Vì các tín đồ quá thiếu hiểu biết, nên họ bị lừa dối bởi quyền lực của
sự tối tăm và vô thức bị cho vào tròng bởi sự lừa dối của Satan. Họ thỏa đáp
điều kiện để các ác linh công tác và bởi đó bị quỷ ám. Chúng ta phải lưu ý đến
trật tự trong vấn đề này vì nó rất trọng yếu: (1) tín đồ trở nên thiếu hiểu
biết, (2) người ấy bị lừa dối, (3) người ấy trở nên thụ động, và (4) người ấy
bị quỷ ám. Sự thiếu hiểu biết của tín đồ là nguyên nhân đầu tiên cho việc bị
quỷ ám. Vì sự thiếu hiểu biết của tín đồ về nguyên tắc công tác của các ác linh
và yêu cầu của Thánh Linh nên Satan có thể lừa dối người ấy. Nếu tín đồ biết lẽ
thật, biết cách công tác với Đức Chúa Trời và biết các quy luật của công tác
Đức Chúa Trời, người ấy sẽ không chấp nhận các lời nói dối của Satan. Khi bị
các ác linh lừa dối, người ấy nghĩ rằng toàn bộ bản thể mình phải trở nên thụ
động để Đức Chúa Trời sống và công tác qua mình. Cho nên, người ấy chấp nhận
nhiều sự biểu lộ siêu nhiên của các ác linh và xem những điều đó là từ Đức Chúa
Trời. Theo cách này người ấy càng bị lừa dối hơn và các ác linh có thể nhập vào
người ấy.
(1)Khi một
tín đồ nhường chỗ cho các ác linh, đó là một lời mời gọi cho các ác linh nhập
vào người ấy. (2) Sau khi bước vào, chắc chắn chúng sẽ tự biểu lộ qua các hoạt
động của chúng. (3) Nếu tín đồ hiểu sai các hoạt động này và không biết rằng
những điều đó là ra từ ma quỷ, người ấy sẽ nhường thêm chỗ cho các ác linh vì người
ấy đã tin vào các lời nói dối của chúng rồi. Đây là một chu kỳ tự lặp lại hết
lần này đến lần khác. Theo cách này, tín đồ ngày càng bị quỷ ám sâu hơn. Chỉ
cần tín đồ rơi vào trong sự thụ động, tức là sau khi người ấy nhường chỗ cho
các ác linh, thì mối nguy hiểm không thể nào nói hết được.
Khi một tín đồ rơi vào trong sự thụ động và không đưa ra một sự lựa
chọn trong mọi điều thuộc về mình, người ấy sẽ thụ động thuận phục mọi điều đến
trên mình từ môi trường. Người ấy sẽ nghĩ rằng Đức Chúa Trời đang đưa ra quyết
định thay cho mình, trong môi trường cũng như trong những người liên hệ với
mình và mình chỉ cần thuận phục cách thụ động thôi. Mọi điều xảy đến trên người
ấy đều trở nên ý muốn và lệnh truyền của Đức Chúa Trời; người ấy im lặng chấp
nhận chúng vì nghĩ rằng chúng là do Đức Chúa Trời ban cho. Sau một thời gian,
người ấy nhận thấy rằng mình không thể đưa ra bất cứ quyết định nào về bất cứ
điều gì trong đời sống mình. Người ấy không thể đưa ra quyết định về nhiều điều
mình phải làm và không thể chủ động trong những vấn đề này. Người ấy sợ nói ra
điều mình thích và do dự nói ra điều mình quyết định. Những người khác có thể
lựa chọn, quyết định, khởi xướng và hành động; nhưng người ấy giống như rong
biển trôi nổi trên mặt nước, tròng trành, phó mặc cho gió và sóng biển cuốn đi.
