Công vụ 19; 20: 17-38; Khải thị 2:1-5.
Giống như sự vinh quang của buổi mai rạng rỡ, đầy hứa hẹn và
điềm báo may mắn: như quyền năng, sự giàu có, các lợi ích của ban trưa, như sự
qua đi của một ngày vinh quang, bóng tối tụ họp, đêm đang gần kề, cảm giác sự suy
giảm, mất mát và thất bại; là câu chuyện về 'Ephesus' như chúng ta có trong Tân
Ước. Đó là một câu chuyện về lịch sử, sự dư dật lời hứa; sự giàu có dồi dào; và
bi kịch cuối cùng.
Buổi mai chói sáng
Những câu chuyện về buổi đầu vinh quang được kể trong Công vụ
19 và 20: 17-38.
Đầu tiên, đó là câu chuyện của một khởi đầu nhỏ với một vài
môn đồ, những con người, đã có sự giáo dục hoàn hảo và ánh sáng hạn chế, tạo ra một phản ứng hết lòng
cho sự soi sáng hơn nữa, và đã lấy thế đứng của mình trên ý nghĩa đầy đủ của thập
tự giá, được biểu hiện bằng phép báp têm - cái chết, chôn cất, phục sinh trong
Đấng Christ, và sự cai trị tiếp theo của Đức Thánh Linh.
Sau đó, là những câu chuyện không thể tránh khỏi và không
thay đổi của cuộc nổi dậy từ các quyền lực gian ác và của sự xung đột căng thẳng:
một báp-têm thực sự vào cuộc chiến thuộc thiên và những đau khổ của Đấng Christ.
Đó là phản ứng của "những người nhà trị thế giới tối tăm này" (là các
thiên sứ ác) chống lại cuộc xâm lược của Giêsu Christ vào lãnh thổ của họ. Thông qua cuộc xung đột
này, chứng cớ được thành lập và các hội thánh lớn mạnh.
Thứ ba, đó là câu chuyện của một thời gian dài xây dựng, hướng
dẫn, trong thời gian đó các giá trị thuộc linh tự phát trở thành ngoại địa
phương và "tất cả cõi tiểu Asia đều nghe lời". Bản chất thực sự của Hội
thánh hoàn vũ đã trở thành bản chất của các hội thánh địa phương; không theo
thiết kế có tổ chức, không phải bởi ủy ban, máy móc, và các tổ chức, nhưng do sự
sống thuộc linh tự phát
và tuôn tràn.
Thứ tư, đó là sự lặp lại trung tín của tất cả các mọi điều đã
được thực hiện và truyền đạt bằng sự trả giá rất lớn, thông qua nhiều khó nhọc,
và lòng trung thành không khoan nhượng với Đấng Christ và lẽ thật. Một lưu ý cuối
cùng của cảnh báo tiên tri đóng thời kỳ đó lại; cảnh báo rằng, nếu các cuộc tấn
công khốc liệt và độc ác của kẻ thù từ bên ngoài không thể phá vỡ hội thánh đó,
và chứng cớ của họ, và không có ảnh hưởng sâu rộng của hắn, hắn trở vào bên
trong và "lại từ trong anh em cũng sẽ có người dấy lên nói lời bội nghịch,
dẫn dụ môn đồ theo"(Công 20:30).
Tất cả mọi sự tạo nên một khởi đầu tuyệt vời và làm say mê
cõi lòng. Đó là một khởi đầu sinh tử và có ý nghĩa biết bao! Mọi hội thánh địa
phương đã có một khởi đầu rõ ràng và trong suốt như vậy! Điều đó thuộc về Đức
Chúa Trời, chứ không phải của con người. Điều đó hoàn toàn của Đức Thánh Linh,
không phải của xác thịt. Điều đó từ thiên đường và không chỉ có trên lập trường
trần gian. Vì vậy nó có tất cả các đặc điểm của một sự kêu gọi thuộc thiên; đã
có một sự đầy đủ thuộc thiên mà tự nhiên tràn vào các vùng xa xôi, và một quyền
năng thuộc thiên mà - trong khi những thứ vẫn đúng - đã chiến thắng các cuộc tấn
công quỉ quyệt đa dạng của con người và của quyền lực điều ác (các quỉ).
