Thứ Năm, 12 tháng 3, 2015

SỰ THỤ ĐỘNG VÀ MỐI NGUY HIỂM CỦA SỰ THỤ ĐỘNG

Kết quả hình ảnh cho cảnh đẹp khu đông bắc

Ngày nay, các Cơ Đốc nhân thiếu hai loại tri thức. Vì sự thiếu hụt này mà rơi vào trong sự khổ sở vô tận đến nỗi không thể phục hồi. Hai loại tri thức này là: (1) điều kiện để các ác linh công tác, và (2) nguyên tắc của nếp sống thuộc linh. Vì cớ sự thiếu hiểu biết, Satan và các ác linh của hắn được trao cho lợi thế lớn nhất và hội thánh của Đức Chúa Trời kinh nghiệm nỗi khổ lớn nhất. “Dân ta bị diệt vì thiếu tri thức” (Hosea 4:6). Đây thật sự là lời được viết cho các tín đồ ngày nay. Nhiều điều con người xem là tri thức thì chỉ là quan niệm mà thôi. Do đó, chúng vô dụng. Ngoại trừ tri thức này ra, tri thức tin kính là điều không thể thiếu đối với các tín đồ. Việc thiếu tri thức tin kính sẽ dẫn đến sự tổn hại nghiêm trọng. Đáng buồn là trong một thời kỳ mà sự thiếu hiểu biết lan rộng như hiện nay, các tín đồ vẫn không hạ mình trước mặt Đức Chúa Trời và tìm kiếm lẽ thật mà Đức Chúa Trời khải thị. Họ vẫn kiêu ngạo và khoe khoang về việc mình quen thuộc với Kinh Thánh và dư dật kinh nghiệm. Về một mặt, họ rơi vào trong nguy hiểm và không biết cách nào xoay trở lại; họ rơi vào trong tình trạng vô vọng và không hề có ý tưởng gì về nhu cầu được giải cứu. Mặt khác, họ khoe khoang về sự giàu có tri thức của mình. Điều này thật đáng thương biết bao!

BỊ QUỶ ÁM
Trong bốn sách Phúc Âm có nhiều sự ký thuật về việc bị quỷ ám. Vẫn còn nhiều trường hợp bị quỷ ám giữa vòng “người ngoại” ngày nay. Nếu chúng ta bảo một tín đồ rằng các Cơ Đốc nhân có thể bị quỷ (hay các ác linh) ám, người ấy sẽ rất ngạc nhiên. Một tín đồ bình thường ở Trung Hoa nghĩ rằng chỉ có người ngoại mới có thể bị quỷ ám và Cơ Đốc nhân thì không thể có cùng một kinh nghiệm. Cũng có sự hiểu lầm khi một người bị quỷ ám, người ấy sẽ giống như người điên. Nhưng Kinh Thánh nói với chúng ta rằng các quỷ không chỉ khiến người ta đột ngột ngã vào trong nước hay lửa (Matt 17:15); chúng còn khiến một người phụ nữ bị còng lưng (Luke 13:11) trong khi bà vẫn rất hòa nhã và yên lặng.