Người ấy mong chờ ai đó đưa ra quyết định dùm mình hoặc các hoàn cảnh cung cấp
cho mình một con đường duy nhất để đi
hầu cho người ấy không cần phải lựa chọn. Người ấy vui mừng để người khác ép
mình làm một điều gì đó vì điều đó khiến người ấy khỏi phải lo lắng. Vì việc
đưa ra lựa chọn rất khó khăn đối với người ấy nên người ấy thà bị môi trường ép
buộc còn hơn tự do trong môi trường, vì điều này đòi hỏi phải có sự lựa chọn.
Sau khi trở nên thụ động như vậy, người ấy nhận thấy đưa ra một quyết
định dù là nhỏ nhất đi nữa cũng là một gánh nặng. Người ấy liên tục tìm kiếm sự
giúp đỡ khắp nơi và tìm kiếm sự hỗ trợ từ bên ngoài để có thể đưa ra quyết
định. Người ấy cảm thấy rất tiếc vì dường như mình không thể quản lý ngay cả
những điều nhỏ nhặt trong nếp sống hằng ngày của mình. Người ấy gặp khó khăn
trong việc hiểu điều người khác nói. Người ấy thấy khó ghi nhớ hay hồi tưởng
lại bất cứ điều gì. Nếu phải đưa ra bất kỳ quyết định nào, người ấy luống cuống
không biết làm gì. Người ấy sợ ý tưởng phải bàn bạc về bất cứ vấn đề gì vì ý
muốn thụ động của người ấy không thể gánh một trách nhiệm nặng nề như vậy. Ý
muốn người ấy quá mỏng manh đến nỗi người ấy phải tiếp nhận sự giúp đỡ từ môi
trường hoặc tìm kiếm sự giúp đỡ từ con người. Nếu có một người luôn luôn giúp
đỡ, người ấy sẽ cảm thấy anh ta đã cướp mất ý muốn của mình; tuy nhiên theo một
ý nghĩa người ấy cũng vui thích khi có người đưa ra mọi quyết định dùm mình!
Trong khi người ấy chờ đợi sự hỗ trợ của tác động bên ngoài, thì vô số thời
gian bị phung phí. Chúng ta không nói rằng một tín đồ thụ động như vậy không
thích công tác. Khi chỗi dậy, người ấy muốn làm một số điều hoặc cho rằng mình
có thể làm một số điều. Nhưng khi người ấy phải bắt đầu công tác, sự khấy động
dừng lại và người ấy cảm thấy sức lực của mình không thể tương xứng với nhu
cầu. Nhiều công tác bắt đầu tốt nhưng kết thúc trong thất bại vì cớ sự thụ động
của ý muốn.
Tình trạng thụ động này thật bất tiện biết bao! Trong suốt giai đoạn
này, tín đồ phải ghi nhiều chú thích để nhắc nhở mình về nhiều điều. Người ấy
phải nói lớn tiếng để giúp đỡ mình trong các ý tưởng và sử dụng hàng trăm “cái
nạng” mà người ấy phát minh ra để hỗ trợ người ấy suốt cả ngày. Cuối cùng,
người ấy nhận thấy các cảm xúc của mình dần dần trở nên tê liệt và người ấy vô
thức hình thành nhiều ao ước và sở thích kỳ lạ. Khi nói với người khác, người
ấy không dám nhìn vào mắt họ. Người ấy khom người khi bước đi. Người ấy hoặc là
quá bận tâm đến các nhu cầu của thân thể mình hoặc đàn áp các nhu cầu của thân
thể mình cách quá đáng. Khi làm bất cứ điều gì, người ấy cố gắng từ bỏ một phần
hoặc toàn bộ quyền sử dụng tâm trí, ý muốn, lập luận và khả năng suy tưởng của
mình.
