Thứ Bảy, 14 tháng 3, 2015

CÁCH SỐNG THUỘC LINH CỦA TÍN ĐỒ

Các tín đồ ngày nay có nhiều sự hiểu sai về cách sống thuộc linh. Bây giờ, chúng ta chỉ có thể xem xét sơ lược một vài điểm:
A. Nói chuyện
“Vì các ngươi không phải là người phát ngôn, mà Linh của Cha các ngươi là Đấng phát ngôn trong các ngươi” (Matt. 10:20). Một tín đồ có thể nghĩ rằng điều này có nghĩa là Đức Chúa Trời sẽ phát ngôn thay cho người ấy, người ấy không cần phát ngôn và Đức Chúa Trời sẽ phát ngôn lời ra miệng người ấy. Một tín đồ như vậy “dâng” miệng mình cho Đức Chúa Trời. Người ấy không đưa ra bất cứ quyết định nào và mong đợi trở nên “cái loa” của Đức Chúa Trời. Môi và dây thanh quản rơi vào trong sự thụ động và người ấy để bất kỳ tác động siêu nhiêu bên ngoài nào sử dụng người ấy. Một số người giảng các sứ điệp cho Chúa nghĩ rằng họ không cần dùng tâm trí và ý muốn trong buối nhóm và họ đơn giản dâng miệng của mình cách thụ động cho Đức Chúa Trời và để cho Đức Chúa Trời phát ngôn qua miệng. Hậu quả của hành động này là: (1) chính tín đồ không phát ngôn; (2) Đức Chúa Trời cũng không phát ngôn, vì Đức Chúa Trời không xem con người là chiếc máy ghi âm; và (3) các ác linh lợi dụng sự thụ động của tín đồ để phát ngôn qua miệng người ấy. Điều này thường khiến cho tín đồ kinh nghiệm một loại quyền năng phát ngôn qua miệng mình khiến người ấy có thể nhận được “các sứ điệp từ trời”. Vì điều được phát ngôn có thể rất tốt nên tín đồ xem các lời này là từ Đức Chúa Trời.
Câu Kinh Thánh trong Matthew đơn giản chỉ về tình trạng mà trong đó một người bị bắt bớ và thử nghiệm. Lời kinh thánh không nói rằng Thánh Linh sẽ phát ngôn thay cho tín đồ. Kinh nghiệm của các sứ đồ Peter và John trước công hội về sau xác quyết cho điều này.

B. Hướng Dẫn
“Và tai ngươi sẽ nghe một lời đằng sau mình nói rằng: “con đường đây, hãy bước đi trong đó” (Isa. 30:21). Các tín đồ không nhận thức rằng câu này đặc biệt chỉ về người Israel-  dân Đức Chúa Trời trong xác thịt-- trong thiên hi niên. Vào lúc đó, sẽ không có công tác giả mạo của các ác linh nữa. Các tín đồ xem loại hướng dẫn bởi một tiếng nói siêu nhiên như vậy là sự dẫn dắt cao nhất. Họ nghĩ rằng họ vượt trội hơn người khác, có sự hướng dẫn siêu nhiên mọi lúc. Họ không sử dụng lương tâm hay trực giác của mình. Họ chỉ thụ động chờ đợi một tiếng nói siêu nhiên. Họ cho rằng mình không cần suy nghĩ, xem xét, lựa chọn hay quyết định. Nhưng chỉ cần “ vâng phục” cách thụ động. Họ để cho một tiếng nói thay thế chức năng của trực giác và lương tâm. Kết quả là: (1) các tín đồ không sử dụng trực giác và lương tâm; (2) Đức Chúa Trời sẽ không truyền lệnh cho họ để khiến họ vâng phục như cái máy; và (3) các ác linh sẽ sử dụng một tiếng nói siêu nhiên để thay thế sự khải thị trong trực giác. Khi đó, các ác linh sẽ nhập vào các tín đồ.
