Trước đây chúng ta đã đề cập rằng các ác linh có thể công tác trong tâm
trí tín đồ vì người ấy đã nhường lập trường cho chúng. Chúng ta cũng đã nói lập
trường này là gì. Chúng ta có thể chia nó thành sáu chi tiết cách vắn tắt. Nếu
tóm lược sáu chi tiết này, chúng có thể được phân thành ba nhóm: (1) tâm trí
chưa được đổi mới, (2) chấp nhận (hoặc tin) các lời nói dối của các ác linh, và
(3) tình trạng thụ động. Tín đồ phải cẩn thận xem xét mình đã nhường loại lập
trường nào cho các ác linh và điều gì đã dẫn người ấy đến tình trạng hiện tại.
Đó có phải là một tâm trí chưa được đổi mới không? Đó có phải là người ấy đã
tin vào các lòi nói dối của các ác linh không? Đó có phải là một tâm trí thụ
động không? Hay đó có phải là sự kết hợp của cả 3 điều này không? Theo kinh
nghiệm của tín đồ, nhiều người đã nhường loại lập trường này cho các ác linh. Nếu
người ấy nhận thức được mình đã nhường lập trường trong một hoặc nhiều phương
diện nào cho các ác linh thì người ấy phải giành lại lập trường mình đã nhường
cho chúng. Giành lại lập trường là cách duy nhất để có được sự giải cứu. Vì tín
đồ đã dành lập trường cho các ác linh nên người ấy rơi vào trong vị trí hiện
tại; vì vậy, một khi lập trường được
giành lại, tín đồ sẽ có được sự tự do. Tâm trí chưa được đổi mới phải được đổi
mới. Các lời nói dối từ các ác linh đã được chấp nhận phải bị lộ ra và từ chói.
Sự thụ động phải được đổi thành sự chủ động tự trị. Bây giờ, chúng ta muốn nhìn
thấy việc giành lại từng loại lập trường trong ba loại này.
Việc Đổi Mới Tâm Trí
Đức Chúa Trời không chỉ muốn tâm trí của con cái Ngài được biến đổi vào
lúc họ ăn năn mà còn được đổi mới hoàn toàn giống như thủy tinh trong suốt. Có
một lệnh truyền như vậy trong kinh thanh vì tín đồ chưa hoàn toàn được tự do
khỏi tâm trí xác thịt là điều các ác linh có thể qua đó công tác. Ban đầu, một
tín đồ chỉ có một tâm trí hẹp hòi, không thể dung chịu người khác; hoặc người
ấy có thể có một tâm trí ngu dại, không thể hiểu biết các giáo lý sâu nhiệm;
hoặc người ấy có thể có một tâm trí thờ ơ, không thể gánh vác công tác quan
trọng của Chúa. Nhưng sau đó, người ấy có thể suy thoái vào trong các tội lỗi sâu hơn “ vì
tâm trí xu hướng xác thịt thì thù nghịch với Đức Chúa Trời” (Roma 8:7). Sau
khi nhiều tín đồ đã học tập sự dạy dỗ trong Roma 6, họ thường nghĩ rằng mình đã
hoàn toàn tự do khỏi tâm trí xác thịt. Họ không biết rằng hiệu lực của thập tự
giá phải được áp dụng cách chi tiết cho mỗi phần của con người. sau khi kể “chính
mình đã chết đối với tội lỗi lỗi”
(c.11), các tín đồ phải “không để cho tội
lỗi cai trị trong thân thể chết chóc của anh em” (c.12). Cũng vậy, sau khi
tâm trí được biến đổi, họ phải “ bắt giam
mỗi ý tưởng dẫn đến sự vâng phục Đấng Christ” ( 2 Cor. 10:5). Tâm trí phải
được đổi mới hoàn toàn, vì dù chỉ còn lại một ít tâm trí xác thịt thì nó vẫn
thù nghịch với Đức Chúa Trời.