Trong sự thiếu hiểu biết, tín đồ thất bại trong việc nhận thức rằng các
dấu hiệu bệnh tật này đến từ sự thụ động và việc bị quỷ ám. Người ấy nghĩ rằng
đó là do sự yếu đuối tự nhiên của mình. Tín đồ tự an ủi mình bằng cách nghĩ
rằng có các triệu chứng này là do người ấy không có nhiều “ân tứ” như người
khác, vì “sự thông minh” của người ấy khác với người khác hoặc vì “khả năng
thiên nhiên” của người ấy kém hơn người khác. Người ấy không cảm thấy lo sợ khi
mình trở nên như vậy. Người ấy không nhận thức rằng các triệu chứng này là các
lời nói dối của ác linh, chủ đích là để lừa dối người ấy hơn nữa. Người ấy
không dám công tác và không dám gánh vác bất cứ điều gì vì cho rằng mình có một
sự dị ứng đối với công tác, bị yếu đuối về tinh thần, không có tài hùng biện và
chậm suy nghĩ. Người ấy nghĩ rằng có lẽ mình đã làm việc quá sức trong quá khứ
nên không đủ sức khỏe vật lý. Người ấy không bao giờ hỏi tại sao các tín đồ
khác không như vậy. Tại sao những người thua kém mình về mặt ân tứ lại không
như vậy? Tại sao trong quá khứ mình không như vậy? Người ấy nghĩ rằng những
điều này là bẩm sinh, tự nhiên và thuộc về tâm tính, chứ không nhận thức rằng
đó là công tác của các ác linh. Sự ngu dại này khiến cho các ác linh có được
thêm lập trường và khiến các tín đồ chịu nhiều nỗi khổ hơn.
Các quyền bính của sự tối tăm biết tình trạng hiện tại của tín đồ.
Chúng tạo ra nhiều khó khăn trong môi trường của tín đồ để quấy rầy người ấy
dai dẳng. Một khi ý muốn của tín đồ trở nên thụ động và không thể công tác, các
ác linh sẽ đặt người ấy vào trong một vị trí mà người ấy buộc phải sử dụng ý
muốn của mình, để làm người ấy chán nản và khiến người ấy trở thành trò cười
trước mặt người khác. Vào lúc này, tín đồ như con chim trong lồng, và các ác
linh giống như những đứa trẻ hư hỏng, cứ chọc phá người ấy tùy thích. Chúng
luôn luôn khấy động bão tố và quấy rầy tín đồ bằng nhiều điều. Tín đồ không có
khả năng phản kháng và kháng cự chúng. Môi trường của người ấy trở nên tệ hơn
và nếp sống người ấy trở nên vô nghĩa hơn. Mặc dù tín đồ có quyền bính để xử lý
mọi sự nhưng người ấy giữ im lặng. Theo cách này, các quyền bính của sự tối tăm
dần dần có được lợi thế và khiến tín đồ xoay từ tình trạng thiếu hiểu biết, bị
lừa dối và thụ động đến tình trạng bị quỷ ám, bởi đó chịu thống khổ trong tay
của ma quỷ. Tuy nhiên, điều kỳ lạ là con cái Đức Chúa Trời vẫn không hề hay
biết rằng các tình trạng này không thể đến từ Đức Chúa Trời. Thay vì vậy, họ
chấp nhận chúng cách thụ động.
Khi một tín đồ thụ động tới mức này, người ấy vô thức nương dựa vào các
ác linh để giúp đỡ mình. Chúng ta đã thấy thể nào tín đồ không thể có sức lực
(trong chính mình) để đưa ra các quyết định và người ấy phải nương dựa vào các
tác động bên ngoài để hỗ trợ mình. Nhiều lần, vì sự thống khổ bởi các ác linh
gây ra (mà không nhận thức rằng sự thống khổ đó là từ các ác linh), một tín đồ
mong chờ những tác động bên ngoài đã giúp đỡ mình từ trước đến nay sẽ lại đến
viện trợ cho người ấy. Đây là lý do tại sao các ác linh muốn một tín đồ trở nên
thụ động. Mọi quan năng không được dùng đến của tín đồ đều rơi vào tay ác linh
. Nếu tín đồ cố gắng sử dụng các quan năng của mình trong tình trạng này, điều
đó sẽ chỉ tạo cơ hội cho các ác linh biểu hiện chính chúng qua người ấy. Các ác
linh rất vui sướng đưa ra các đề xuất cho người ấy. Vì con người tìm kiếm sự
giúp đỡ từ chúng nên chúng sẽ không từ chối lời thỉnh cầu đó. Chúng sẽ thường
xuyên tiêm các ý tưởng đã định trước vào trong tâm trí tín đồ, cho người ấy mọi
loại khải tượng, chiêm bao, tiếng nói, ánh sáng, lửa và Kinh Thánh ra từ văn
tự. Qua những điều này, chúng đưa ra các ý kiến và quyết định thay cho tín đồ.