Các tín đồ nhận thức rằng có thể họ dẽ bị dụ dỗ, cám dỗ, tấn công hoặc lừa dối nhưng họ không nhận thức rằng các tín đồ cũng có thể bị quỷ nhập – quỷ ám. Khi mới tin, họ tiếp nhận nhiều sự dạy dỗ sai trật; bây giờ họ nghĩ rằng hễ một Cơ Đốc nhân có Đấng Christ, người ấy sẽ không bị quỹ ám. Họ nói như vậy vì họ nghĩ rằng một Cơ Đốc nhân không bao giờ mất trí như người ngoại. Tuy nhiên, sự dạy dỗ này không được kinh nghiệm của các thánh đồ xác nhận. Con cái Đức Chúa Trời rất không sáng tỏ rằng các ác linh có thể thay đổi diện mạo của chúng và nhập vào thân thể tín đồ. Ngày nay, thật bất ngờ là có vô số tín đồ bị quỷ ám. Sự thật không thể thay đổi là nhiều tín đồ đang bị quỷ ám
Bị quỷ ám chính xác nghĩa là gì? Sau khi một tín đồ hiểu được ý nghĩa, người ấy sẽ nhận thức rằng các Cơ Đốc nhân cũng có thể bị quỷ ám. “Bị quỷ ám” hay đơn giản là “bị ám” nghĩa là các ác linh nhập (dính chặt) vào toàn bộ hay một phần của thân thể con người. Các ác linh nhập vào lập trường mà chúng có được. Hễ chúng có được một chỗ đặt chân, dù nhỏ đến đâu, chúng cũng có thể tiếp tục công tác cho đến khi có được toàn bộ bản thể. Các tín đồ thường nghĩ rằng bị quỷ ám phải nghiêm trọng như các trường hợp được ký thuật trong các sách Phúc Âm. Họ không biết rằng đó là những trường hợp hết sức nghiêm trọng. Hơn nữa, theo các sách Phúc Âm, mức độ chịu khổ không giống nhau trong những người bị quỷ ám; các nỗi khổ của họ rất khác nhau. Hai trường hợp mà chúng ta nói đến trước đây cũng hoàn toàn khác nhau.
Các thánh đồ - những người hoàn toàn hiến dâng – có thể bị các ác linh ám theo cũng một cách như những người khác vì họ thường vô thức thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác; vì vậy họ nhường lập trường cho các ác linh nhập vào họ. Ngày nay, nhiều tín đồ bị quỷ ám, mặc dù mức độ ám có thể khác nhau. Tuy nhiên, họ không nhận thức rằng họ bị ám. Họ xem các kinh nghiệm kỳ lạ và bất thường của mình là “tự nhiên”, hoặc ra từ “bản ngã”  hoặc ra từ tội lỗi. Họ giải thích các kinh nghiệm của mình theo cách này vì các kinh nghiệm này nhìn bên ngoài không giống như đến từ các ác linh.
Có một luật trong mọi điều Đức Chúa Trời sáng tạo. Điều này nghĩa là mọi hoạt động đều theo một khuôn mẫu nhất định. Cũng có một khuôn mẫu trong công tác của các ác linh. Mỗi nguyên nhân đều có một kết quả. Nếu bất cứ ai thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác (dù người này chủ định thỏa đáp điều kiện đó, như các phù thủy, đồng bóng, những người thực hành cầu cơ, hoặc vô tình thỏa đáp điều kiện, như các Cơ Đốc nhân chẳng hạn), chúng nhất định sẽ công tác trên người này. Chúng ta phải nhận thức rằng có một luật cho mọi hoạt động của các ác linh. Hễ một người thỏa đáp điều kiện mà luật đó đòi hỏi, người ấy sẽ lập tức kinh nghiệm các hoạt động của các ác linh. Đây là luật nhân quả. Lửa thì đốt cháy, nước nhấn chìm người ta; đây là các luật. Không ai đặt mình vào trong lửa và không bị phỏng, và không ai đặt mình vào trong nước mà không bị chìm. Đối với công tác của các ác linh cũng vậy. Hễ một người thỏa đáp điều kiện mà luật đó đòi hỏi, người ấy sẽ lập tức kinh nghiệm các hoạt động của các ác linh. Đây là luật nhân quả. Lửa thì đốt đáy, nước nhấn chìm người ta; đây là các luật. Không ai đặt mình vào trong lửa mà không bị phỏng, và không ai đặt mình vào trong nước mà không bị chìm. Đối với công tác của các ác linh cũng vậy. Hễ một người thỏa đáp điều kiện mà các ác linh cần để nhập vào, chúng sẽ nhập vào người ấy. Một khi có nguyên nhân, chắc chắn sẽ có kết quả. Việc anh em có phải là Cơ Đốc nhân hay không cũng không ảnh hưởng gì; nếu