Từ điểm này trở đi, các tín đồ không còn quan tâm đến sự thúc giục của trực giác, tiếng nói của lương tâm, điều họ hiểu và cảm thức hay điều người khác nói. Họ chỉ ngoan cố đi theo tiếng nói siêu nhiên mà không một chút suy xét. Tiêu chuẩn đạo đức của họ dần dần hạ thấp, và thậm chí họ không hề hay biết , vì họ đã để cho các ác linh thay thế lương tâm mình và họ không còn có thể biện biệt thiên ác nữa.
A.   Trí Nhớ
“Nhưng Đấng An Ủi… sẽ… nhắc nhở các ngươi mọi điều mà Ta đả nói với các ngươi” (John 14:26). Tín đồ không nhận thức rằng ý nghĩa của lời này là Thánh Linh sẽ soi sáng tâm trí người ấy để khiến người ấy nhớ lời của Chúa. Người ấy cho rằng điều đó có nghĩa là mình không cần sử dụng trí nhớ của mình nữa và Đức Chúa Trời sẽ khiến người ấy nhớ mọi sự. Kết quả của điều này là tín đồ để cho trí nhớ của mình sa vào trong sự thụ động. Người ấy không còn vận dụng ý muốn của mình để sử dụng trí nhớ nửa. Các hậu quả là: (1) tín đồ không vận dụng ý muốn của mình để sử dụng trí nhớ; (2) Đức Chúa Trời cũng không sử dụng nó, vì không ai hợp tác với Ngài; và (3) các ác linh bước vào và phô bày mọi điều có lợi cho chính chúng trước mặt người ấy, để người ấy không thể từ chối chúng. Ý muốn của người ấy trở nên thụ động để không có cách nào kiểm soát trí nhớ nữa.
D. Tình Yêu
“Tình yêu của Đức Chúa Trời đã được đổ vào lòng chúng ta qua Thánh Linh” (Rô-ma 5:5). Các tín đồ hiểu sai câu này là họ không cần phải yêu thương và Thánh Linh sẽ ban cho họ tình yêu của Đức Chúa Trời. Họ xin Đức Chúa Trời yêu thương qua họ và cung ứng cho họ đầy đủ tình yêu của Ngài hầu cho họ có thể đầy dẫy tình yêu của Đức Chúa Trời. Họ không còn yêu nữa; đúng hơn, họ muốn Đức Chúa Trời làm cho họ yêu. Họ không còn sử dụng khả năng yêu thương nữa, và họ để cho chức năng yêu thương của mình rơi vào trong sự tê cóng. Kết quả là: (1) chính các tín đồ không yêu thương; (2) Đức Chúa Trời sẽ không phủ nhận con người hoặc chức năng yêu thương tự nhiên của con người; Ngài sẽ không ban cho con người tình yêu siêu nhiên; và (3) các ác linh sẽ sống thay cho con người và biểu hiện tình yêu và sự căm ghét của chúng theo ý muốn của chúng. Các ác linh được phép cho người ấy một sự thay thế về tình yêu vì người ấy quá thụ động và không sử dụng ý muốn của mình để kiểm soát chức năng yêu thương của mình. Cuối cùng, tín đồ sẽ trở nên giống như gỗ đá. Người ấy sẽ cảm thấy lạnh lẽo đối với mọi sự và không biết tình yêu là gì. Đây là lý do nhiều tín đồ quá hà khắc và không ai có thể gần họ được mặc dù họ có thể thánh khiết.
Chúa Jesus nói: ”Ngươi phải yêu Chúa Đức Chúa Trời ngươi bằng cả tấm lòng, cả hồn, cả tâm trí và cả sức lực ngươi” (Mark 12:30). Đây là tình yêu của ai? Đây là tấm lòng, hồn, tâm trí và sức lực của ai? Tất nhiên là của chúng ta. Sự sống thiên nhiên của chúng ta phải chết, nhưng mọi chức năng này của chúng ta phải còn lại.
