÁM
Trong bốn sách Phúc Âm có nhiều sự ký thuật về việc bị quỷ ám. Vẫn còn
nhiều trường hợp bị quỷ ám giữa vòng “người ngoại” ngày nay. Nếu chúng ta bảo
một tín đồ rằng các Cơ Đốc nhân có thể bị quỷ (hay các ác linh) ám, người ấy sẽ
rất ngạc nhiên. Một tín đồ bình thường ở Trung Hoa nghĩ rằng chỉ có người ngoại
mới có thể bị quỷ ám và Cơ Đốc nhân thì không thể có cùng một kinh nghiệm. Cũng
có sự hiểu lầm khi một người bị quỷ ám, người ấy sẽ giống như người điên. Nhưng
Kinh Thánh nói với chúng ta rằng các quỷ không chỉ khiến người ta đột ngột ngã
vào trong nước hay lửa (Matt 17:15); chúng còn khiến một người phụ nữ bị còng
lưng (Luke 13:11) trong khi bà vẫn rất hòa nhã và yên lặng.
Các tín đồ nhận thức rằng có thể họ dẽ bị dụ dỗ, cám dỗ, tấn công hoặc
lừa dối nhưng họ không nhận thức rằng các tín đồ cũng có thể bị quỷ nhập – quỷ
ám. Khi mới tin, họ tiếp nhận nhiều sự dạy dỗ sai trật; bây giờ họ nghĩ rằng hễ
một Cơ Đốc nhân có Đấng Christ, người ấy sẽ không bị quỹ ám. Họ nói như vậy vì
họ nghĩ rằng một Cơ Đốc nhân không bao giờ mất trí như người ngoại. Tuy nhiên,
sự dạy dỗ này không được kinh nghiệm của các thánh đồ xác nhận. Con cái Đức
Chúa Trời rất không sáng tỏ rằng các ác linh có thể thay đổi diện mạo của chúng
và nhập vào thân thể tín đồ. Ngày nay, thật bất ngờ là có vô số tín đồ bị quỷ
ám. Sự thật không thể thay đổi là nhiều tín đồ đang bị quỷ ám
Bị quỷ ám chính xác nghĩa là gì? Sau khi một tín đồ hiểu được ý nghĩa,
người ấy sẽ nhận thức rằng các Cơ Đốc nhân cũng có thể bị quỷ ám. “Bị quỷ ám”
hay đơn giản là “bị ám” nghĩa là các ác linh nhập (dính chặt) vào toàn bộ hay
một phần của thân thể con người. Các ác linh nhập vào lập trường mà chúng có
được. Hễ chúng có được một chỗ đặt chân, dù nhỏ đến đâu, chúng cũng có thể tiếp
tục công tác cho đến khi có được toàn bộ bản thể. Các tín đồ thường nghĩ rằng
bị quỷ ám phải nghiêm trọng như các trường hợp được ký thuật trong các sách
Phúc Âm. Họ không biết rằng đó là những trường hợp hết sức nghiêm trọng. Hơn
nữa, theo các sách Phúc Âm, mức độ chịu khổ không giống nhau trong những người
bị quỷ ám; các nỗi khổ của họ rất khác nhau. Hai trường hợp mà chúng ta nói đến
trước đây cũng hoàn toàn khác nhau.
Các thánh đồ - những người hoàn toàn hiến dâng – có thể bị các ác linh
ám theo cũng một cách như những người khác vì họ thường vô thức thỏa đáp điều
kiện để các ác linh công tác; vì vậy họ nhường lập trường cho các ác linh nhập
vào họ. Ngày nay, nhiều tín đồ bị quỷ ám, mặc dù mức độ ám có thể khác nhau.
Tuy nhiên, họ không nhận thức rằng họ bị ám. Họ xem các kinh nghiệm kỳ lạ và
bất thường của mình là “tự nhiên”, hoặc ra từ “bản ngã” hoặc ra từ tội lỗi. Họ giải thích các kinh
nghiệm của mình theo cách này vì các kinh nghiệm này nhìn bên ngoài không giống
như đến từ các ác linh.
