Khi đọc các thư tín điều cần thiết là phải phân
biệt giữa "pháp luật- law" và "pháp luật- the law". (Trong nguyên văn tiếng Hi lạp có chép: law và
the law—mà tiếng Việt không thể dịch được). Nơi nào có mạo từ xác định (the) được
sử dụng, từ ngữ đó (the law) đề cập đến pháp luật Môi-se; khi nào không có mạo
từ “the”, từ ngữ “law” nói đến pháp luật như một nguyên tắc. Việc chúng ta được
giải thoát khỏi "luật pháp" được dựa trên sự chúng ta được giải thoát
khỏi "pháp luật" như một
nguyên tắc. Đức Chúa Trời không còn giao dịch với chúng ta theo các nguyên tắc
của pháp luật. Kết quả là, chúng ta không có kết nối với pháp luật của Si-nai. Là
một nguyên tắc, "luật pháp" lớn
hơn " the luật pháp" như một sự vật. Là một nguyên tắc, luật pháp bao
gồm "the luật pháp" như một sự vật. Chúng ta có ngụ ý gì khi chúng ta
nói rằng Đức Chúa Trời không giao thiệp với chúng ta trên cơ sở luật pháp?
Chúng ta có ngụ ý rằng Ngài không còn đưa ra các đòi hỏi với chúng ta nữa. Nếu
tôi đang sống theo nguyên tắc của pháp luật, tôi đang tìm cách làm hài lòng Đức
Chúa Trời, nhưng việc tìm cách làm hài lòng Đức Chúa Trời bằng những việc làm
tuân giữ luật pháp chết như vậy, không làm Ngài đẹp lòng .
Câu chuyện về người con hoang đàng đưa ra một
minh họa tối cao của cách làm hài lòng Đức Chúa Trời. Người cha cho biết,
"Nhưng lấy làm phải lắm mà ăn mừng và vui vẻ" (Lu 15:32). Sự việc vô
cùng vui vẻ với tấm lòng của người cha đã không phải là việc người anh làm việc cực nhọc cho người cha, nhưng người em
trai đã sẵn sàng để cho người cha làm mọi thứ cho anh ta. Những gì đã làm hài
lòng không phải là anh cả, là người muốn làm người dâng hiến, nhưng là người
em, là người đã sẵn sàng làm người tiếp nhận. Khi người con hoang đàng trở về
nhà, sau khi lãng phí tất cả tư hữu của mình vào cuộc sống náo loạn, người cha
đã không có một lời khiển trách liên quan đến sự hoang phí hoặc nói một lời chất
vấn về của cải đã mất. Ông đã không đau khổ về tất cả những gì đã được chi
tiêu; ông chỉ vui mừng rằng sự trở lại của người con hoang đàng dành cho ông một
cơ hội để chi tiêu nhiều hơn. Đức Chúa Trời rất giàu có, niềm vui của Ngài là
ban cho; kho tàng của báu của Ngài rất đầy đủ và điều đau khổ với Ngài là khi
chúng ta từ chối dành cho Ngài một cơ hội để Ngài rộng rãi ban ra kho báu của Ngài
trên chúng ta. Niềm vui của người cha là khi ông tìm thấy một ứng viên sẵn sàng
trong người con hoang đàng về chiếc áo choàng, nhẫn, giày dép, và tiệc tùng; và
đó là nỗi buồn của ông khi ông không thấy có ứng dụng như vậy trong người anh cả.
Đó là một nỗi đau với tấm lòng của Đức Chúa Trời
khi chúng ta cố gắng dâng lên những điều ấy cho Ngài, bởi vì Ngài rất phong phú.
Niềm vui là khi chúng ta chỉ đơn giản để cho Ngài ban cho và cứ ban cho chúng
ta. Ngài đau buồn khi chúng ta cố gắng làm những việc đó cho Ngài, vì Ngài rất
có khả năng. Ngài mong muốn chúng ta chỉ cho phép Ngài làm tất cả mọi thứ. Ngài
muốn làm Đấng Ban Cho và Đấng Hành động vĩnh viễn. Chỉ khi nào chúng ta nhìn thấy
được Ngài phong phú dường nào và vĩ đại như thế nào, chúng ta sẽ từ bỏ tất cả
các sự hiến dâng và việc làm của mình cho Ngài.