Trong khi hội thánh vẫn còn đứng trên lập trường thuộc thiên,
thiên đàng hỗ trợ nó. Rằng nó đã tồn tại từ rất lâu và vận dụng một ảnh hưởng lớn
như vậy là nhờ vào tính thuần chính của buổi đầu.
Buổi Trưa:
Mặc dù, có lẽ, chúng ta nên để cho các phần sau của những gì
chúng ta đã viết chồng lên nhau vào giai đoạn thứ hai này, chúng ta cảm thấy rằng
ngọn lửa đầy đủ buổi trưa, thời điểm quan trọng của 'Ephesus' là để được nhìn
thấy trong thơ tín cũng mang tên Epheso (có lẽ với những thơ tín khác) đã được
đính kèm. Khi đó Paul đang ở tù tại Rome. Trong tối thượng quyền của Đức Chúa
Trời, con người ông đã bị cắt đứt không còn du hành thực sự giữa các hội thánh,
và không còn tất cả những hoạt động đó, mặc dù điều quan trọng và sinh tử vào
lúc bấy giờ là phải nhường chỗ cho một giai đoạn mới.
Chúa cai trị tất cả mọi thứ trong cuộc sống của tôi tớ Ngài,
hành động theo nguyên tắc có giá trị tương đối, xét rằng mục đích lớn nhất sẽ
được phục vụ bằng cách nhốt đầy tớ của Ngài trong sự cách biệt, ít nhất là
trong một thời gian. Vì vậy, ông đã đến nhà tù tại Rôma, bất chấp mọi nỗ lực tà
ác muốn kết thúc cuộc sống của ông trên đường đi. Sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời
đã được chứng minh cách đầy đủ và hoàn toàn biết bao!
Kể từ khi "tầm nhìn thuộc thiên" đã mở toang trên
ông trên đường đến Damascus (Công 26: 19), trong khoảng thời gian chừng 28-30
năm, tầm nhìn đó đã được ổn định và không ngừng phát triển về ý nghĩa và tầm
quan trọng. Nó đã được thêm vào bởi các khải tượng đặc biệt và những mặc khải của
Chúa: trong sự suy gẫm, suy nghĩ, và kinh nghiệm của ông; (2 Cor 12 1) trong những
chuyến đi chức vụ lâu dài, và bằng đường biển. Phần nhiều những điều đó ông đã
đưa ra trong các lá thư, mà vẫn còn là một lượng lưu trữ lớn trong tấm lòng của
ông, trong đó yêu cầu có được sự tách rời yên tĩnh và tự do khỏi những trách
nhiệm quản trị, để được giải phóng. Vì vậy, Chúa đã lên kế hoạch. Thật là một
món nợ hùng mạnh của Hội thánh phổ thông trải qua tất cả các thế kỷ tiếp theo đã
mang nợ đối với hành động theo sự khôn ngoan và tối thượng quyền của Đức Chúa Trời!
Chúng ta không ngần ngại nói rằng văn kiện lớn nhất từng được
viết ra và trao cho con người là những
gì được gọi là "Thư gửi tín hữu Êphêsô". (Chúng ta biết sự tranh luận
cho rằng đó là một thông điệp phổ biến rộng rãi, và rằng chữ 'Ephesus' đã được
điền vào một khung trống còn chừa lại, khi
gởi cho những nơi khác nhau, và chúng ta không cãi nhau với kết luận đó.) Đối với
Ephesus, chắc chắn nó đã dự định và thực tế là mang theo trong lá thư với những
hàm ý nhất định nào đó.
Thứ nhất. Đó là một thực tế có chứng cớ tốt, tất cả các giảng
sư và giáo sư được biết cách thực hiện tốt chức vụ của họ trong Đức Thánh Linh,
mà mức lượng tự do và mức độ 'lời nói phụ thuộc vào năng lực của người tiếp nhận’.
Chúa Giêsu đề ra thực tế này khi Ngài nói: "Ta còn có nhiều điều nói với
các ngươi nữa, nhưng bây giờ các ngươi không thể đương nổi" (Giăng 16:12),
và nó được tuyên bố cách khẳng định trong Hêbơrơ 5:11. Giới hạn được áp đặt bởi
sự non nớt, sự tăng trưởng tắt nghẽn, hoặc sự thiếu hụt của đời sống thuộc linh
trong những người nghe.