Có một luật trong mọi điều Đức Chúa Trời sáng tạo. Điều này nghĩa là
mọi hoạt động đều theo một khuôn mẫu nhất định. Cũng có một khuôn mẫu trong
công tác của các ác linh. Mỗi nguyên nhân đều có một kết quả. Nếu bất cứ ai
thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác (dù người này chủ định thỏa đáp điều
kiện đó, như các phù thủy, đồng bóng, những người thực hành cầu cơ, hoặc vô
tình thỏa đáp điều kiện, như các Cơ Đốc nhân chẳng hạn), chúng nhất định sẽ
công tác trên người này. Chúng ta phải nhận thức rằng có một luật cho mọi hoạt
động của các ác linh. Hễ một người thỏa đáp điều kiện mà luật đó đòi hỏi, người
ấy sẽ lập tức kinh nghiệm các hoạt động của các ác linh. Đây là luật nhân quả.
Lửa thì đốt cháy, nước nhấn chìm người ta; đây là các luật. Không ai đặt mình
vào trong lửa và không bị phỏng, và không ai đặt mình vào trong nước mà không
bị chìm. Đối với công tác của các ác linh cũng vậy. Hễ một người thỏa đáp điều
kiện mà luật đó đòi hỏi, người ấy sẽ lập tức kinh nghiệm các hoạt động của các
ác linh. Đây là luật nhân quả. Lửa thì đốt đáy, nước nhấn chìm người ta; đây là
các luật. Không ai đặt mình vào trong lửa mà không bị phỏng, và không ai đặt
mình vào trong nước mà không bị chìm. Đối với công tác của các ác linh cũng
vậy. Hễ một người thỏa đáp điều kiện mà các ác linh cần để nhập vào, chúng sẽ
nhập vào người ấy. Một khi có nguyên nhân, chắc chắn sẽ có kết quả. Việc anh em
có phải là Cơ Đốc nhân hay không cũng không ảnh hưởng gì; nếu anh em thỏa đáp
điều kiện để các ác linh công tác, chúng sẽ công tác. Các ác linh sẽ nhập vào
tất cả ai thỏa đáp điều kiện để chúng công tác. Do đó, một Cơ Đốc nhân không
được miễn trừ khỏi mối nguy hiểm này chỉ vì người ấy là Cơ Đốc nhân. Một Cơ Đốc
nhân không thể tự đặt mình vào trong lửa để bị phỏng hay vào trong nước để bị
chìm rồi nói rằng mình sẽ không bị thương tổn hay chết vì mình là Cơ Đốc nhân.
Tương tự, người ấy không thể thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác rồi nói
rằng mình sẽ không bị quỷ ám vì mình là Cơ Đốc nhân. Lửa đốt mọi người tự đặt
mình vào trong đó; nước nhấn chìm mọi người tự đặt mình vào trong đó. Cũng vậy,
các ác linh sẽ nhập vào mọi người nhường lập trường cho chúng bất kể người ấy
có phải là Cơ Đốc nhân hay không
Vì lý do này, nếu một tín đồ tạo cơ hội cho các ác linh công tác, chúng
chắc chắn sẽ không từ bỏ; đúng đơn, chúng sẽ nắm lấy cơ hội để nhập vào tín đồ
Điều kiện để các ác linh nhập vào con người là gì? Con người phải làm
gì trước khi người ấy bị các ác linh ám? Người ấy phải đáp ứng điều kiện gì
trước khi các ác linh công tác? Đây là câu hỏi trọng yếu nhất. Kinh Thánh gọi
điều kiện này là “chỗ” (Eph 4:27). “Vị
trí” hay “chỗ” này là một chỗ trống trong con người dành cho các ác linh. Chỗ
này là nền tảng mà các ác linh có được trong con người. Các ác linh nhập vào