anh em thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác, chúng sẽ công tác. Các ác linh sẽ nhập vào tất cả ai thỏa đáp điều kiện để chúng công tác. Do đó, một Cơ Đốc nhân không được miễn trừ khỏi mối nguy hiểm này chỉ vì người ấy là Cơ Đốc nhân. Một Cơ Đốc nhân không thể tự đặt mình vào trong lửa để bị phỏng hay vào trong nước để bị chìm rồi nói rằng mình sẽ không bị thương tổn hay chết vì mình là Cơ Đốc nhân. Tương tự, người ấy không thể thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác rồi nói rằng mình sẽ không bị quỷ ám vì mình là Cơ Đốc nhân. Lửa đốt mọi người tự đặt mình vào trong đó; nước nhấn chìm mọi người tự đặt mình vào trong đó. Cũng vậy, các ác linh sẽ nhập vào mọi người nhường lập trường cho chúng bất kể người ấy có phải là Cơ Đốc nhân hay không
Vì lý do này, nếu một tín đồ tạo cơ hội cho các ác linh công tác, chúng chắc chắn sẽ không từ bỏ; đúng đơn, chúng sẽ nắm lấy cơ hội để nhập vào tín đồ
Điều kiện để các ác linh nhập vào con người là gì? Con người phải làm gì trước khi người ấy bị các ác linh ám? Người ấy phải đáp ứng điều kiện gì trước khi các ác linh công tác? Đây là câu hỏi trọng yếu nhất. Kinh Thánh gọi điều kiện này là “chỗ” (Eph 4:27).  “Vị trí” hay “chỗ” này là một chỗ trống trong con người dành cho các ác linh. Chỗ này là nền tảng mà các ác linh có được trong con người. Các ác linh nhập vào con người theo chỗ mà chúng được nhường cho. Số lượng vị trí mà chúng được nhường cho là mức độ chúng nhập vào con người. Dù vị trí này là do một người ngoại hay một Cơ Đốc nhân nhường cho thì các quỷ cũng nhập vào người đó như vậy. Bất cứ điều gì trong con người cho phép các ác linh có một chỗ để tấn công, một cơ đốc để xâm lấn, một nền tảng để đứng, đều có thể được gọi là “một chỗ”. Nếu một người nhường chỗ cho các ác linh, người ấy không thể không bị chúng ám. Vì có nguyên nhân nên chắc chắn phải có kết quả. Nếu một tín đồ nhường chỗ cho các ác linh, nhưng cứ dựa trên quan niệm là mình sẽ không bị quỷ ám vì mình là Cơ Đốc nhân thì người ấy đã bị các ác linh lừa dối quá mức rồi
Tóm lại, chỗ mà các tín đồ nhường cho ma quỷ là tội lỗi. Tội lỗi bao gồm mọi chỗ. Khi các tín đồ khoan nhượng cho tội lỗi, họ đang khoan nhượng cho các ác linh đằng sau tội lỗi. Bất kỳ loại tội lỗi nào cũng đều nhường chỗ cho các ác linh. Tuy nhiên, tội lỗi có thể được chia thành hai loại: loại chủ động và loại thụ động. Tội lỗi chủ động là tội lỗi mà con người phạm, như phạm điều ác bằng tay, xem những điều đồi trụy bằng mắt, nghe những tiếng phóng túng bằng tai, hoặc nói những lời mạo phạm ra miệng. Mọi điều này có thể tạo cơ hội cho các ác linh nhập vào tay, mắt, tai và miệng. Có một sự mời gọi các ác linh đến và cư trú trong bất cứ phần nào của thân thể con người phạm tội lỗi. Chúng ta phải chú ý đến ba vấn đề trong việc xác định xem tội lỗi chủ động phát triển mối liên hệ với các ác linh ra sao: (1) một số tội lỗi không dẫn đến việc bị các ác linh ám, (2) các tội lỗi khác kêu gọi các ác linh ám và (3) các tội lỗi khác nữa gây ra bởi việc bị các ác linh ám. Nếu một tín đồ bị các ác linh ám do phạm tội lỗi, người ấy phải từ bỏ tội lỗi đó cách cụ thể. Sau khi giành lại lập trường đó, người ấy sẽ được giải cứu. Nếu không, người ấy sẽ thấy lập trường mà người ấy nhường cho các ác linh dần dần gia tăng và không ngừng lại cho đến khi toàn bản thể người ấy bị ám. Nhiều tín đồ vẫn không được giải cứu khỏi sự quấy nhiễu của tội lỗi lỗi, mặc dù họ chấp thuận sự kiện họ được đóng đinh với Đấng Christ, vì nguồn của sự yếu đuối trong họ không chỉ là “xác thịt”, mà thân thể họ còn bị các ác linh siêu nhiên ám.