Tín đồ không nhận thức được tình trạng thật, người ấy xem những điều này thật
sự là các sự khải thị của Đức Chúa Trời và phù hợp với ý muốn Đức Chúa Trời .
Hơn nữa, những điều này không đòi hỏi người ấy đưa ra bất kỳ quyết định khó
nhọc nào hay vận dụng bất kỳ quyết tâm nào. Kết quả là người ấy bước theo đó
cách mù quáng. Các ác linh vui mừng giúp đỡ con người không suy nghĩ hoặc sử
dụng ý muốn của mình nhưng bước đi cách ngu dại theo sự khải thị bên ngoài. Cho
nên, chúng rất thường xuyên ban tặng tín đồ những điều lạ lùng
Đáng tiếc là trong sự thiếu hiểu biết về nguyên tắc công tác của Đức
Chúa Trời, một tín đồ có thể bị lừa dối để nghĩ rằng người ấy thật sự đang
thuận phục. Đức Chúa Trời, một tín đồ có thể bị lừa dối để nghĩ rằng ấy thật sự
đang thuận phục Đức Chúa Trời. Nhiều lần như vậy, người ấy có thể (1) tin các
ác linh, (2) nương dựa vào chúng, (3) vâng phục chúng, (4) dâng mình cho chúng,
(5) nghe theo chúng, (6) cầu nguyện với chúng, (7) bị chúng dẫn dắt và hướng
dẫn, (8) chấp nhận sứ điệp của chúng, (9) chấp nhận Kinh Thánh mà chúng đưa
cho, (10) cùng công tác với chúng, (11) công tác vì chúng, (12) hỗ trợ chúng
trong việc hoàn thành công tác và các niềm ao ước của lòng chúng, trong khi vẫn
nghĩ rằng mình đang xoay qua Đức Chúa Trời và vì Đức Chúa Trời. Một điều phải
lưu ý: “hễ anh em dâng mình làm nô lệ để vâng phục ai thì làm nô lệ của kẻ mình
vâng phục” (Roma 6:16). Trên danh nghĩa, chúng ta có thể dâng mình cho Đức Chúa
Trời, nhưng nếu trong thực tế, chúng ta dâng mình cho các ác linh, chắc chắn
chúng ta sẽ trở nên nô lệ của chúng. Dù chúng ta bị lừa dối, nhưng rõ ràng
chúng ta đã dâng mình cho một thần giả dối. Vì vậy, chúng ta không có cách nào
trốn tránh trách nhiệm. Tín đồ phải biết rằng nếu mình không thông công với Đức
Chúa Trời theo tình trạng tương giao, nhưng lại thông công theo tình trạng quỷ
ám, thì lời cầu nguyện của người ấy sẽ là lời cầu nguyện cho các ác linh, sự
dâng mình của người ấy sẽ là sự dâng mình cho các ác linh và sự tin cậy của
người ấy sẽ là tin cậy các ác linh. Trong lòng, người ấy nghĩ rằng mình đang
thông công với Đức Chúa Trời và điều người ấy có được là đến từ Đức Chúa Trời,
nhưng thực tế, người ấy đang thông công với các ác linh và chấp nhận “món quà”
của chúng.