con người theo chỗ mà chúng được nhường cho. Số lượng vị trí mà chúng được
nhường cho là mức độ chúng nhập vào con người. Dù vị trí này là do một người
ngoại hay một Cơ Đốc nhân nhường cho thì các quỷ cũng nhập vào người đó như
vậy. Bất cứ điều gì trong con người cho phép các ác linh có một chỗ để tấn
công, một cơ đốc để xâm lấn, một nền tảng để đứng, đều có thể được gọi là “một
chỗ”. Nếu một người nhường chỗ cho các ác linh, người ấy không thể không bị
chúng ám. Vì có nguyên nhân nên chắc chắn phải có kết quả. Nếu một tín đồ
nhường chỗ cho các ác linh, nhưng cứ dựa trên quan niệm là mình sẽ không bị quỷ
ám vì mình là Cơ Đốc nhân thì người ấy đã bị các ác linh lừa dối quá mức rồi
Tóm lại, chỗ mà các tín đồ nhường cho ma quỷ là tội lỗi. Tội lỗi bao
gồm mọi chỗ. Khi các tín đồ khoan nhượng cho tội lỗi, họ đang khoan nhượng cho
các ác linh đằng sau tội lỗi. Bất kỳ loại tội lỗi nào cũng đều nhường chỗ cho
các ác linh. Tuy nhiên, tội lỗi có thể được chia thành hai loại: loại chủ động
và loại thụ động. Tội lỗi chủ động là tội lỗi mà con người phạm, như phạm điều
ác bằng tay, xem những điều đồi trụy bằng mắt, nghe những tiếng phóng túng bằng
tai, hoặc nói những lời mạo phạm ra miệng. Mọi điều này có thể tạo cơ hội cho
các ác linh nhập vào tay, mắt, tai và miệng. Có một sự mời gọi các ác linh đến
và cư trú trong bất cứ phần nào của thân thể con người phạm tội lỗi. Chúng ta
phải chú ý đến ba vấn đề trong việc xác định xem tội lỗi chủ động phát triển
mối liên hệ với các ác linh ra sao: (1) một số tội lỗi không dẫn đến việc bị
các ác linh ám, (2) các tội lỗi khác kêu gọi các ác linh ám và (3) các tội lỗi
khác nữa gây ra bởi việc bị các ác linh ám. Nếu một tín đồ bị các ác linh ám do
phạm tội lỗi, người ấy phải từ bỏ tội lỗi đó cách cụ thể. Sau khi giành lại lập
trường đó, người ấy sẽ được giải cứu. Nếu không, người ấy sẽ thấy lập trường mà
người ấy nhường cho các ác linh dần dần gia tăng và không ngừng lại cho đến khi
toàn bản thể người ấy bị ám. Nhiều tín đồ vẫn không được giải cứu khỏi sự quấy
nhiễu của tội lỗi lỗi, mặc dù họ chấp thuận sự kiện họ được đóng đinh với Đấng
Christ, vì nguồn của sự yếu đuối trong họ không chỉ là “xác thịt”, mà thân thể
họ còn bị các ác linh siêu nhiên ám.
Phương diện cung cấp cơ hội cho các ác linh công tác qua tội lỗi chủ
động này thì tương đối dễ hiểu hơn. Hầu hết các tín đồ đều tin như vậy. Chúng
ta sẽ không nói thêm về điều này vì nó nằm ngoài phạm vi của chủ đề đang bàn. Bây
giờ chúng ta sẽ chú ý đến phương diện thứ hai của tội lỗi – nhường chỗ cho các
ác linh bởi sự thụ động. Đây là phương diện ít được các tín đồ ngày này hiểu
nhất; hầu hết các tín đồ đều lầm lạc trong phương diện này. Hơn nữa, loại tội
lỗi này ở trong lĩnh vực của ý muốn. Vì vậy, chúng ta sẽ nói về nó cách chi
tiết.