Phương diện cung cấp cơ hội cho các ác linh công tác qua tội lỗi chủ động này thì tương đối dễ hiểu hơn. Hầu hết các tín đồ đều tin như vậy. Chúng ta sẽ không nói thêm về điều này vì nó nằm ngoài phạm vi của chủ đề đang bàn. Bây giờ chúng ta sẽ chú ý đến phương diện thứ hai của tội lỗi – nhường chỗ cho các ác linh bởi sự thụ động. Đây là phương diện ít được các tín đồ ngày này hiểu nhất; hầu hết các tín đồ đều lầm lạc trong phương diện này. Hơn nữa, loại tội lỗi này ở trong lĩnh vực của ý muốn. Vì vậy, chúng ta sẽ nói về nó cách chi tiết.
Có một sự khác biệt giữa tội lỗi chủ động và tội lỗi thụ động. Một người thường xem tội lỗi chủ động là tội lỗi còn tội lỗi thụ động không phải là tội lỗi. Ngoài việc gọi các hành động bất nghĩa khác nhau mà con người tự mình phạm phải là tội lỗi, Kinh Thánh còn nói: “Vì vậy, kẻ biết làm điều thiện mà không làm là có tội lỗi” (James 4:17). Kinh Thánh không chỉ xem điều con người làm là tội lỗi; Kinh thánh cũng xem điều con người không làm là tội lỗi. Tội lỗi là chỗ mà các ác linh nhập vào. (Từ giờ trở đi chúng ta sẽ gọi đó là quỷ ám). Vì vậy, ngoài tội lỗi vi phạm cách chủ động, là điều nhường lập trường cho quỷ ám, còn có tội lỗi thụ động là không làm một điều gì đó, cũng nhường lập trường cho quỷ ám.
Tội lỗi thụ động nhường lập trường cho các ác linh qua sự thụ động trong các tín đồ. Trong con mắt Đức Chúa Trời, cả việc từ bỏ quyền sử dụng bất kỳ phần nào trong bản thể chúng ta lẫn việc sử dụng nó cách sai trật đều là tội lỗi. Đức Chúa Trời phú cho chúng ta nhiều quan năng khác nhau. Chúng không ở đó để chúng ta sử dụng cách sai trật hoặc bỏ mặc, không dùng đến. Khi một tín đồ không sử dụng bất kỳ phần nào trong các quan năng của mình, để cho nó rơi vào trong sự thụ động, thì một con đường được mở ra để các ác linh sử dụng quan năng thay cho tín đồ. Điều này sẽ nhường chỗ cho quỷ ám. Mặc dù mọi tín đồ đều thừa nhận rằng tội lỗi là điều kiện cho quỷ ám, nhưng họ không nhận thức rằng sự thụ động cũng là một loại tội lỗi và cũng là điều kiện cho quỷ ám. Một khi có chỗ được nhường, một người không thể không bị quỷ ám; một khi bị ám, người ấy không thể không chịu khổ.