Một người đầy tớ của Chúa, nói năng trong Thánh LInh, sẽ biết
khi nào ông không có thể đi xa hơn, và nếu cố gắng nói tiếp sẽ dẫn đến việc mất
sự xức dầu và giúp đỡ. Nó cũng giống như Đức Linh nói, "Nếu như Ta có thể
đi tới với những người này, họ không thể tiếp lấy nữa”. Mặt khác, đó là một điều,
khi không có hạn chế như vậy, và nó có thể cung cấp cho tất cả những gì bạn có
bởi vì mọi người đang rút lấy chúng nó ra và không mỏi mệt!
Điều này rõ ràng là dường nào với những người mà thơ tín này
được viết ra. Vị sứ đồ đã có thể đổ ra các kho tàng bị dồn nén của sự giàu có
thuộc thiên. Cản trở duy nhất của ông là ngôn ngữ, Cái ưu tú được chất đống
trên cái ưu tú nhất. Ông ăn xin về ngôn ngữ và đôi khi làm hư ngữ pháp trong nỗ
lực của mình để giải phóng bản thân khỏi gánh nặng về lời Chúa trong chính
mình. Không có gì là quá sâu sắc; không có quá vinh hiển; và không có gì quá
quan trọng đối với Hội thánh như là ở đây chứa đựng – hoặc giải phóng!
Những tín hữu đó phải ở trong một trạng thái thuộc linh lành
mạnh để tiếp nhận được tất cả mọi điều đó. Paul đã cảm thấy tình trạng làm cho
ông tự do, để mở ra chữ 'các chỗ thuộc
thiên"- một từ ngữ rất đặc trưng của Thư tín.
Một tập thể Cơ đốc nhân sẽ có được những gì họ đã sẵn sàng nhận
lãnh. Chúa có những kho tàng rộng lớn và Ngài chỉ bị ép chặt lại trong chúng
ta. Một trong những điều buồn nhất nói về Israel là: "Ngài ban cho chúng
nó điều chúng nó cầu xin; Nhưng sai bệnh tổn (gầy còm) hại linh hồn chúng nó
"(Thi 106:. 15). Một thái độ và tình trạng của tấm lòng sẽ quyết định 'sự
gầy còm' hay dư dật.
Thứ hai. Không chỉ là mức lượng có thể được ban ra, nó cũng
là bản chất. Không có trong khối lượng riêng là giá trị được tìm thấy. Khối lượng
có thể dẫn đến tình trạng quá nhiều và áp bức. Không phải là bằng các từ ngữ
tuyên bố như vậy. Những người mà lá thư này được gửi đến đã không chỉ phát triển
một khả năng để tiếp lấy sự phân chia lớn về các ý tưởng tuyệt vời.
Có một điều trong Chức vụ, tương ứng với cụm từ của tác giả
Thánh Vịnh 42:7- "vực gọi vực". Họ đã có sự biện biệt mà được sinh ra
từ sự đói khát và sự cần thiết, và họ phát hiện ra rằng điều này là điều của đời
thường. Vì một điều kiện đó là cuộc sống cho họ.
Có những thứ trong thư này đã từng và luôn luôn phân chia dân
chúng thành ba cấp bậc. Có những người không có đời sống thuộc linh gì cả và phản
ứng của họ chỉ là cung cấp cho tất cả mọi người, vượt ngoài sự hiểu biết và huyền
nhiệm. Sau đó là những người "trí thức" và các nhà thần học, những người
đã giải quyết các nội dung khác nhau thành 'trường phái' của giáo lý và sự giải
thích. Tất cả điều đó quá lạnh cóng và chết cứng: hoặc chẳng đi đến đâu khi tấm
lòng đang vỡ ra cho một số ánh sáng thuộc thiên; nó là trái cây của Biển Chết;
tro bụi; sự đau đầu và mệt nhọc.