B.   Sự Khiêm Nhường
“Vì chúng tôi không dám xếp hạng hoặc sánh mình với bất cứ ai tự tiến cử mình” (2Cor. 10:12). Vì một tín đồ hiểu sai ý nghĩa của sự khiêm nhường, nên người ấy nghĩ rằng mình phải giấu mình trong mọi sự. Kết quả là sự tự trọng đúng đắn mà Đức Chúa trời cho phép không còn ở đó nữa. Đa phần sự tự hạ phẩm giá của mình chính là một hình thức khác của sự thụ động và bị ám. Kết quả là: (1) tín đồ phủ nhận chính mình; (2) Đức Chúa Trời không đổ đầy người ấy; và (3) các ác linh lợi dụng sự thụ động của người ấy để giữ người ấy trong tình trạng “khiêm nhường” này hơn nữa.
Khi một tín đồ bị ám và tự hạ nhục mình, môi trường xung quanh người ấy dường như trở nên tối tăm, tuyệt vọng và yếu đuối. Những ai tiếp xúc với người ấy đều cảm thức một loại lạnh lẽo, chán nản và buồn rầu. vào những thời khắc quan trọng, người ấy thoái lui và khiến người khác lúng túng. Công tác của Đức Chúa Trời chẳng có gì quan trọng đối với người ấy. Cả trong lời nói lẫn hành động, người ấy đặc biệt chú ý đến việc giấu đi “cái tôi” của mình. Nhưng đang khi người ấy hành động như vậy, “cái tôi” của người ấy trái lại càng bị phơi bày nhiều hơn. Hơn nữa, điều đó trở nên sự ngăn trở thật cho những ai thật sự thuộc linh. Khi các nhu cầu lớn dấy lên trong vương quốc Đức Chúa Trời, sự tự hạ phẩm giá của mình cách thái quá sẽ không cho phép người ấy nhấc một ngón tay của mình lên. Cảm thức về sự thiếu năng lực, vô vọng, bất năng, và nhạy cảm kéo dài được biểu lộ trong người ấy. Tín đồ nghĩ rằng đây là sự khiêm nhường thật, đó là không quan tâm đến chính mình. Người ấy không nhận thức rằng đây là kết quả công tác nội quan công khai của các ác linh. Sự khiêm nhường thật là ngưỡng trông Đức Chúa Trời và tiến lên phía trước.
SỰ RA LỆNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Trong thế giới này, ngoài ý muốn của con người, còn có hai ý muốn khác hoàn toàn đối lập nhau. Đức Chúa Trời không chỉ muốn chúng ta vâng phục Ngài; Ngài còn muốn chúng ta chống cự Satan. Do đó, Đức Chúa Trời đặt hai vấn đề này lại với nhau hai lần trong Kinh Thánh. James 4:7a nói: “Vậy nên, hãy thuận phục Đức Chúa Trời”, và 4:7b nói: “Và chống lại ma quỷ”. 