Chúng ta phải nhận thức các bước của diễn trình này. Vì các tín đồ tìm
kiếm sự hiện diện của Đức Chúa Trời trong cảm xúc và trong các kinh nghiệm khác
(như chúng ta đã đề cập đến trong các phần Ba và Bảy) nên các ác linh lừa dối
người ấy và cho người ấy điều giả mạo. Vì thiểu hiểu biết, người ấy mù quáng
chấp nhận điều đó, nghĩ rằng đó là từ Đức Chúa Trời. Cho nên, người ấy tự đem
mình vào trong sự thụ động. Khi tín đồ rơi vào trong sự thụ động, người ấy nghĩ
rằng mình không cần chuyển động và Đức Chúa Trời sẽ chuyển động cho người ấy.
Bởi vậy, người ấy không chuyển động. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời sẽ không chuyển
động người ấy vì Ngài muốn người ấy chủ động hợp tác với Ngài. Đức Chúa Trời
không muốn con người trở nên một cái máy vô cảm. Vì tín đồ thỏa đáp điều kiện
để các ác linh công tác nên chúng dọn đến trên người ấy. Khi con người không
chuyển động và Đức Chúa Trời không chuyển động, các ác linh sẽ dọn đến. Tín đồ
phải biết rằng sau khi người ấy đã hiểu rõ ý muốn của Đức Chúa Trời trong trực
giác của linh, thì toàn bản thể người ấy phải chỗi dậy để thực hiện ý muốn của
Đức Chúa Trời cách chủ động, người ấy không được thụ động. Sau khi tín đồ bị
quỷ ám, người ấy có thể thiếu hiểu biết về tình trạng thật của mình và xem mình
là rất thuộc linh, có nhiều kinh nghiệm kỳ hiệu. Nhưng những ai được huấn luyện
trong Chúa và sở hữu sự biện biệt thuộc linh đều biết rằng dù loại tín đồ này
kinh nghiệm những điều kỳ diệu, nhưng người ấy có “nhân cách kép”. Nhân cách
kép chính là dấu hiệu rõ ràng của việc bị quỷ ám.
NHÂN CÁCH
KÉP
Nhân cách kép nghĩa là có hai nhân cách hoặc hai ông chủ bên trong một
người. Điều này khác với người mới và người cũ mà chúng ta thường nói đến. Trong
một người bị quỷ ám nghiêm trọng, chúng ta có thể thấy rõ đặc điểm của một
“nhân cách kép”. Khi một người bị ám đến cực điểm, những người khác sẽ cảm thức
rằng có một bộ não khác đang kiểm soát người ấy. Người ấy sẽ làm những điều trái với bản chất của mình. Thân thể
người ấy dường như bị một tác động bên ngoài chiếm hữu. Các dây thần kinh và cơ
bắp của người ấy sẽ căng ra, co lại và run rẩy không theo chủ ý của người ấy.
Miệng người ấy nói những lời mà người ấy không biết hoặc vừa mới biết, và giọng
nói người ấy dường như thuộc về một người khác. Chúng ta có thể quan sát thấy
được sự biểu lộ của ma quỷ đến và bước vào trong những người ngoại bị quỷ ám.
Trước khi ma quỷ “đến”, người ấy yên lặng và bình thường, nhưng khi ma quỷ
“đến”, người ấy lập tức thay đổi dáng điệu bình thường và hành động như một
người điên. Từ điểm này, chúng ta có thể thấy một điều: khi một người bị quỷ ám,
người ấy có một nhân cách kép. Ngoài thân vị của chính mình, còn có một người
khác bên trong người ấy, sử dụng các quan năng khác nhau của hồn và thân thể.