Nhưng, có những người thực sự có "một tâm linh của sự
khôn ngoan và mạc khải" và "sự xức dầu" cư ngụ bên trong họ; những
người nầy biết một thiên đàng mở ra, vì thập tự giá đã phá vỡ các rào cản tự
nhiên. Đối với họ, đó là bản chất, thể yếu, ánh sáng thuộc thiên; những tiềm
năng thần thượng, và các phước lành làm say mê tấm lòng về những gì được tiết lộ,
chứ không phải là những ý tưởng và khái niệm. Hiển nhiên các tín hữu Êphêsô đã
như thế. Ít nhất, đã có đủ số lượng người như vậy ở đó.
Có một yếu tố khác đã được ám chỉ, cần được nhấn mạnh. Những
tín hữu đó đã chịu khổ, và đang đau khổ. Tình trạng của họ đã làm cho điều đó
hoàn toàn cần thiết mà họ có nhiều hơn một nguồn lực theo danh nghĩa và bình
thường. Vâng, điều đó là một điều cần thiết. Họ bị đói. Họ đứng chống lại các lực
lượng của cái ác. Họ có ý thức cần cứu giúp trong các trận chiến. Tôn giáo truyền
thống đã bỏ họ. Món ăn thuộc linh là khó giảng ra.
Sự ký thác bao la mà Đức Chúa Trời đã ban cho dân chúng trong
các điều kiện như vậy và trong những hoàn cảnh như vậy sẽ chỉ đưa đến sự sinh động
hóa một lần nữa, đối với một số nguyên nhân hay lý do, nó lại trở thành một vấn
đề của sự sống hay cái chết; của ánh sáng sống hoặc chúng ta hư mất!
Buổi Chiều:
Thật là một điều đáng thương khi chúng ta không thể lìa khỏi câu
chuyện đó. Nhưng, buồn khi phải nói, hồ sơ kết thúc với câu 'buổi mai rạng rỡ đã
qua đi, và đã tiêu xài kho tàng chứa vàng của hội thánh quá sớm'.
Chúng ta kết hợp hai câu Kinh Thánh: -
"Con biết rằng mọi người ở A-si đã xây bỏ ta, trong số ấy
có Phy-ghen và Hẹt-mô-ghen" (2 Tim 1:15); " Hãy
viết cho sứ giả của Hội thánh tại Ê-phê-sô rằng: …, có điều ta trách ngươi, ấy
là ngươi đã bỏ tình thương yêu ban đầu. Vậy, hãy nhớ lại ngươi đã sa sút từ
đâu, hãy ăn năn và làm lại công việc ban đầu. Bằng chẳng, ta sẽ đến cùng ngươi,
cất giá đèn ngươi khỏi chỗ nó, "(Khải Huyền 2: 1, 4). " ấy là ngươi đã bỏ tình thương yêu ban
đầu". " hãy nhớ
lại ngươi đã sa sút từ đâu, ". " cất giá đèn ngươi khỏi chỗ nó ".
Nếu, như thường được tin cách tổng quát, Paul đã viết thư Epheso
trong lần ở tù đầu tiên của ông, và ông được thả tự do trong khoảng bốn năm, và
sau đó ông đã viết cho Timothe trong lần ở tù thứ hai và cuối cùng, phải trong suốt
những bốn năm đó, thảm kịch ở Ephesus đã bắt đầu. Những giai điệu cũ đã thay đổi,
toàn mức độ đã suy giảm. "Tất cả mọi
người ở A-si đã xây bỏ ta". Timothe có trách nhiệm ở Ephesus. Chúng ta chỉ
phải đọc thư thứ hai gởi đến ông để xem những gì đã xảy ra và đang xảy ra ở Tiểu
châu Á. Đó là một câu chuyện bi thảm.
Có một số điều rút ra từ đó.
Thứ nhất. Làm thế nào toàn bộ tình thế có thể nhanh chóng
thay đổi, và sự sa ngã lớn lao biết bao, khi- về mặt bên trong-- chính sách chiếm lấy chỗ của nguyên tắc; quyết
đoán cá nhân đã đẩy sự quản trị thuộc linh sang một bên (có một số tên tuổi cá
nhân được đề cập với sự mất uy tín trong lá thư này); khi thuộc linh theo sau cái
thứ tự, "văn phòng", và thủ tục được thực hiện để dành chỗ cho tổ chức,
các lệnh lạc trần thế, và một hệ thống kỹ thuật hình thành.