1 Peter 5:6-9 nói: “Vậy nên, hạ mình dưới bàn tay đại năng của Đức Chúa Trời… đối thủ của anh em là ma quỷ… Hãy chống cự hắn, vững vàng trong đức tin của anh em”. Đây là sự quân bình trong lẽ thật. Một tín đồ phải thuận phục Đức Chúa Trời trong mọi sự mình gặp phải. Người ấy phải xưng nhận rằng lệnh truyền của Đức Chúa Trời là tốt nhất cho người ấy. Mặc dù chịu khổ, người ấy sẵn lòng vâng phục vì đây là ý muốn của Đức Chúa Trời. Đây là điều chúng ta đã nói đến trong chương một. Đây là một nửa của lẽ thật. Các sứ đồ biết rằng chúng ta sẽ có nguy cơ bị thiên lệch nên họ lập tức nói rằng chúng ta phải chống lại ma quỷ sau khi thuận phục. Lý do cho điều này là ngoài ý muốn của Đức Chúa Trời, còn có ý muốn của ma quỷ. Nhiều lần hắn giả mạo ý muốn của Đức Chúa Trời, nhất là trong các hoàn cảnh của chúng ta. Nếu chúng ta bị làm cho hiểu sai rằng trong trong thế giới này chỉ có ý muốn của Đức Chúa Trời thôi, thì chúng ta sẽ bị ma quỷ lừa dối và nhận lấy ý muốn của hắn làm ý muốn của Đức Chúa Trời. Do đó, Đức Chúa Trời muốn chúng ta vâng phục Ngài và đồng thời chống lại ma quỷ. Chống cự là công tác của ý muốn. Chống cự là ý muốn chống đối, không sẵn lòng, từ chối và không đồng ý. Đức Chúa Trời muốn chúng ta sử dụng ý muốn của mình. Đây là lý do tại sao Ngài nói: “Hãy chống lại”. Đức Chúa Trời sẽ không chống cự thay cho chúng ta; chính chúng ta phải chống cự. Chúng ta vẫn có một ý muốn và chúng ta vẫn phải dùng ý muốn của mình để vâng phục lời Đức Chúa Trời. Đây là sự dạy dỗ của Kinh Thánh.
Nhưng tín đồ hiểu sai và cho rằng ý muốn của Đức Chúa Trời được biểu lộ trong sự sắp xếp môi trường của Ngài. Đối với người ấy, mọi sự đến trên mình đều hoàn toàn là ý muốn của Đức Chúa Trời. Cho nên ý muốn của người ấy không cần phải sự lựa chọn, suy xét, quyết định, chống cự hay bất cứ điều gì thêm nữa. Người ấy chỉ chấp nhận mọi sự trong im lặng. Điều này nghe có vẻ tốt lành và đúng đắn. Nhưng không thể tránh khỏi có sự hiểu lầm. Đúng là chúng ta thừa nhận bàn tay của Đức Chúa Trời đằng sau mọi việc. Chúng ta cũng biết rằng mình phải hoàn toàn thuận phục dưới bàn tay của Đức Chúa Trời. Nhưng đây là vấn đề thái độ nhiều hơn là hành vi. Nếu bất cứ điều gì xảy đến với chúng ta đều là ý muốn được truyền lệnh của Đức Chúa Trời thì chúng ta có gì để nói? Đây là vấn đề thái độ. Khi chúng ta sẵn lòng vâng phục. Đức Chúa Trời, chúng ta có thể kiểm tra và hỏi thêm: Các vấn đề có phải đến từ các ác linh không? Hay chúng được Đức Chúa Trời cho phép? Nếu chúng được Đức Chúa Trời chỉ định, chúng ta không có gì để nói. Nhưng nếu không phải, chúng ta phải công tác với Đức Chúa Trời để chống lại chúng. Chúng ta không nên thuận phục mọi hoàn cảnh mà không xem xét và kiểm tra điều đó hằng ngày. Thái độ của chúng ta phải luôn như vậy, nhưng sự thực hành của chúng ta phải được thực hiện chỉ sau khi chúng ta hiểu hoàn cảnh. Nếu không, chúng ta có thể đang vâng phục ý muốn của ma quỷ.