SỰ THỤ ĐỘNG
Lý do “người ngoại” và các tín đồ xác thịt bị quỷ ám chính yếu là do tội lỗi. Nhưng lý do một số tín đồ đã dâng mình bị quỷ ám có thể được nêu ra trong một từ, “thụ động”. Ý nghĩa của sự thụ động là ý muốn không còn chủ động cai trị và chỉ đạo linh, hồn, thân thể hoặc bất cứ phần nào của con người nữa, cho nên người ấy không sử dụng ý muốn của mình để lựa chọn và quyết định mọi sự liên hệ đến mình. Thụ động là điều trái ngược với chủ động. Có hai phương diện thụ động của các tín đồ: (1) mất kiểm soát – điều này nghĩa là một người không còn có thể kiểm soát toàn bản thể hoặc một phần nào đó của mình; (2) mất tự do – điều này nghĩa là một người không thể đưa ra các quyết định ăn khớp với ý muốn của Đức Chúa Trời. Một tín đồ trở nên thụ động nghĩa là người ấy không sử dụng các quan năng khác nhau của mình và để cho các quan năng của mình rơi vào trong tình trạng thụ động. Mặc dù có miệng nhưng người ấy không nói, đúng hơn người ấy muốn Thánh Linh phát ngôn qua miệng của mình. Mặc dù có tay, nhưng người ấy không sử dụng, đúng hơn người ấy muốn Đức Chúa Trời sử dụng tay của mình. Người ấy không sẵn lòng chuyển động bất cứ phần nào của bản thể mình, người ấy muốn Đức Chúa Trời chuyển động chúng. Người ấy nghĩ rằng mình hoàn toàn dâng mình cho Đức Chúa Trời và không còn sử dụng bất cứ phần nào của bản thể mình nữa. Theo cách này người ấy rơi vào trong sự thụ động và để cho các ác linh lừa dối mình và chúng nhập vào trong các chi thể thụ động của thân thể người ấy.
Nhiều tín đồ chấp nhận điều chúng ta nói trong chương trước về mối liên hiệp với ý muốn Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, người ấy bị làm cho hiểu sai rằng một mối liên hiệp như vậy với Đức Chúa Trời, mội sự lĩnh hội niềm ao ước của lòng Ngài như vậy và một sự phủ nhận ý định riêng của mình như vậy đòi hỏi họ phải thuận phục Đức Chúa Trời cách thụ động. Họ nghĩ rằng ý muốn của mình phải bị vô hiệu hóa và họ phải trở nên giống như người máy. Họ cho rằng ý nghĩa của sự thuận phục Đức Chúa Trời là không sử dụng ý muốn của mình nữa và không sử dụng bất cứ phần nào khác của thân thể mình qua ý muốn nữa. Một người như vậy không còn (1) lựa chọn, (2) quyết định và (3) sử dụng ý muốn của mình để hành động. Nhìn bên ngoài, dường như có sự biểu lộ của một chiến thắng lớn vì người ấy từng rất bướng bỉnh trong ý muốn của mình nhưng đột nhiên người ấy trở nên rất thuận phục và yếu như nước vậy. Người ấy không có ý kiến trong bất cứ điều gì và hoàn toàn thuận phục trong việc bước theo các mạng lệnh. Người ấy không sử dụng tâm trí hoặc ý muốn của mình, và người ấy không vận dụng sự biện biệt của lương tâm mình. Đúng hơn, người ấy đơn giản trở nên một người hoàn toàn vâng phục – mỗi khi Đức Chúa Trời chuyển động, người ấy chuyển động. Nhưng điều này là một sự khuyến khích cho quỷ ám.
Vì tín đồ dâng mình cho Đức Chúa Trời theo cách này nên tự nhiên người ấy rơi vào trong tình trạng thụ động. Người ấy không hề chuyển động gì cả. Suốt cả ngày người ấy yên lặng chờ đợi tác động bên ngoài để chuyển động người ấy. Khi có một tác động bên ngoài như vậy, người ấy chuyển động. Nếu không, người ấy cứ yên lặng. Khi tình trạng này tiếp tục trong một thời gian dài, người ấy nhận thấy mình không thể hành động vào lúc cần phải hành động vì không có sự tác động bắt buộc bên ngoài. Thậm chí có thể người ấy muốn chuyển động nhưng vì thiếu sự thúc ép bên ngoài, nên người ấy không thể chuyển động. Khi điều này kéo dài, tín đồ nhận thấy nếu không có sự tác động bên ngoài, mình không thể chuyển động dù chỉ một bước. Ngay cả khi ý muốn muốn chuyển động, dường như nó bị một điều gì đó đàn áp. (Dường như người ấy có một loại xiềng xích bao quanh mình, ngăn không cho người ấy chuyển động như ý muốn). Người ấy phải chờ có một sự tác động bên ngoài thúc giục rồi mới chuyển động. Trong hoàn cảnh này tín đồ nghĩ rằng mình rất thuận phục Đức Chúa Trời vì mình không có bất kỳ sự chủ động nào. Nhưng cho dù ao ước chuyển động, người ấy cũng không thể làm được.