Khi các quỷ được biểu lộ, chúng hầu như tiếp quản mọi sự; mọi hoạt động đều
thuộc về chúng và nhân cách riêng của người đó cũng không hoạt động nữa. Cho
nên, sau khi các quỷ lìa khỏi, nhiều người không biết mình đã làm gì, nói gì
hay biểu hiện gì khi có các quỷ ở đó. Lý do cho điều này là nhân cách của các
quỷ hành động; nhân cách của chính người đó không tác nhiệm. Kết quả là nhân
cách con người không biết hoặc hoàn toàn thiếu hiểu biết về những điều diễn ra
trước đó
Tuy nhiên, “sự biểu lộ” của các quỷ đôi khi rất tao nhã. Các quỷ cũng
thường khiến một người phát ngôn và hành động giống như một con người bình
thường. Thật ra, nhân cách của các quỷ đang vận hành; nhân cách của con người
đã ngừng hoạt động rồi. Trong loại biểu lộ này, chúng ta thường bị làm cho hiểu
sai rằng đây là công tác của con người; chúng ta khó nhận thức được rằng đây là
hoạt động của các quỷ. Chỉ khi nào các quỷ cư xử bất thường chúng ta mới có thể
khám phá ra nhân cách kép trong một người
Khi các tín đồ bị quỷ ám, cũng có một nhân cách kép. Vì các mức độ bị
ám khác nhau nên sự biểu lộ của nhân cách kép cũng khác nhau. Điều lạ lùng là
ác ác linh kiểm soát mọi phần trong bản thể của những người bị lừa dối cách
nghiêm trọng. Chúng khiến các tín đồ run rẩy, nóng lòng sốt ruột, và cho họ
loại cảm giác kỳ lạ, quăng họ xuống đất, khiến họ nói những thứ tiếng lạ và đặt
giọng nói chưa ai từng nghe vào trong tai họ và đặt khải tượng chưa ai từng
nhìn thấy vào mắt họ. Đồng thời, các tín đồ này vẫn có thể rất bình an trong
linh và có sự tương giao với Đức Chúa Trời. Họ không biện biệt được và cho rằng
vì họ có sự tiếp xúc với Đức Chúa Trời nên các sự biểu lộ này chắc hẳn là ra từ
Thánh Linh.
Họ không biết rằng: (1) Thánh Linh không bao giờ tiếp quản bất cứ phần
nào của thân thể con người và dùng nó cho chính Ngài. Khi Paul nhìn thấy khải
tượng, ông vẫn có thể kiểm soát chính mình và vẫn tự phát ngôn (Công 9:5). Khi
Peter nhìn thấy khải tượng, tâm trí ông cũng sáng tỏ và ông có thể tự kiểm soát
mình (10:9-17). Ngay cả khi John nhìn thấy khải tượng, ông cũng có thể kiểm
soát chính mình. Đây là lý do tại sao ông có thể viết sách Khải Thị. Ban đầu, ông
ngã xuống đất vì ông không thể chịu nổi ánh sáng của vinh hiển Đức Chúa Trời.
Tuy nhiên, sau khi Chúa làm vững mạnh ông, ông đã chỗi dậy. Ông có thể nhớ
những gì ông nhìn thấy. Điều này không giống như nhiều người ngày nay cứ khẳng
định là mình đã bị Thánh Linh đánh ngã xuống đất mà không biết họ đang làm gì
và họ đã kinh nghiệm được điều gì khi bị ngã xuống.
(2) Tín đồ có Thánh Linh cư trú trong linh mình, nhưng đồng thời thân
thể người ấy vẫn bị các ác linh ám. Vì vậy, người ấy kinh nghiệm một nhân cách
kép. Trong linh mình, người ấy có sự tương giao với Đức Chúa Trời, nhưng các ác
linh biểu lộ các công tác của chúng trong thân thể người ấy. Tín đồ đừng nghĩ
rằng bất cứ điều gì đó ra từ Đức Chúa Trời chỉ vì mình đã có sự tương giao với
Đức Chúa Trời trong linh. Người ấy phải nhận thức rằng vì đã được tái sanh, nên
sự sống mới của người ấy luôn luôn có sự tương giao với Đức Chúa Trời. Có một
điều chắc chắn: một nếp sống thật sự đầy dẫy Thánh Linh sẽ không bao giờ kinh
nghiệm một nhân cách kép. Nhân cách kép chỉ tỏ rằng một người đang bị quỷ ám.