Nếu muốn có tâm trí được đổi mới, chúng ta phải đi đến thập tự giá, vì
chính tại đây chúng ta có thể có được sự đổi mói. Điều này được giải thích rõ
trong Epheso 4. Trong câu 17 đến 18, vì sứ đồ đã nói về sự tối tăm của tâm trí
xác thịt loài người. Trong câu 22 đến 23, ông nói về cách đổi mới: “Để anh em lột bỏ người cũ, về cách sống
trước kia của anh em, là người đang bị hư hoại theo dục vọng của sự lừa dối, để
anh em được đổi mới trong linh của tâm trí mình”. Chúng ta biết rằng người
cũ của chúng ta đã bị đóng đinh với Chúa (Roma 6:6), nhưng các câu này khuyên
chúng ta nên “lột bỏ” để tâm trí chúng ta được đổi mới. Bởi điều này, chúng ta
có thể thấy rằng việc đổi mới tâm trí là qua thập tự giá. Các tín đồ phải biết
rằng tâm trí cũ của chúng ta là một phần của người cũ, là điều Đức Chúa Trời
muốn chúng ta “lột bỏ” hoàn toàn. Sự cứu rõi mà Đức Chúa Trời thực hiện trên
thập tự giá không chỉ ban cho chúng ta một sự sống mới. Ngài cũng muốn đổi mới
mọi chức năng của hồn chúng ta. Sự cứu rỗi bên trong phần chiều sâu của cả bản
thể chúng ta phải được “ thực hiện” dần dần ( Phil.2:12). Sự thiếu hụt ngày nay
là các tín đồ không biết tâm trí mình cần được cứu (Eph.6:17). Họ nghĩ rằng sự
cứu rỗi là vấn đề tổng quát và mơ hồ. Họ không nhận thức rằng Đức Chúa Trời
muốn cứu toàn bản thể chúng ta để mọi quan năng của chúng ta có thể được đổi
mới và hoàn toàn thích hợp cho Ngài sử dụng. Tâm trí chúng ta là một trong các
quan năng của chúng ta. Đức Chúa Trời muốn tín đò tin rằng thập tự giá đã đóng đinh người cũ
của người ấy. Người ấy phải công nhận sự thẩm phán của Đức Chúa Trời trên người
cũ cách xác định và vận dụng ý chí của mình để từ chối – lột bỏ - hành vi của
người cũ, bao gồm cách suy nghĩ cũ. Người ấy phải sẵn lòng đến với thập tự giá
và từ bỏ tâm trí cũ của mình, cách suy
nghĩ và lập luận cũ của mình; người ấy phải sẵn lòng đến với thập tự giá và từ
bỏ tam trí cũ của mình, cách suy nghĩ và lập luận cũ của mình; người ấy phải
sẵn lòng tin cậy Đức Chúa Trời để có cách suy nghĩ mới. Các anh em ơi, mọi điều
này phải được lột bỏ cách xác định. Việc đổi mới tâm trí là công tác của Đức
Chúa Trời; nhưng việc lột bỏ (từ chối) và phủ nhận (từ bỏ) tâm trí cũ là công
việc của chúng ta. Nếu anh em lo phần của mình, Đức Chúa Trời sẽ hoàn thành
phần của Ngài. Sau khi lột bỏ cách xác định, anh em phải tin rằng Đức Chúa Trời
sẽ thực hiện sự đổi mới cho anh em cách xác định, dù anh em có thể không biết
cách để được đổi mới.
Ngày nay, vô số tín đồ đem theo cách suy nghĩ cũ kỹ của mình đến mọi
nơi. Mặc dù đã được cứu và có được sự sống mới nhưng họ chưa thay đổi gì trong
cách lập luận, cách suy nghĩ và định kiến trước kia của mình. Họ chỉ khoác lên
chiếc áo Cơ Đốc! Họ vẫn áp dụng tâm trí, lập luận, cách suy nghĩ và định kiến
trước kia của mình để kiểm tra, tiếp nhận hoặc rao giảng các lẽ thật thuộc
linh. Chẳng lạ gì khi họ rơi vào trong nhiều sai lầm và gây ra nhiều sự tranh
cãi trong hội thánh. Giống như Đức Chúa Trời ghét con người làm công tác của
Ngài bằng sức lực riêng của mình, Ngài cũng ghét con người suy nghĩ lẽ thật của
Ngài bằng tâm trí của mình. Tâm trí chưa được đổi mới thì chết về mặt thuộc
linh; bất cứ điều gì ra từ nó cũng đều chết chóc. Mặc dù nhiều tín đồ khoe
khoang về tri thức Kinh Thánh sâu nhiệm và giáo lý thần học vượt trổi của mình,
nhưng ai có mắt đều thấy rằng đó là chết chóc.
Sau khi tín đồ nhận thức được sự cũ kỹ của tâm trí mình và sẵn lòng tập
trung “lột bỏ” qua thập tự giá, người
ấy phải hằng ngày từ chối mọi ý tưởng thuộc xác thịt qua sự thực hành. Nếu
không thì không thể được đổi mới. Mặc dù Đức Chúa Trời muốn đổi mới tâm trí tín
đồ, nhưng hằng ngày tín đồ có thể tiếp tục suy nghĩ theo xác thịt. Khi điều này
xảy ra, công tác của Đức Chúa Trời không thể thành công.