SỰ THIẾU HIỂU BIẾT CỦA TÍN ĐỒ
Khi một tín đồ rơi sâu vào trong sự thụ động, người ấy có thể nghĩ rằng mình thuận phục Đức Chúa Trời. Nhưng người ấy không nhận thức rằng các ác linh đang sử dụng tình trạng thụ động của người ấy để hoàn tất sự lừa dối của chúng. Tín đồ nghĩ rằng mình phải rất thụ động trước khi có thể thật sự thuận phục Đức Chúa Trời và trước khi có thể thật sự ở trong mối liên hiệp với Đức Chúa Trời trong ý muốn. Người ấy không nhận thức rằng Đức Chúa Trời không hề sử dụng sự thụ động của người ấy. Chính quyền lực của sự tối tăm sử dụng sự thụ động của người ấy. Hơn nữa, Đức Chúa Trời đòi hỏi tín đồ vận dụng ý muốn của mình để chủ động công tác với Ngài. Đây là điều Kinh Thánh nhắc đi nhắc lại: “Nếu ai kiên quyết làm theo ý muốn Ngài thì sẽ biết…” (John 7:17), và “Hãy xin bất cứ điều gì các ngươi muốn, điều đó sẽ được thực hiện cho các ngươi” (15:7). Đức Chúa Trời không tiêu hủy ý muốn của chúng ta.
Con người có ý muốn tự do. Đức Chúa Trời không bao giờ xâm phạm và thay đổi điều này. Ngài muốn con người chủ động công tác với Ngài. Mặc dù Ngài muốn chúng ta thuận phục Ngài nhưng Ngài không tiêu hủy nhân cách của chúng ta. (Chú thích của tác giả: trong sách này, “nhân cách” chỉ về “thân vị con người”, chứ không phải về “tính cách con người”. Các độc giả phải lưu ý). Ngài muốn chúng ta tự đề xuất và lựa chọn điều Ngài muốn chúng ta chọn. Ngài không chọn thay cho chúng ta, để cho ý muốn chúng ta sa vào trong tình trạng chết chóc. Ngài đòi hỏi sự hợp tác chủ động từ chúng ta. Đức Chúa Trời vui thích nhìn thấy con người đạt đến mức độ cao nhất của một tạo vật, đó là sự tự do hoàn toàn của ý muốn. Trong sự sáng tạo, Đức Chúa Trời đã thiết lập ý muốn tự do của con người. Trong sự cứu chuộc, Đức Chúa Trời đã giành lại ý muốn tự do cho con người. Vào lúc sáng tạo, Đức Chúa Trời không muốn con người vâng phục Ngài cách máy móc. Vì vậy, sau sự cứu chuộc Ngài nhất định không muốn con người bước theo sự chỉ đạo của Ngài giống như một cái máy. Thật ra, Đức Chúa Trời quá vĩ đại đến nỗi Ngài không đòi hỏi con người trở nên gỗ đá để thuận phục Ngài. Phương cách của Ngài là dựa trên công tác của Linh Ngài trong chúng ta, Linh khiến chúng ta vâng phục Ngài cách sẵn lòng. Nhưng Ngài sẽ không bao giờ đưa ra bất kỳ quyết định nào thay cho chúng ta. Sự khác biệt ở đây thật sự là không thể lường được.
Nguyên tắc công tác của Đức Chúa Trời và Satan trong con người thì giống nhau. Khi Đức Chúa Trời sáng tạo con người, Ngài muốn con người có ý muốn tự do. Đây là lý do tại sao Ngài ban cho con người ý muốn tự do. Ngài muốn con người có quyền lựa chọn và phân biệt mọi điều liện hệ đến mình. Mặc dù Đức Chúa Trời là Chúa của vũ trụ nhưng Ngài vui thích trong việc chịu giới hạn và không xâm phạm ý muốn tự do của con người. Ngài không muốn ép buộc con người trung thành đối với ngài. Tương tự nếu không có sự đồng ý của con người (cách vô thức hay có ý thức), Satan không thể chiếm hữu bất cứ phần nào của con người. Cả Đức Chúa Trời lẫn ma quỷ đều cần sự cho phép của ý muốn con người trước khi có thể công tác trong con người. Giống như khi con người “muốn” một điều tốt lành, Đức Chúa Trời sẽ hoàn thành điều đó cho người ấy, thì cũng vậy, nếu con người “muốn” một điều ác, các ác linh sẽ hoàn thành điều đó cho người ấy. Đây là điều chúng ta nhìn thấy trong vườn Eden.