Các tìn đồ không nên là những người không có tâm trí. Họ hoàn toàn không được thụ động và bị kiểm soát bởi hoàn cảnh. Đúng hơn, mỗi khi đương đầu với bất cứ điều gì, họ phải luôn luôn hăng hái, năng động và có ý thức kiểm tra nguồn gốc của điều đó, thử nghiệm bản chất của nó và hiểu được nội dung của nó và rồi quyết định hành động. Thuận phục Đức Chúa Trời là điều quan trọng, nhưng điều này không có nghĩa là phải thuần phục cách mù quáng. Sự kiểm tra hăng hái không có nghĩa là chúng ta có thể không vâng phục Đức Chúa Trời trong hoàn cảnh của mình. Đúng hơn, điều đó có nghĩa là chúng ta có ý định thuần phục Đức Chúa Trời, nhưng chúng ta muốn biết điều chúng ta đang thuần phục có phải là từ Đức Chúa Trời hay không. Ngày nay, hiếm có tín đồ nào thuận phục trong thái độ. Điều này nghĩa là cho dù họ biết một điều gì đó đến từ Đức Chúa Trời, nhưng cũng hiếm có ai thuần phục. Nhưng khi họ được Đức Chúa Trời phá vỡ, họ vẫn không biện biệt được một vấn đề có phải đến từ Đức Chúa Trời không; hễ một điều gì đó đến, họ chấp nhận điều đó mà không có bất cứ câu hỏi nào. Lẽ thật quân bình là thuận phục trong thái độ, nhưng đồng thời, chỉ chấp nhận một điều gì đó sau khi sáng tỏ về nguồn gốc của điều đó.
Nhiều tín đồ dâng mình hoàn toàn không hiểu được sự khác biệt. Họ chỉ thụ động thuần phục hoàn cảnh, cho rằng mọi sự đều là sắp xếp của Đức Chúa Trời. Điều này tạo cơ hội cho các ác linh lợi dụng và làm khổ họ. Các ác linh sẽ chuẩn bị các hoàn cảnh như những cái bẫy để các tín đồ hoàn thành ý muốn của chúng. Chúng có thể khuấy động bão tố và khiến tín đồ chịu khổ. Theo cách này, chúng khiến các tín đồ chịu khổ vì tội lỗi của người khác, trong khi xem đây là một gương mẫu của việc không kháng cự “kẻ ác” (Matt. 5:39). Họ không nhận thức rằng Đức Chúa Trời cũng muốn họ “đấu tranh với tội lỗi” (Heb. 12:4), để đắc thắng linh của thời đại này qua việc đắc thắng các hoàn cảnh.
Các kết quả của sự thực hành này là: (1) họ không còn sử dụng ý muốn của mình để lựa chọn và quyết định nữa; (2) Đức Chúa Trời sẽ không gây áp lực cho họ qua môi trường của họ; và (3) các ác linh sẽ lợi dụng hoàn cảnh để tiếp quản ý muốn thụ động của họ. Khi đó, các tín đồ sẽ thuận phục các ác linh và nghĩ rằng mình đang thuận phục Đức Chúa Trời.
SỰ CHỊU KHỔ VÀ SỰ YẾU ĐUỐI
Vì tín đồ hoàn toàn dâng mình nên người ấy nghĩ rằng mình phải nhận lấy con đường thập tự và chịu khổ vì Đấng Christ. Người ấy cũng nghĩ rằng sự sống thiên nhiên của mình chẳng có ích gì. Người ấy muốn nhận được quyền năng từ Đức Chúa Trời, vì vậy người ấy sẵn lòng trở nên yếu đuối, hi vọng rằng bởi làm như vậy, người ấy sẽ trở nên mạnh mẽ. Cả sự chịu khổ lẫn sự yếu đuối đều làm vui lòng Đức Chúa Trời, nhưng cả hai đều có thể trở nên nền tảng cho các ác linh công tác qua sự hiểu sai của tín đồ.
