Giống như con người có sự tương giao với thế giới vật lý qua thân thể
thì con người cũng có sự tương giao với thế giới thuộc linh qua linh mình. Sự
tương giao này với lĩnh vực thuộc linh không qua tâm trí hay tình cảm mà là qua
linh. Điều đó là qua trực giác của linh. Một khi đã hiểu các chức năng của trực
giác, chúng ta sẽ hiểu bản chất của sự tương giao giữa Đức Chúa Trời với con
người. Để thờ phượng Đức Chúa Trời và có sự tương giao với Ngài, con người phải
có một tố chất giống với Đức Chúa Trời. “Đức Chúa Trời là Linh và ai thờ phượng
Ngài phải thờ phượng trong linh” (John 4:24). Không thể có sự tương giao giữa
hai tố chất khác nhau. Vì vậy, những người chưa được tái sanh, những người có
linh chưa được phục sinh, và những tín đồ đã được tái sanh nhưng không thờ
phượng bằng linh thì không thể có sự tương giao thật với Đức Chúa Trời. Mặc dù
một người có thể có các ý tưởng tốt đẹp và các cảm nhận mạnh mẽ nhưng người ấy
vẫn không bao giờ có thể bước vào trong thực tại thuộc linh và có sự tương giao
riêng tư với Đức Chúa Trời. Sự tương giao của chúng ta với Đức Chúa Trời ở
trong phần sâu thẳm nhất của bản thể chúng ta; điều đó ở trong phần sâu hơn tâm
trí, tình cảm và ý muốn. Chúng ta tương giao với Đức Chúa Trời qua trực giác.
1. Corinth
2: 9 đến 3:2 giải thích rõ cách mà con người tương giao với Đức Chúa Trời qua
trực giác trong linh mình và cách mà người ấy hiểu biết những điều của Đức Chúa
Trời. Bây giờ chúng ta hãy xem xét điều này cách cẩn thận.
TẤM LÒNG CON NGƯỜI
Câu 9 nói: “ Các điều mắt chưa thấy, tai chưa nghe và trong lòng con
người chưa từng nghĩ đến; các điều mà Đức Chúa Trời đã dự bị cho những người
yêu Ngài”. Câu này nói về Đức Chúa Trời và những điều của Đức Chúa Trời. Mọi
hành động của Ngài đều là những điều mà thân thể bên ngoài (mắt và tai) của con
người chưa từng nghe hay thấy. Đó là các điều chưa từng nghĩ đến trong lòng con
người. “Lòng con người” là sự hiểu biết, tâm trí hoặc trí năng của con người.
Tư tưởng con người không bao giờ có thể đo lường được các hành động của Đức
Chúa Trời. Các hành động của Đức Chúa Trời vượt quá tư tưởng con người. Những
người muốn nhận biết Đức Chúa Trời và có sự tương giao với Ngài không bao giờ
có thể vươn đến Đức Chúa Trời chỉ bởi sử
dụng tâm trí.
THÁNH LINH
Câu 10 nói: “ Nhưng Đức Chúa Trời
đã khải thị cho chúng ta qua Linh, vì Linh dò xét mọi sự, ngay cả những
điều sâu nhiệm của Đức Chúa Trời”. Linh dò xét mọi sự. Linh không cần phải sử
dụng tâm trí để hiểu ra mọi sự. Linh thậm chí biết được những điều sâu nhiệm
nhất của Đức Chúa Trời. Những điều mà con người không biết, Ngài biết. Ngài dò
xét mọi sự bởi trực giác của Ngài. Vì vậy, qua Ngài, Đức Chúa Trời có thể khải
thị cho chúng ta những điều chưa từng nghĩ đến trong lòng chúng ta.
Đây là “sự khải thị”. Đó không phải là sự hiểu biết ra từ sự vận dụng
tâm trí. Vì đó không phải là một điều xảy ra trong lòng chúng ta và càng không
có trong các ý tưởng của chúng ta. Đây là một “ sự khải thị” hoặc một sự mặc
khải. Không cần sự giúp đỡ từ tâm trí. Đức Chúa Trời không khải thị bất cứ điều
gì cho chúng ta qua tai, mắt hoặc tâm trí chúng ta. Sự khải thị đến như thế
nào? Hai câu Kinh Thánh kế tiếp trả lời câu hỏi này.
NHÂN LINH
Câu 11 và câu 12 tiếp tục: “Vì giữa vòng loài người ai biết được những
điều của con người ngoài nhân linh ở trong con người? Cùng một cách, cũng không
ai biết được những điều của Đức Chúa Trời ngoài Linh của Đức Chúa Trời”. Chỉ có
nhân linh mới biết (không phải hiểu hay lĩnh hội) những điều của con người.
Tương tự, chỉ có Thánh linh mới biết những điều của Đức Chúa Trời. Cả nhân linh
lẫn Thánh linh đều nhận biết cách trực tiếp, không phải bởi suy luận hay điều
tra. Vì vậy, cả hai đều nhận biết qua trực giác, không phải qua tâm trí.