Tín đồ phải kiên nhẫn và cương quyết kiểm tra từng ý tưởng của mình
trong ánh sáng của Đức Chúa Trời. Mọi điều không ra từ Đức Chúa Trời và trái
với lẽ thật của Đức Chúa Trời phải được “ép ra” khỏi tâm trí và hoàn toàn bị từ
bỏ. Thậm chí sự vận dụng tâm trí chưa được đổi mới để hiểu biết lẽ thật của Đức
Chúa Trời cũng phải bị từ chối hoàn toàn. Vị sứ đồ bảo chúng ta rằng tâm trí
chưa được đổi mới thì đầy “các lập luận” và mọi loại tưởng tượng dấy lên nghịch lại với
tri thức về Đức Chúa Trời (2 Cor. 10:5). Các lập luận và các sự tưởng tượng này
cản trở con người trong việc thật sự có tri thức về Đức Chúa Trời. Tín đồ phải
xuyên phá chúng. “Mọi ý tưởng” phải
được đem đến chỗ “vâng phục Đấng Christ”.
Tín đồ không thể được thỏa mãn cho đến khi mọi ý tưởng của tâm trí mình đều đi
đến chỗ vâng phục Đấng Christ. Vị sứ đồ nói “mọi ý tưởng”. Vì vậy, tín đồ không
thể để cho một ý tưởng của mình được thoát. Người phải kiểm tra ý tưởng của
mình xem nó có: (1) ra từ vị trí cũ của mình, (2) lập trường mà mình đã nhường,
(3) từ lập trường mới được nhường cho các ác linh, hoặc (4) nó có phải là một ý
tưởng đúng đắn hay không. Người ấy phải kiểm tra xem tại sao tâm trí mình lại
bối rối như vậy và tại sao mình lại có các ý tưởng định kiến, phản loạn và giận
dữ như vậy. Thí dụ, tại sao tôi từ chối một số lẽ thật mà không xem xét? Tại
sao tôi chống đối một số người chỉ dựa trên lời đồn? Tôi có các lý do chính
đáng không? Có bất cứ ý định căm ghét nào trong tâm trí thiên nhiên của tôi
không? Mọi ý tưởng phải được kiểm tra để mọi ý tưởng ra từ sáng tạo cũ phải
được phát hiện và kết liễu. Tự nhiên, đây là gánh nặng cho những ai quen sống
cách ngu dại vì ý tưởng của họ bị kiểm soát bởi quyền lực của sự tối tăm và họ
hoang dã. Nhưng chiến trận là chiến trận và không bao giờ có thể được thực hiện
bằng một phương pháp đơn giản. Nếu không chiến đấu, chúng ta không thể xuyên
phá các ý tưởng này, từng ý tưởng một, vì tâm trí là đồ lũy của các ác linh. Kẻ
thù là thật. Điều này được chứng minh bởi chiến trận. Vì có chiến trận, nên
chắc chắn là phải có kẻ thù. Kẻ thù đang ở trước mặt chúng ta, làm sao chúng ta
có thể lơ đễnh?
Từ Chối Các Lời Nói Dối Của Ác Linh Trong Tâm Trí
Khi một tín đồ thực hiện sự kiểm tra trong ánh sáng của Đức Chúa Trời,
người ấy sẽ thấy rằng trong quá khứ, mình đã chấp nhận vô số các lời nói dối từ
các ác linh. Cho nên, người ấy rơi vào trong tình trạng hiện tại. (1) Đôi khi
người ấy hiểu lầm lẽ thật của Đức Chúa Trời bởi tin vào các lời nói đối của các
ác linh, dẫn đến thái độ và hành vi sai trật. Thái độ và hành vi này tạo cơ hội
cho các ác linh công tác. Thí dụ, người ấy có thể hiểu lầm mối liên hệ giữa Đức
Chúa Trời với con người và có thể nghĩ rằng Đức Chúa Trời phải trực tiếp truyền
ý tưởng của Ngài vào trong mình. Vì vậy, người ấy chờ đợi cách thụ động và chấp
nhận những gì người ấy tin là ý tưởng từ Đức Chúa Trời. Trong việc làm như vậy,
người ấy để cho ác linh giả mạo và truyền vào các ý tưởng tương tự. (2) Đôi
khi, người ấy tin lời mà các ác linh trực tiếp phát ngôn về sức khỏe vật lý của
người ấy và các vấn đề khác liên quan đến người ấy; cho nên, thân thể người ấy
và các vấn đề này đáp ứng theo điều ác linh bảo người ấy. Thí dụ, các ác có thể
phát ngôn trong tâm trí tín đồ rằng một chuyện gì đó chắc chắn sẽ xảy đến với
người ấy. Ý muốn người ấy không kháng cự và trong một số trường hợp, thậm chí
hoàn toàn chấp nhận điều đó. Cho nên, vào thời điểm mà các ác linh định, chuyện
đó thật sự xảy đến với người ấy.