Trước khi con người được tái sanh, ý muốn của người ấy là nô lệ cho Satan và không thể tự do. Nhưng với một tín đồ được tái sanh và chiến thắng, ý muốn người ấy được trả tự do, người ấy có thể chọn lựa mọi điều thuộc về Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, Satan sẽ không bỏ cuộc trên các tín đồ mới được tái sanh này. Hắn sẽ âm mưu giành lấy họ. Hắn biết hắn không thể có được sự cho phép rõ ràng để các ác linh bước vào và cai trị họ. Vì vậy, hắn sử dụng sự lừa dối để có được sự cho phép cần thiết. Chúng ta phải lưu ý rằng Satan phải có được sự cho phép của tín đồ. Tuy nhiên một tín đồ chắc chắn sẽ không cho phép hắn. Đây là lý do tại sao hắn chỉ có thể lấy trộm sự cho phép này qua thủ đoạn lừa dối. Các ác linh sẽ không bước vào trong một người khi chưa có được sự cho phép của ý muốn con người. Thậm chí mức độ chúng bước vào cũng được quyết định bởi ý muốn con người.
Các ác linh biết một tín đồ có hoàn toàn thuận phục Đức Chúa Trời và sẵn lòng trả giá để bước theo Ngài đến cuối cùng hay không. Do đó, hắn lừa dối tín đồ bằng cách giả mạo chính Đức Chúa Trời, giả mạo tiếng của Đức Chúa Trời, công tác của Đức Chúa Trời và sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Giữa vòng các tín đồ là những người có sự tiếp xúc với lĩnh vực thuộc linh, có nhiều người cho rằng một số điều nào đó đến từ Đức Chúa Trời chỉ vì các kinh nghiệm siêu nhiên họ nhận được trong cảm xúc. Cho nên họ chấp nhận nhiều sự giả mạo của các ác linh và tự đặt mình vào trong mối nguy hiểm. Theo cách này, các tín đồ bị lừa dối và xem sự giả mạo của các ác linh là thật, để cho các ác linh tiếp tục công tác trên họ. Ban đầu, họ chỉ bị lừa dối. Nhưng sau khi ưng thuận, họ thụ động để cho các ác linh công tác! Theo cách này các ác linh có được sự tán thành của ý muốn và lừa dối họ thêm nữa, đến mức mà một số phần của bản thể con người họ bị các ác linh ám. Thụ động là bước đầu tiên dẫn đến quỷ ám.
Nếu một tín đồ ý thức về điều kiện để các ác linh công tác và ý thức về nguyên tắc của nếp sống thuộc linh, người ấy sẽ không rơi vào trong loại hiểm họa này. Tuy nhiên, nếu tín đồ không biết rằng sự thụ động cung cấp sự thuận tiện cho các ác linh và không biết rằng nếp sống thuộc linh đòi hỏi một ý muốn năng động để công tác với Đức Chúa Trời, người ấy có thể để cho ý muốn của mình trở nên thụ động. Chúng ta phải đặc biệt lưu ý rằng Đức Chúa Trời không bao giờ thay thế ý muốn con người bằng ý muốn của Ngài. Con người phải chịu trách nhiệm về điều mình làm. Đức Chúa Trời sẽ không đưa ra bất cứ đề xuất nào thay cho người ấy.