Chúng ta có nghĩ rằng hành vi tốt của chúng ta
sẽ chấm dứt nếu chúng ta ngừng cố gắng làm hài lòng Đức Chúa Trời chăng? Nếu
chúng ta từ bỏ tất cả các sự hiến dâng và việc làm cho Đức Chúa Trời, chúng ta có
nghĩ rằng kết quả sẽ kém khả quan hơn khi chúng tôi đã tự làm một số điều gì đó
chăng? Khi chúng ta tìm cách làm hài lòng Đức Chúa Trời, chúng ta đang theo việc
làm của pháp luật. Các việc làm của chúng ta là đáng ghét đối với Đức Chúa Trời
chúng ta—thậm chí là các "việc làm tốt." Tất cả các việc làm của chúng
ta là "công việc chết" và cần phải được ăn năn. Ngay khi chúng ta ngừng
dâng hiến, chúng ta sẽ chứng minh Ngài là một Đấng Ban Cho diệu kì biết bao!.
Ngay khi chúng ta ngừng làm việc, chúng ta sẽ thấy Ngài là Đấng Hành Động diệu
kì dường nào!
Người anh cả và người con hoang đàng đều cùng
cách xa với niềm vui của nhà người cha
như nhau. Người anh cả, mặc dù không sống ở "nơi xa ", nhưng chỉ sống
ở nhà theo vị trí. Vị trí lý thuyết của anh không bao giờ có thể trở thành kinh
nghiệm, như trong trường hợp của người em hoang đàng, vì anh từ chối từ bỏ những
việc làm tốt của mình.
-
Ý nghĩa của lời Chúa là gì: "Vì Ta nói cho
các con biết: Nếu sự công chính của các con không hơn các chuyên gia kinh luật
và người Pha-ri-si, thì các con không thể vào Nước Thiên Đàng được” (Mathio
5:20).? Ngài không nói về sự giả hình của các thầy thông giáo và người Pharisi,
nhưng nói về sự công bình của họ. Theo Philíp 3, sự công bình của họ là sự công
bình của luật pháp. Trái ngược với sự công bình của các thầy thông giáo và người
Pharisi, Chúa nói đến "sự công chính của các con". Điều nầy là gì? Một
số thần học gia nói rằng đây là sự công bình của Đấng Christ, nhưng câu nầy không
nói "công bình của Ngài", nhưng nói "sự công chính của các
ngươi”. Sự công bình của các thầy thông giáo và của người Pha-ri-si là theo một
tiêu chuẩn nào đó, và "sự công bình của các con" cũng là theo một
tiêu chuẩn nhất định.
Theo ngữ cảnh, chúng ta có thể thấy khác biệt
giữa hai sự công bình nầy là sự khác biệt của các tiêu chuẩn. Câu "Các
ngươi đã nghe phán cho người xưa rằng:.. Song ta nói cùng các ngươi" (Matt
5: 21-22; ,,, 27-28, vv.) lặp đi lặp lại 6 lần. Sự công bình của các thầy thông
giáo và người Pha-ri-si dựa trên luật pháp; "sự công chính của các người"
thì dựa vào những gì "Ta nói". Hãy lưu ý tiêu chuẩn thứ hai cao hơn
biết bao. Trải qua nhiều thế kỉ, loài người tìm cách đạt được tiêu chuẩn đầu
tiên và đã thất bại, làm thế nào Chúa có thể dám dấy lên tiêu chuẩn cao hơn?
Ngài đã có thể dấy lên tiêu chuẩn đó bởi vì Ngài tin vào sự sống của chính
Ngài. Ngài đã không sợ khi đặt các sự đòi hỏi kinh khủng trên chính Ngài.
Chúng ta nên tìm thấy sự thoải mái trong việc đọc
các định luật của các vương quốc trong Mthio 5-7, bởi vì chúng cho thấy sự tự
tin hoàn toàn mà Chúa có trong sự sống của Ngài. Ba chương nầy quy định việc
đánh thuế thần thượng của sự sống thần thượng. Tính vĩ đại trong các đòi hỏi mà
Ngài đặt trên chúng ta cho thấy sự vĩ đại trong việc Ngài tin tưởng vào sự sống
mà Ngài đã đặt trong chúng ta. Chúng ta thường rất ít nhận thấy có sự kìm kẹp
khủng khiếp mà pháp luật có trên chúng ta. Nó đã thâm nhập vào trong xương cốt của
chúng ta; nó thấm vào toàn bộ con người chúng ta. Lúc nào người tín đồ cũng muốn
tạo ra sự công chính của mình bằng cách vâng giữ luật pháp văn tự chết. Đức
Chúa Trời đang làm việc trong chúng ta từng ngày để giải phóng chúng ta khỏi luật
pháp văn tự.
(internet)