Nếu một tín đồ kiểm tra tình trạng của mình, người ấy sẽ thấy rằng
nhiều sự lo lắng, yếu đuối, bệnh tật và nhiều loại tình huống không mong muốn
xảy ra trong đời sống người ấy là do người ấy đã chấp nhận các lời nói dối của
các ác linh, trực tiếp hoặc gián tiếp. Kết quả là người ấy có tình trạng như
hiện tại. Mọi điều có liên quan khác xảy đến với một tín đồ theo điều người ấy
nghi ngờ và lo sợ, vì người ấy đã trực tiếp tin các lời nói dối của các ác linh
hoặc vì những điều người ấy đã làm ra từ việc tin lời của chúng. Nếu muốn có
được sự giải phóng, người ấy phải hiểu được ánh sáng của Đức Chúa Trời là gì và
lẽ thật của Đức Chúa Trời là gì.Trong quá khứ, người ấy đã nhường cho chúng lập
trường qua việc tin các lời nói dối của chúng. Bậy giờ, người ấy có thể giành
lại lập trường và có được sự tự do qua việc từ chối các lời nói dối của chúng.
Chỉ có lẽ thật mới có thể kết liễu các lời nói dối, giống như chỉ có ánh sáng
mới có thể xua tan tối tăm. Vì vậy, tín đồ phải theo đuổi mọi lẽ thật liên hệ
đến chính mình, Đức Chúa Trời và các ác linh. Người ấy phải trả giá để tìm kiếm
lẽ thật. Người ấy phải cầu nguyện cách xác định và tin Đức Chúa Trời ban cho
minh ánh sáng để nhận biết tình trạng thật (lẽ thật), kinh nghiệm quá khứ của
mình, thể nào mình đã bị lừa dối và loại nỗi khổ nào người ấy đã kinh nghiệm vì
sự lừa đối này. Người ấy phải kiểm tra các nỗi khổ mà người ấy hiện đang trải
qua, về mặt tinh thần, về mặt thể chất và trong môi trường, là đến từ đâu.
Người ấy phải hiểu nguyên nhân của mọi nỗi khổ đến trên người ấy. Nỗi khổ có
liên hệ đến việc người ấy tin vào một số lời từ các ác linh hay liên hệ đến
hành vi sai trật ra từ các lời nói dối của chúng không? Người ấy phải kiểm tra
nỗi khổ bằng cách truy nguyên nguồn gốc của nó cách bình an, đầy sự cầu nguyện
và với sự mong đợi.
Các ác linh ghét ánh sáng và lẽ thật nhất, vì điều này lấy đi nền tảng
công tác của chúng. Tuy nhiên, phải trải qua một trận chiến để một câu lẽ thật
bước vào trong tâm trí của tín đồ. Các ác linh không muốn tín đồ phát hiện ra
chúng đã làm nhiều điều. Chúng cũng không muốn tín đồ phát hiện ra chúng đã làm
nhiều điều. Chúng cũng không muốn tín đồ biết được một trong số các tình trạng
hiện tại của người ấy là do người ấy đã tin các lời nói dối gây ra. Nguyên tắc
công tác của chúng luôn luôn là “để sự tỏa sáng…..không thể chiếu sáng trên họ”
(2 Cor. 4: 4). Vì vậy, tín đồ phải rất cẩn thận để hiểu biết lẽ thật trong mọi
sự. Lẽ thật nghĩa là tình trạng thật. Mặc dù chính tín đồ không thể đuổi các ác
linh ra, nhưng người ấy có thể để ý muốn của mình ở về phía của lẽ thật và khiến
các ác linh mất lập trường công tác. Ít nhât, người ấy có thể công bố rằng
người ấy muốn lẽ thật, muốn hiểu lẽ thật, và muốn vâng phục lẽ thật. Lời cầu
nguyện và sự lựa chọn của người ấy phải là từ chối mọi lời nói dối của các ác
linh, bất kể hình thức của các lời nói dối này là ý tưởng, sự tưởng tượng, hay
giáo lý. Bởi làm điều này, người ấy dọn đường cho Thánh Linh dẫn đát tâm trí
tối tăm của người ấy vào trong lẽ thật chói sáng của Đức Chúa Trời. Trong kinh
nghiệm, tín đồ sẽ thấy rằng đôi khi phải mất nhiều tháng (hoặc lâu hơn) để có
thể hiểu được một lời nói dối của các ác linh. Trước hết, người ấy phải từ chối
mọi lập trường của các ác linh trong ý muốn của mình và sau đó cẩn thận phá đổ
từng lời nói dối một. Người ấy không còn tin điều trước dây người ấy đã từng
tin và phải dần dần đòi lại lập trường, Người ấy phải không còn tin những gì ác
linh nói nữa. Khi đó, chúng sẽ mất đi quyền lực của chúng.
W.N.