Có một sự khác biệt giữa tội lỗi chủ động và tội lỗi thụ động. Một
người thường xem tội lỗi chủ động là tội lỗi còn tội lỗi thụ động không phải là
tội lỗi. Ngoài việc gọi các hành động bất nghĩa khác nhau mà con người tự mình
phạm phải là tội lỗi, Kinh Thánh còn nói: “Vì vậy, kẻ biết làm điều thiện mà
không làm là có tội lỗi” (James 4:17). Kinh Thánh không chỉ xem điều con người
làm là tội lỗi; Kinh thánh cũng xem điều con người không làm là tội lỗi. Tội
lỗi là chỗ mà các ác linh nhập vào. (Từ giờ trở đi chúng ta sẽ gọi đó là quỷ
ám). Vì vậy, ngoài tội lỗi vi phạm cách chủ động, là điều nhường lập trường cho
quỷ ám, còn có tội lỗi thụ động là không làm một điều gì đó, cũng nhường lập
trường cho quỷ ám.
Tội lỗi thụ động nhường lập trường cho các ác linh qua sự thụ động
trong các tín đồ. Trong con mắt Đức Chúa Trời, cả việc từ bỏ quyền sử dụng bất
kỳ phần nào trong bản thể chúng ta lẫn việc sử dụng nó cách sai trật đều là tội
lỗi. Đức Chúa Trời phú cho chúng ta nhiều quan năng khác nhau. Chúng không ở đó
để chúng ta sử dụng cách sai trật hoặc bỏ mặc, không dùng đến. Khi một tín đồ
không sử dụng bất kỳ phần nào trong các quan năng của mình, để cho nó rơi vào
trong sự thụ động, thì một con đường được mở ra để các ác linh sử dụng quan
năng thay cho tín đồ. Điều này sẽ nhường chỗ cho quỷ ám. Mặc dù mọi tín đồ đều
thừa nhận rằng tội lỗi là điều kiện cho quỷ ám, nhưng họ không nhận thức rằng
sự thụ động cũng là một loại tội lỗi và cũng là điều kiện cho quỷ ám. Một khi có
chỗ được nhường, một người không thể không bị quỷ ám; một khi bị ám, người ấy
không thể không chịu khổ.
SỰ THỤ ĐỘNG
Lý do “người ngoại” và các tín đồ xác thịt bị quỷ ám chính yếu là do tội
lỗi. Nhưng lý do một số tín đồ đã dâng mình bị quỷ ám có thể được nêu ra trong
một từ, “thụ động”. Ý nghĩa của sự thụ động là ý muốn không còn chủ động cai
trị và chỉ đạo linh, hồn, thân thể hoặc bất cứ phần nào của con người nữa, cho
nên người ấy không sử dụng ý muốn của mình để lựa chọn và quyết định mọi sự
liên hệ đến mình. Thụ động là điều trái ngược với chủ động. Có hai phương diện
thụ động của các tín đồ: (1) mất kiểm soát – điều này nghĩa là một người không
còn có thể kiểm soát toàn bản thể hoặc một phần nào đó của mình; (2) mất tự do
– điều này nghĩa là một người không thể đưa ra các quyết định ăn khớp với ý
muốn của Đức Chúa Trời. Một tín đồ trở nên thụ động nghĩa là người ấy không sử
dụng các quan năng khác nhau của mình và để cho các quan năng của mình rơi vào
trong tình trạng thụ động. Mặc dù có miệng nhưng người ấy không nói, đúng hơn
người ấy muốn Thánh Linh phát ngôn qua miệng của mình. Mặc dù có tay, nhưng
người ấy không sử dụng, đúng hơn người ấy muốn Đức Chúa Trời sử dụng tay của
mình. Người ấy không sẵn lòng chuyển động bất cứ phần nào của bản thể mình,
người ấy muốn Đức Chúa Trời chuyển động chúng. Người ấy nghĩ rằng mình hoàn
toàn dâng mình cho Đức Chúa Trời và không còn sử dụng bất cứ phần nào của bản
thể mình nữa. Theo cách này người ấy rơi vào trong sự thụ động và để cho các ác
linh lừa dối mình và chúng nhập vào trong các chi thể thụ động của thân thể
người ấy.