Một tín đồ có thể xem việc mình chịu khổ là sự thu đạt cao nhất. Sau sự dâng mình, người ấy có thể thụ động thuận phục mọi nỗi khổ xảy đến với người ấy, bất kể nỗi khổ đó đến bởi phương tiện gì. Người ấy tin rằng sự chịu khồ của mình là vì Chúa và sẽ có phần thưởng và sự thu đạt. Người ấy không nhận thức cách rõ ràng rằng mình phải vận dụng ý muốn để lựa chọn điều Đức Chúa Trời muốn mình chọn và chống cự mọi điều ác linh ban cho. Nếu người ấy thụ động chấp nhận mọi nỗi khổ, các ác linh sẽ có một cơ hội tốt để khiến người ấy chịu khổ trong các nỗi khổ của chúng. Thụ động chịu khổ có thể khiến các ác linh giáng các nỗi khổ xuống trên tín đồ. Sau khi các tín đồ chịu những nổi khổ và tin rằng chúng đến từ Đức Chúa Trời-tin các lời nói dối của các ác linh- người ấy trình dâng cho các ác linh một cơ hội để đặt mình dưới nỗi khổ lâu dài. Người ấy có thể không nhận thức rằng nỗi khổ của người ấy là kết quả của việc người ấy thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác và sự chịu khổ của người ấy không đến từ Đức Chúa Trời. Người ấy có thể nghĩ rằng mình đang chịu khổ vì hội thánh, lấp đầy các phần còn thiếu trong các hoạn nạn của Đấng Christ. Người ấy có thể nghĩ rằng mình là người tuận đạo, khi trong thực tế, người ấy chỉ là một nạn nhân. Người ấy hãnh diện trong việc chịu khổ, không biết rằng đây là dấu hiệu của việc bị quỉ ám!
Có một điều chúng ta phải chú ý. Các nỗi khổ đến như kết quả của việc bị quỷ ám luôn luôn vô nghĩa. Chúng tuyệt đối không sản sinh bất cứ kết quả nào và vô chủ đích. Chúng là những nỗi khổ chẳng có ý nghĩa gì cả. Hơn nữa, không có Thánh Linh làm chứng trong trực giác của chúng ta rằng những điều này đến từ Đức Chúa Trời. Các ý tưởng này chỉ đến từ tín đồ.
Nếu kiểm tra một chút, tín đồ có thể khám phá ra rằng trước khi dâng mình, người ấy không có loại kinh nghiệm này. Chỉ khi dâng mình cho Chúa và chọn chịu khổ, người ấy mới có loại kinh nghiệm này. Hơn nữa, sau khi người ấy chọn và chấp nhận mọi nỗi khổ, người ấy nghĩ rằng mọi nỗi khổ này đều từ Đức Chúa Trời. Thật ra, nếu không nói là tất cả thì phần lớn các nỗi khổ đó đều đến từ quyền lực của sự tối tăm. Vì người ấy đã nhường lập trường cho các ác linh và tin các lời nói dối của chúng nên toàn bộ nếp sống của người ấy đầy dẫy các hoạn nạn. Không có lý do gì cho những điều đó, người ấy không biết nguyên nhân của chúng và không có sự khen tặng nào đó. Nếu tín đồ biết về việc bị quỷ ám, người ấy sẽ hiểu vấn đề này giống như có nhiều tội lỗi lỗi không thể cất đi vì quỷ ám, thì cũng có nhiều hoạn nạn không rõ nguồn gốc do quỷ ám gây ra. Sau khi một tín đồ biết lẽ thật về việc bị quỷ ám, người ấy sẽ có thể cất bỏ tội lỗi và cũng cất bỏ các hoạn nạn vô nghĩa.
Về sự yếu đuối, tín đồ có thể có một sự hiểu lầm tương tự. Người ấy có thể nghĩ rằng mình phải yếu đuối trong một thời gian dài để có được quyền năng của Đức Chúa Trời. Người ấy xem xét lời của vị sứ đồ: “Khi tôi yếu đuối, là lúc tôi có quyền năng”(2 Cor. 12:10), và nghĩ rằng mình phải yếu đuối trước khi có thể mạnh mẽ. Người ấy không nhận thức rằng vị sứ đồ chưa bao giờ nói: “Tôi phải yếu đuối để tôi có thể mạnh mẽ”. Ông nghĩ chỉ nói về một trong các kinh nghiệm của mình. Ông chỉ nói rằng khi ông yếu đuối, ân điển của Đức Chúa Trời đã làm vững mạnh để ông hoàn thành ý muốn của Đức Chúa Trời. Paul không cầu xin sự yếu đuối này. Ông thật sự yếu đuối, nhưng Đức Chúa Trời đã làm ông mạnh mẽ. Đây không phải là một sự nài khuyên các tín đồ hãy chọn sự yếu đuối; Paul không có ý định là một tín đồ mạnh mẽ phải chủ định chọn sự yếu đuối để Đức Chúa Trời làm cho người ấy trở nên mạnh mẽ. Đúng hơn, ý định của ông là hướng dẫn những tín đồ đã yếu đuối rồi để họ có thể mạnh mẽ!