Hoặc là sự sỉ nhục và tẩy chay của Paul, sự mất uy tín của
ông và thi hành lời đe dọa của ông đã quá nhiều cho những người nầy lúc bấy giờ,
và vì vậy họ lìa bỏ ông ấy; hoặc tiêu chuẩn của ông bấy giờ đã quá cao và đòi hỏi
quá quắc đối với họ và họ đã phát triển một sự phức tạp thua kém thuộc linh; có
lẽ đó là một trong cả hai; nhưng có 'sự sa ngã', Chúa ngụ ý họ đã rơi vào một mức
độ thấp hơn.
Và các đặc tính? Đã làm mất – tình yêu nguyên thủy và sự
trinh khiết đầu tiên -; và sa ngã "những công việc đầu tiên", các biểu
hiện trước đây về khải tượng sớm sủa và nguyên sơ.
Nó là một cái gì đó phải được suy nghĩ về những điều đó,
trong việc nói về Ephesus, Chúa nói: "Ta biết công việc ngươi, sự lao khổ
ngươi, sự nhẫn nại ngươi..", và sau đó ra lệnh họ họ làm lại "những công việc đầu tiên".
Ngài không truyền lệnh họ không có công trình hoặc công việc vất vả, nhưng Ngài
nói họ đã bỏ những công việc đầu tiên của họ.
Thứ hai. Có thể 'từ bỏ" chiếc bình của Chúa và phủ nhận
những gì Ngài đã đưa ra, nhưng không phải vì cớ đó mà có thể lìa bỏ Chúa.
Paul đã ra đi – khoảng năm 64 S.C.. John có lẽ đã viết cuốn
sách Khải Huyền sau đó khoảng hai mươi năm - hoặc xa hơn nữa. Trong thời gian
đó sự suy giảm đã trở nên rất lớn lao và Chúa nghiêm trọng nêu lên câu hỏi về sự
biện minh cho sự tồn tại của chân đèn – chiếc bình của chứng cớ.
Tất nhiên, đó có thể là các yếu tố của sự suy thoái này đã có
mặt trong cuộc đời của Phaolô và rằng ngoài thợ đồng Alexander, họ đã bị áp đảo.
Chúa có thể đã cất Paul đi vì Ngài biết điều này, vì Ngài không tin vào sự áp đảo. Những gì có mặt, sớm hay muộn, được ban
cho một cơ hội để thể hiện bản thân, để được xét đoán. Vì nó có thể như vậy, những
gì của Đức Chúa Trời không thể bị con người đặt sang một bên mà không có một cuộc
chạm trán với Đức Chúa Trời trong thời gian chọn lựa của Ngài.
Nó sẽ là một sự khích lệ nhất định cho tất cả các tôi tớ
trung thành của Chúa để biết rằng thời gian là đồng minh của Đức Chúa Trời, và rằng
lao tác của họ không phải là vô ích trong Chúa ( 1 Cor. 15:58), cho dù họ có nhìn
thấy nó trong suốt cuộc đời của họ hay không.
Chúng ta đến lời cuối cùng. Không phải là Ephesus hay bất kỳ
nơi nào khác hoặc điều nào như vậy mà Chúa đích thân để giữ cho nguyên vẹn. Thế
giới đang được bao phủ với các địa điểm và các tổ chức mà đã một lần có cảnh trạng
của vinh quang, quyền lực và sự sử dụng của Ngài, nhưng hôm nay chỉ còn là cái vỏ
hoặc cái bóng của vinh quang trước đây. Đức Chúa Trời không quá quan tâm đến
các phương tiện đang khi Ngài để ý các giá trị thuộc linh mà cõi vĩnh cửu sẽ được
bày tỏ. Đó là những người Ngài đang quan tâm, và dân có mức lượng thuộc linh
không giảm hạ theo thời gian. Đó là - cuối cùng - mức lượng của vàng của Đấng Christ được biểu
hiệu bởi cái chơn đèn.
T. Austin-Sparks