Nhiều tín đồ chấp nhận điều chúng ta nói trong chương trước về mối liên
hiệp với ý muốn Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, người ấy bị làm cho hiểu sai rằng một
mối liên hiệp như vậy với Đức Chúa Trời, mội sự lĩnh hội niềm ao ước của lòng
Ngài như vậy và một sự phủ nhận ý định riêng của mình như vậy đòi hỏi họ phải
thuận phục Đức Chúa Trời cách thụ động. Họ nghĩ rằng ý muốn của mình phải bị vô
hiệu hóa và họ phải trở nên giống như người máy. Họ cho rằng ý nghĩa của sự
thuận phục Đức Chúa Trời là không sử dụng ý muốn của mình nữa và không sử dụng
bất cứ phần nào khác của thân thể mình qua ý muốn nữa. Một người như vậy không
còn (1) lựa chọn, (2) quyết định và (3) sử dụng ý muốn của mình để hành động.
Nhìn bên ngoài, dường như có sự biểu lộ của một chiến thắng lớn vì người ấy
từng rất bướng bỉnh trong ý muốn của mình nhưng đột nhiên người ấy trở nên rất
thuận phục và yếu như nước vậy. Người ấy không có ý kiến trong bất cứ điều gì
và hoàn toàn thuận phục trong việc bước theo các mạng lệnh. Người ấy không sử
dụng tâm trí hoặc ý muốn của mình, và người ấy không vận dụng sự biện biệt của
lương tâm mình. Đúng hơn, người ấy đơn giản trở nên một người hoàn toàn vâng
phục – mỗi khi Đức Chúa Trời chuyển động, người ấy chuyển động. Nhưng điều này
là một sự khuyến khích cho quỷ ám.
Vì tín đồ dâng mình cho Đức Chúa Trời theo cách này nên tự nhiên người
ấy rơi vào trong tình trạng thụ động. Người ấy không hề chuyển động gì cả. Suốt
cả ngày người ấy yên lặng chờ đợi tác động bên ngoài để chuyển động người ấy.
Khi có một tác động bên ngoài như vậy, người ấy chuyển động. Nếu không, người
ấy cứ yên lặng. Khi tình trạng này tiếp tục trong một thời gian dài, người ấy
nhận thấy mình không thể hành động vào lúc cần phải hành động vì không có sự
tác động bắt buộc bên ngoài. Thậm chí có thể người ấy muốn chuyển động nhưng vì
thiếu sự thúc ép bên ngoài, nên người ấy không thể chuyển động. Khi điều này
kéo dài, tín đồ nhận thấy nếu không có sự tác động bên ngoài, mình không thể
chuyển động dù chỉ một bước. Ngay cả khi ý muốn muốn chuyển động, dường như nó
bị một điều gì đó đàn áp. (Dường như người ấy có một loại xiềng xích bao quanh
mình, ngăn không cho người ấy chuyển động như ý muốn). Người ấy phải chờ có một
sự tác động bên ngoài thúc giục rồi mới chuyển động. Trong hoàn cảnh này tín đồ
nghĩ rằng mình rất thuận phục Đức Chúa Trời vì mình không có bất kỳ sự chủ động
nào. Nhưng cho dù ao ước chuyển động, người ấy cũng không thể làm được.
SỰ THIẾU
HIỂU BIẾT CỦA TÍN ĐỒ
Khi một tín đồ rơi sâu vào trong sự thụ động, người ấy có thể nghĩ rằng
mình thuận phục Đức Chúa Trời. Nhưng người ấy không nhận thức rằng các ác linh
đang sử dụng tình trạng thụ động của người ấy để hoàn tất sự lừa dối của chúng.