Việc chủ định chọn sự yếu đuối là sai trật; nó cung cấp một cơ hội chín muồi cho các ác linh. Việc chọn sự yếu đuối và hoạn nạn đều thỏa đáp điều kiện cho các ác linh công tác vì chúng chủ định đặt ý muốn của con người về phía các ác linh. Nhiều tín đồ lúc trước thì lành mạnh. Nhưng họ chọn sự yếu đuối và nghĩ rằng bởi làm như vậy, họ sẽ mạnh mẽ trong Đức Chúa Trời. Họ ngạc nhiên khi thấy là sự yếu đuối của họ chọn trở nên càng lúc càng rõ ràng hơn theo thời gian, trong khi sức lực mà họ mong đợi không bao giờ trở thành hiện thực. Cuối cùng, họ trở nên một gánh nặng cho người khác và hoàn toàn vô dụng trong công tác của Đức Chúa Trời. Việc lựa chọn sự yếu đuối này sẽ không bao giờ đem đến sức lực của Đức Chúa Trời. Trái lại, nó cho các ác linh một cơ hội để tấn công. Nếu một tín đồ không kháng cự, chống đối và tử chối một sự yếu đuối như vậy cách xác định thì người ấy sẽ còn yếu đuối lâu dài.
ĐIỂM TRỌNG YẾU NHẤT-
Nhiều điều chúng ta bàn đến chỉ liên quan đến hành vi của những người cực đoan. Có nhiều người không có hành vi thái quá như vậy. Tuy nhiên, nguyên tắc vẫn như nhau. Ai thụ động trong ý muốn hoặc thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác đều sẽ nhận thấy các quỷ công tác trong mình. Mặc dù nhiều tín đồ không ý thức khi chọn những điều này, nhưng họ vô thức rơi vào sự thụ động và nhường lập trường cho các ác linh. Kết quả là họ lún sâu vào trong vị trí nguy hiểm. Tất cả những ai có kinh nghiệm được đề cập ở trên hãy tự hỏi xem mình có thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác hay không. Điều này sẽ cứu họ khỏi nhiều kinh nghiệm giả mạo và các nỗi khổ không cần thiết.
Chúng ta biết rằng các ác linh lợi dụng lẽ thật trong Kinh Thánh. Nhưng lẽ thật mà chúng lợi dụng bị suy diễn quá mức và vượt qua giới hạn nguyên thủy của nó. Việc phủ nhận bản ngã, thuận phục, chờ đợi lệnh truyền của Đức Chúa Trời, chịu khổ, v..v., tất cả đều là lẽ thật Kinh Thánh. Nhưng vì tìn đồ thiếu hiểu biết về nguyên tắc của nếp sống thuộc linh nên các ác linh có thể lợi dụng sự ngu dại của tín đồ và khiến người ấy thỏa đáp điều kiện để chúng công tác. Nếu một người không kiểm tra nguyên tắc liên quan đến mọi sự dạy dỗ để xem nó tương ứng với công tác của Thánh Linh hay công tác của các ác linh, người ấy sẽ bị lừa dối. Mọi lẽ thật bị suy diễn một chút thôi cũng trở nên vô cùng nguy hiểm. Vì vậy, chúng ta phải cẩn thận.