Với những ai ít bị lừa dối hơn thì nhân cách kép không rõ ràng như
những người được đề cập ở trên. Đôi khi, một tín đồ có thể nhận thấy như có ai
đó ở bên cạnh và bên ngoài mình đang nắm giữ các quan năng của mình. Nhiều ý
tưởng không ra từ người ấy có thể ập đến dồn dập. Ý muốn người ấy dường như bị
đồ đẫn, tê liệt, và không thể quyết định, lựa chọn hay quyết tâm. Khả năng suy
tưởng và trí nhớ của người ấy dường như bị ai đó khóa chặt. Người ấy không thể
ghi nhớ hay suy nghĩ về bất cứ điều gì. Lập luận của người ấy có phần bị lạnh
cứng và người ấy không biết cách suy nghĩ hợp lý. Nhiều lời nói, hành vi và
thái độ bất ngờ phát sinh ra mà ý muốn người ấy không hề cho phép và người ấy
cũng nhận thấy mình không thể kiểm soát được ý muốn của mình. Đây là sự biểu lộ
kín giấu của nhân cách kép.
Ý nghĩa của nhân cách kép là sự hiện hữu của hai thực thể độc lập, con
người và nhân cách. Điều đó nghĩa là không cần vận dụng ý muốn để quyết định
điều gì, hồn và thân thể, phần nào hoặc toàn bộ, cũng có thể bất ngờ tự chuyển
động. Điều này nghĩa là bên ngoài ý muốn con người còn có một ý muốn khác, trực
tiếp cai trị hồn và thân thể con người. Một tín đồ bị quỷ ám là người có ý muốn
của các ác linh trong mình thêm vào ý muốn của mình. Một tín đồ bị quỷ ám là
người có ý muốn của mình bị đàn áp và ý muốn của các ác linh cai trị trên người
đó. Đây là nhân cách kép.
Khi một tín đồ có nhân cách kép, thì có hai loại quyền năng trong thân
thể người ấy. Đôi khi Thánh Linh ban quyền năng của Ngài từ người bên trong của
tín đồ, và đôi khi các ác linh điều khiển cho quyền năng của chúng đến từ người
bên ngoài của tín đồ. Đôi khi Thánh Linh biểu hiện ân điển, sự chúc phước và
ánh sáng của Ngài và đôi khi, các ác linh cũng phô bày công tác của chúng từ tín
đồ là điều giả mạo công tác của Đức Chúa Trời. Chúng sẽ khiến người ấy nhìn
thấy các khải tượng, cười cách hoang dại, ca hát lớn tiếng, khóc lóc buồn rầu
hoặc cảm thấy một loại hạnh phúc đến lặng người dâng tràn khắp thân thể người
ấy. Ngày nay có vô số công nhân có nhân cách kép này! Nhưng ít ai có thể biện
biệt được các linh! Satan sẽ dùng loại người này để hoàn thành công tác của
hắn. Vì nhiều điều họ làm là thuộc linh và của Đức Chúa Trời nên sau đó, các
tín đồ sẽ bàn bạc rằng có điều ra từ Đức Chúa Trời giữa vòng những điều này và
nói: “Chẳng phải những điều này rất tốt sao?” Các tín đồ quên rằng đây là công
tác pha trộn của các ác linh.
Satan luôn luôn làm một công tác pha trộn. Nguyên tắc cho mọi công tác
của hắn là gieo cỏ lùng giữa vòng lúa mì. Hắn không chỉ rao giảng các lời nói
dối; hắn cũng rao giảng lẽ thật. Hắn dùng các lẽ thật để loan báo các lời nói
dối. Hơn nữa, hắn sẵn lòng rao giảng các lẽ thật nhiều hơn các lời nói dối để âm
mưu của hắn không bị vạch trần. Sau khi có được lập trường, hắn sẽ đảo ngược tỷ
lệ ban đầu! Chúng ta có thể nhìn thấy sự pha trộn này trong nhiều buổi nhóm.
Các tín đồ phải học cách biện biệt và chứng thực mọi điều này; nếu không, họ sẽ
bị các công nhân có nhân cách kép tiêm nhiễm. Họ cũng sẽ rơi vào trong sự thụ
động và bị quỷ ám.
(Nguồn: Người Thuộc Linh)