Tín đồ nghĩ rằng mình phải rất thụ động trước khi có thể thật sự thuận phục Đức
Chúa Trời và trước khi có thể thật sự ở trong mối liên hiệp với Đức Chúa Trời
trong ý muốn. Người ấy không nhận thức rằng Đức Chúa Trời không hề sử dụng sự
thụ động của người ấy. Chính quyền lực của sự tối tăm sử dụng sự thụ động của
người ấy. Hơn nữa, Đức Chúa Trời đòi hỏi tín đồ vận dụng ý muốn của mình để chủ
động công tác với Ngài. Đây là điều Kinh Thánh nhắc đi nhắc lại: “Nếu ai kiên
quyết làm theo ý muốn Ngài thì sẽ biết…” (John 7:17), và “Hãy xin bất cứ điều
gì các ngươi muốn, điều đó sẽ được thực hiện cho các ngươi” (15:7). Đức Chúa
Trời không tiêu hủy ý muốn của chúng ta.
Con người có ý muốn tự do. Đức Chúa Trời không bao giờ xâm phạm và thay
đổi điều này. Ngài muốn con người chủ động công tác với Ngài. Mặc dù Ngài muốn
chúng ta thuận phục Ngài nhưng Ngài không tiêu hủy nhân cách của chúng ta. (Chú
thích của tác giả: trong sách này, “nhân cách” chỉ về “thân vị con người”, chứ
không phải về “tính cách con người”. Các độc giả phải lưu ý). Ngài muốn chúng
ta tự đề xuất và lựa chọn điều Ngài muốn chúng ta chọn. Ngài không chọn thay
cho chúng ta, để cho ý muốn chúng ta sa vào trong tình trạng chết chóc. Ngài
đòi hỏi sự hợp tác chủ động từ chúng ta. Đức Chúa Trời vui thích nhìn thấy con
người đạt đến mức độ cao nhất của một tạo vật, đó là sự tự do hoàn toàn của ý
muốn. Trong sự sáng tạo, Đức Chúa Trời đã thiết lập ý muốn tự do của con người.
Trong sự cứu chuộc, Đức Chúa Trời đã giành lại ý muốn tự do cho con người. Vào
lúc sáng tạo, Đức Chúa Trời không muốn con người vâng phục Ngài cách máy móc.
Vì vậy, sau sự cứu chuộc Ngài nhất định không muốn con người bước theo sự chỉ
đạo của Ngài giống như một cái máy. Thật ra, Đức Chúa Trời quá vĩ đại đến nỗi
Ngài không đòi hỏi con người trở nên gỗ đá để thuận phục Ngài. Phương cách của
Ngài là dựa trên công tác của Linh Ngài trong chúng ta, Linh khiến chúng ta
vâng phục Ngài cách sẵn lòng. Nhưng Ngài sẽ không bao giờ đưa ra bất kỳ quyết
định nào thay cho chúng ta. Sự khác biệt ở đây thật sự là không thể lường được.
Nguyên tắc công tác của Đức Chúa Trời và Satan trong con người thì
giống nhau. Khi Đức Chúa Trời sáng tạo con người, Ngài muốn con người có ý muốn
tự do. Đây là lý do tại sao Ngài ban cho con người ý muốn tự do. Ngài muốn con
người có quyền lựa chọn và phân biệt mọi điều liện hệ đến mình. Mặc dù Đức Chúa
Trời là Chúa của vũ trụ nhưng Ngài vui thích trong việc chịu giới hạn và không xâm
phạm ý muốn tự do của con người. Ngài không muốn ép buộc con người trung thành
đối với ngài. Tương tự nếu không có sự đồng ý của con người (cách vô thức hay
có ý thức), Satan không thể chiếm hữu bất cứ phần nào của con người. Cả Đức
Chúa Trời lẫn ma quỷ đều cần sự cho phép của ý muốn con người trước khi có thể
công tác trong con người. Giống như khi con người “muốn” một điều tốt lành, Đức
Chúa Trời sẽ hoàn thành điều đó cho người ấy, thì cũng vậy, nếu con người
“muốn” một điều ác, các ác linh sẽ hoàn thành điều đó cho người ấy. Đây là điều
chúng ta nhìn thấy trong vườn Eden.