Bây giờ chúng ta phải sáng tỏ thấu đáo về sự khác biệt cơ bản giữa nguyên tắc công tác của Đức Chúa Trời và nguyên tắc công tác của Satan trên chúng ta: (1) Đức Chúa Trời muốn tín đồ vận dụng mọi quan năng của toàn bản thẩ mình qua ý muốn của người ấy, hợp tác với Đức Chúa Trời đến mức được đổ đầy bằng Thánh Linh. (2) Các ác linh đòi hỏi tín đồ phải thụ động, từ bỏ mọi quan năng của toàn bản thể mình, toàn bộ hoặc một phần, để chúng thuận tiện công tác.
Trong trường hợp trước, Thánh Linh đổ đầy vào linh con người và ban cho linh con người sự sống, quyền năng, sự tự do, sự mở rộng và sự đổi mới cũng như làm vững mạnh toàn bản thể người ấy và giải phóng người ấy khỏi ách nô lệ. Trong trường hợp sau, các ác linh chiếm hữu các quan năng của con người qua sự thụ động. Nếu con người không biện biệt được điều đó, chúng sẽ khiến cho người ấy đánh mất nhân cách và ý muốn của mình; chúng làm cho người ấy trở nên con rối của chúng bằng cách giam cầm, đàn áp, cướp đoạt, ép buộc và vây quanh người ấy. Chúng muốn chinh phục hồn và thân thể con người, đem con người vào trong xiềng xích và lấy đi sự tự do của con người.
Trong trường hợp trước, ngoài việc hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời trong trực giác của mình, tín đồ còn có thể suy nghĩ và hiểu được bằng tâm trí và điều khiển toàn bản thể mình qua sự vận dụng ý muốn tự do để hoàn thành ý muốn của Đức Chúa Trời. Trong trường hợp sau, tín đồ bị tác động bên ngoài đè nén và cho rằng tác động đó đại diện cho ý muốn của Đức Chúa Trời; người ấy không thể suy nghĩ hay đưa ra bất cứ quyết định nào. Người ấy bị ép buộc bởi một tác động cách máy móc.
Ngày nay, vô số con cái Đức Chúa Trời để cho chính mình rơi vào trong sự thụ động theo tiềm thức. Họ dừng chức năng của ý muốn và tâm trí mình lại; cho nên, họ bị ám và chịu khổ. Bất kể sự thụ động ở mức độ thấp đến đâu, nó cũng đủ để các ác linh công tác. Nếu mức độ thụ động cao, nó sẽ nhường chỗ cho sự biểu lộ nhiều phép lạ siêu nhiên qua thân thể. Sự biểu lộ này sẽ tương tự như sự biểu lộ được nhìn thấy trong các thầy phù thủy khi họ nhường chỗ cho các ác linh. Sự khác biệt duy nhất là trong trường hợp trước, có hình thức bên ngoài là một Cơ Đốc nhân. Chúng ta không nên ngạc nhiên bởi các kinh nghiệm siêu nhiên của nhiều tín đồ, như nói tiếng lạ, thấy khải tượng, nghe tiếng nói… Chúng chỉ đi theo một qui luật. Giống như trong lĩnh vực tự nhiên, mọi vấn đề đều có một qui luật, thì trong lĩnh vực thuộc linh, mọi sự cũng đều có một qui luật. Nếu có một hiện tượng hoặc hành vi nào đó, chắc chắn phải có một kết quả ra từ hiện tượng và hành vi đó. Đức Chúa Trời là Đấng thiết lập các qui luật sẽ tuân thủ các qui luật đó. Vì vậy, nếu một người vô tình hay cố ý vi phạm luật này, người ấy sẽ kinh nghiệm một hậu quả đã được nói trước. Dù anh em là Cơ Đốc nhân hay là người thực hành tà thuật, hễ anh em thụ động, các ác linh sẽ nhập vào anh em. Nếu một người hợp tác vói Đức Chúa Trời qua việc vận dụng ý muốn, tâm trí và sức lực của mình, Thánh Linh của Đức Chúa Trời sẽ công tác. Đây cũng là một qui luật.

Watchman Nee (Người thuộc linh)