Thật ra, nếu sự năng động của các ác linh không hiện diện trong một người thụ động thì sự thụ động của người ấy chỉ dẫn đến sự lười biếng và ù lì. Trong các trường hợp “ù lì” bình thường (tức là khi không có sự năng động của các ác linh), một người ù lì có thể trở nên năng động lại vào bất cứ lúc nào. Nhưng khi người ấy rơi vào trong sự thụ động và bị quỷ ám, người ấy không thể trở nên năng động một lần nữa cho dù người ấy muốn, tức là ngay cả khi ý muốn người ấy muốn.
Ở đây, chúng ta có thể nhìn thấy sự khác biệt giữa công tác của Đức Chúa Trời và công tác của Satan trên con người. Đức Chúa Trời muốn con người hoàn toàn dâng mình cho Ngài, Ngài muốn con người vận dụng mọi quan năng của toàn bộ bản thể người ấy để hợp tác với Thánh linh của Ngài. Satan muốn ý muốn con người hoàn toàn thụ động, hắn muốn con người dừng mọi hoạt động và để cho các ác linh của hắn hành động thay cho người ấy. Đức Chúa Trời muốn con người chủ động, có ý thức và sẵn lòng lựa chọn và hành động theo ý muốn của Ngài để linh hồn và thân thể con người hoàn toàn tự do. Satan muốn con người trở thành tù nhân và nô lệ thụ động của hắn. Đức Chúa Trời muốn con người độc lập, tự do và làm chủ chính mình một cách có ý thức. Satan muốn con người làm con rối, cỗ máy và công nhân của hắn. Đức Chúa Trời không bao giờ yêu cầu con người dừng các hoạt động của mình lại trước khi Ngài công tác. Trái lại, Satan muốn con người hoàn toàn thụ động và dừng mọi hoạt động lại. Đức Chúa Trời muốn con người công tác với Ngài cách có ý thức. Satan muốn con người thụ động để hắn có thể ép con người vâng phục hắn. Đức Chúa Trời chỉ đòi hỏi con người dừng hoạt động tội lỗi lỗi của mình lại, dù nó ra từ bản chất hay sự sống của người ấy, vì chỉ theo cách này con người mới có thể công tác với Thánh Linh. Nhưng Satan muốn con người dừng mọi hoạt động của mình lại, thậm chí chức năng của hồn, vì hắn muốn hành động thay con người. Hắn muốn con người chỉ là cỗ máy vô thức, không tự mình gánh trách nhiệm gì cả.
Đáng tiếc là các tín đồ không hiểu nguyên tắc của Đức Chúa Trời ở trong con người và công tác qua con người. Họ nghĩ rằng Đức Chúa Trời muốn họ trở nên chết chóc như gỗ đá và được Ngài điều khiển. Họ không nhận thức rằng khi Đức Chúa Trời sáng tạo con người, Ngài ban cho con người ý muốn tự do. Đúng là Ngài không muốn ý muốn con người đòi hỏi hoặc làm bất cứ điều gì ngoài Ngài. Nhưng Ngài cũng không muốn con người không có ý muốn và vâng phục Ngài như một cỗ máy. Chỉ cần ý muốn của tín đồ chọn điều Ngài muốn là Ngài thỏa mãn. Đức Chúa Trời không đòi hỏi con người trở nên một người không có ý muốn. Có nhiều điều các tín đồ phải làm cho chính mình, Đức Chúa Trời sẽ không làm những điều đó thay họ. Ngày nay, có một sự dạy dỗ sai trật rằng một người phải giao thác mọi sự cho Đức Chúa Trời và để cho Ngài làm mọi sự cho mình. Loại dạy dỗ này cho rằng chúng ta không cần nhấc tay mình lên hay chuyển động chân mình, lời dạy dỗ đó cho rằng Đức Chúa Trời sẽ nhấc chúng lên và chuyển động chúng giùm cho chúng ta. Sự dạy dỗ đó nói rằng chúng ta phải hoàn toàn đầu phục Thánh Linh bên trong và để cho Ngài sắp xếp mọi sự cho chúng ta. Có một ít lẽ thật trong sự dạy dỗ này. Nhưng các sự lầm lạc được pha trộn trong đó có lẽ là nhiều hơn lẽ thật chứa trong đó! (chúng ta sẽ nói thêm về điều này trong chương sau).

(Người Thuộc Linh)