Trước khi con người được tái sanh, ý muốn của người ấy là nô lệ cho
Satan và không thể tự do. Nhưng với một tín đồ được tái sanh và chiến thắng, ý
muốn người ấy được trả tự do, người ấy có thể chọn lựa mọi điều thuộc về Đức
Chúa Trời. Tuy nhiên, Satan sẽ không bỏ cuộc trên các tín đồ mới được tái sanh
này. Hắn sẽ âm mưu giành lấy họ. Hắn biết hắn không thể có được sự cho phép rõ ràng
để các ác linh bước vào và cai trị họ. Vì vậy, hắn sử dụng sự lừa dối để có
được sự cho phép cần thiết. Chúng ta phải lưu ý rằng Satan phải có được sự cho
phép của tín đồ. Tuy nhiên một tín đồ chắc chắn sẽ không cho phép hắn. Đây là
lý do tại sao hắn chỉ có thể lấy trộm sự cho phép này qua thủ đoạn lừa dối. Các
ác linh sẽ không bước vào trong một người khi chưa có được sự cho phép của ý
muốn con người. Thậm chí mức độ chúng bước vào cũng được quyết định bởi ý muốn
con người.
Các ác linh biết một tín đồ có hoàn toàn thuận phục Đức Chúa Trời và
sẵn lòng trả giá để bước theo Ngài đến cuối cùng hay không. Do đó, hắn lừa dối
tín đồ bằng cách giả mạo chính Đức Chúa Trời, giả mạo tiếng của Đức Chúa Trời,
công tác của Đức Chúa Trời và sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Giữa vòng các tín
đồ là những người có sự tiếp xúc với lĩnh vực thuộc linh, có nhiều người cho
rằng một số điều nào đó đến từ Đức Chúa Trời chỉ vì các kinh nghiệm siêu nhiên
họ nhận được trong cảm xúc. Cho nên họ chấp nhận nhiều sự giả mạo của các ác
linh và tự đặt mình vào trong mối nguy hiểm. Theo cách này, các tín đồ bị lừa
dối và xem sự giả mạo của các ác linh là thật, để cho các ác linh tiếp tục công
tác trên họ. Ban đầu, họ chỉ bị lừa dối. Nhưng sau khi ưng thuận, họ thụ động
để cho các ác linh công tác! Theo cách này các ác linh có được sự tán thành của
ý muốn và lừa dối họ thêm nữa, đến mức mà một số phần của bản thể con người họ
bị các ác linh ám. Thụ động là bước đầu tiên dẫn đến quỷ ám.
Nếu một tín đồ ý thức về điều kiện để các ác linh công tác và ý thức về
nguyên tắc của nếp sống thuộc linh, người ấy sẽ không rơi vào trong loại hiểm
họa này. Tuy nhiên, nếu tín đồ không biết rằng sự thụ động cung cấp sự thuận
tiện cho các ác linh và không biết rằng nếp sống thuộc linh đòi hỏi một ý muốn
năng động để công tác với Đức Chúa Trời, người ấy có thể để cho ý muốn của mình
trở nên thụ động. Chúng ta phải đặc biệt lưu ý rằng Đức Chúa Trời không bao giờ
thay thế ý muốn con người bằng ý muốn của Ngài. Con người phải chịu trách nhiệm
về điều mình làm. Đức Chúa Trời sẽ không đưa ra bất cứ đề xuất nào thay cho
người ấy.
Thật ra, nếu sự năng động của các ác linh không hiện diện trong một
người thụ động thì sự thụ động của người ấy chỉ dẫn đến sự lười biếng và ù lì.
Trong các trường hợp “ù lì” bình thường (tức là khi không có sự năng động của
các ác linh), một người ù lì có thể trở nên năng động lại vào bất cứ lúc nào.
Nhưng khi người ấy rơi vào trong sự thụ động và bị quỷ ám, người ấy không thể
trở nên năng động một lần nữa cho dù người ấy muốn, tức là ngay cả khi ý muốn
người ấy muốn.
Ở đây, chúng ta có thể nhìn thấy sự khác biệt giữa công tác của Đức
Chúa Trời và công tác của Satan trên con người. Đức Chúa Trời muốn con người
hoàn toàn dâng mình cho Ngài, Ngài muốn con người vận dụng mọi quan năng của
toàn bộ bản thể người ấy để hợp tác với Thánh linh của Ngài. Satan muốn ý muốn
con người hoàn toàn thụ động, hắn muốn con người dừng mọi hoạt động và để cho
các ác linh của hắn hành động thay cho người ấy. Đức Chúa Trời muốn con người
chủ động, có ý thức và sẵn lòng lựa chọn và hành động theo ý muốn của Ngài để
linh hồn và thân thể con người hoàn toàn tự do. Satan muốn con người trở thành
tù nhân và nô lệ thụ động của hắn. Đức Chúa Trời muốn con người độc lập, tự do
và làm chủ chính mình một cách có ý thức. Satan muốn con người làm con rối, cỗ
máy và công nhân của hắn. Đức Chúa Trời không bao giờ yêu cầu con người dừng
các hoạt động của mình lại trước khi Ngài công tác. Trái lại, Satan muốn con
người hoàn toàn thụ động và dừng mọi hoạt động lại. Đức Chúa Trời muốn con
người công tác với Ngài cách có ý thức. Satan muốn con người thụ động để hắn có
thể ép con người vâng phục hắn. Đức Chúa Trời chỉ đòi hỏi con người dừng hoạt
động tội lỗi lỗi của mình lại, dù nó ra từ bản chất hay sự sống của người ấy,
vì chỉ theo cách này con người mới có thể công tác với Thánh Linh. Nhưng Satan
muốn con người dừng mọi hoạt động của mình lại, thậm chí chức năng của hồn, vì
hắn muốn hành động thay con người. Hắn muốn con người chỉ là cỗ máy vô thức,
không tự mình gánh trách nhiệm gì cả.
Đáng tiếc là các tín đồ không hiểu nguyên tắc của Đức Chúa Trời ở trong
con người và công tác qua con người. Họ nghĩ rằng Đức Chúa Trời muốn họ trở nên
chết chóc như gỗ đá và được Ngài điều khiển. Họ không nhận thức rằng khi Đức
Chúa Trời sáng tạo con người, Ngài ban cho con người ý muốn tự do. Đúng là Ngài
không muốn ý muốn con người đòi hỏi hoặc làm bất cứ điều gì ngoài Ngài. Nhưng
Ngài cũng không muốn con người không có ý muốn và vâng phục Ngài như một cỗ
máy. Chỉ cần ý muốn của tín đồ chọn điều Ngài muốn là Ngài thỏa mãn. Đức Chúa
Trời không đòi hỏi con người trở nên một người không có ý muốn. Có nhiều điều
các tín đồ phải làm cho chính mình, Đức Chúa Trời sẽ không làm những điều đó
thay họ. Ngày nay, có một sự dạy dỗ sai trật rằng một người phải giao thác mọi
sự cho Đức Chúa Trời và để cho Ngài làm mọi sự cho mình. Loại dạy dỗ này cho
rằng chúng ta không cần nhấc tay mình lên hay chuyển động chân mình, lời dạy dỗ
đó cho rằng Đức Chúa Trời sẽ nhấc chúng lên và chuyển động chúng giùm cho chúng
ta. Sự dạy dỗ đó nói rằng chúng ta phải hoàn toàn đầu phục Thánh Linh bên trong
và để cho Ngài sắp xếp mọi sự cho chúng ta. Có một ít lẽ thật trong sự dạy dỗ
này. Nhưng các sự lầm lạc được pha trộn trong đó có lẽ là nhiều hơn lẽ thật
chứa trong đó! (chúng ta sẽ nói thêm về điều này trong chương sau).
(Người Thuộc Linh)