Vì chỉ có Thánh Linh mới biết những điều của Đức Chúa Trời nên chúng ta
chỉ có thể biết những điều của Đức Chúa Trời khi chúng ta nhận được Thánh Linh.
Linh của thế giới là một linh không có bất cứ sự tương giao nào với Đức Chúa
Trời. Mặc dù đó vẫn là linh nhưng đó là linh chết. Do đó, nó không thể đem đến
cho chúng ta sự tương giao với Đức Chúa Trời.
Thánh linh của Đức Chúa Trời biết những điều của Đức Chúa Trời. Vì vậy,
khi chúng ta nhận được trong linh mình điều mà Thánh Linh đã nhận biết trong
trực giác, chúng ta cũng biết những điều của Đức Chúa Trời. Đây là lý do tại
sao lời nói: “Chúng ta đã nhận được… Linh từ Đức Chúa Trời, hầu cho chúng ta có
thể biết những điều mà Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta”.
Nhưng chúng ta biết bằng cách nào? Câu 11 nói rằng chúng ta biết qua
linh mình. Điều này khiến vấn đề trở nên sáng tỏ hơn. Thánh Linh khải thị cho
Linh chúng ta mọi điều Ngài nhận biết trong trực giác của Ngài, khiến trực giác
của linh chúng ta cũng nhận biết điều Ngài đã biết. Qua trực giác, chúng ta
biết những điều được Thánh Linh khải thị. Hơn nữa, mỗi khi Thánh Linh khải thị
những điều của Đức Chúa Trời, Ngài khải thị trong linh chúng ta. Trong mắt Đức Chúa
Trời, ngoài nhân linh không có một cơ quan nào khác trong con người có thể biết
được những điều của con người. Do đó, Thánh linh không khải thị những điều của
Đức Chúa Trời cho tâm trí chúng ta vì Ngài biết rằng tâm trí chúng ta không thể
biết những điều của Đức Chúa Trời. Tâm trí không phải là cơ quan để nhận biết
những điều liên quan đến Đức Chúa Trời và con người. Mặc dù tâm trí có thể suy
nghĩ và thậm chí trù tính nhiều điều nhưng không thể nói rằng tâm trí biết
những điều nay vì chỉ có nhân linh mới có thể biết được những điều của con
người.
Ở đây chúng ta nhìn thấy Đức Chúa Trời đánh giá cao nhân linh được tái
sinh. Nếu một người không được tái sanh thì linh người ấy vẫn chết; do đó Đức
Chúa Trời không có cách nào khải thị cho người ấy những điều liên quan đến Đức
Chúa Trời. Mặc dù người ấy có thể rất thông minh, nhưng vẫn không thể lĩnh hội
được những điều của Đức Chúa Trời. Sự tương giao của Đức Chúa Trời với con
người và sự thờ phượng của con người đối với Đức Chúa Trời đòi hỏi linh như lập
trường liên kết duy nhất. Nếu không có linh được tái sanh, sẽ luôn luôn có sự
phân rẽ giữa Đức Chúa Trời và con người; Ngài không thể qua bên phía chúng ta
và chúng ta cũng không thể qua bên phía Ngài, vì trực giác của con người, tách
biệt với tâm trí và tình cảm, vẫn chết chóc và không thể nhận biết ý định của
Thánh Linh. Cho nên, con người không thể nhận biết sự khải thị của Thánh Linh.
Sự soi sáng của linh là bước đầu tiên cho sự tương giao giữa Đức Chúa Trời và
con người.
Con người có ý muốn tự do. Con người hoàn toàn có quyền quyết định
những điều của mình. Vì vậy, ngay cả sau khi một tội nhân đã được tái sanh và
trở nên một tín đồ, người ấy vẫn có nhiều sự cám dỗ. Do thiếu hiểu biết hoặc
định kiến, nhiều tín đồ không nhường chỗ đúng đắn cho linh mình hoặc cho trực
giác của linh. Đức Chúa Trời xem linh là chỗ duy nhất để Ngài có thể tương giao
với con người và là vị trí duy nhất để con người có thể thờ phượng Ngài và
thông công với Ngài. Tuy nhiên, nhiều tín đồ chỉ bước đi theo tâm trí hoặc tình
cảm của mình. Nhiều lần, họ gần như phớt lờ tiếng nói của trực giác. Nguyên tắc
cư xử của họ là làm theo điều mà họ cho là hợp lý, hấp dẫn, đẹp lòng và thú vị.
Ngay cả khi họ có lòng thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời, thì chính yếu họ vẫn
nhận lấy các ý tưởng tức thì của lòng mình hoặc một số ý kiến hợp lý, cho đó là
ý muốn của Đức Chúa Trời và bước theo đó. Họ không nhận thức rằng họ phải bước
theo ý niệm mà trực giác biểu hiện qua linh, chứ không phải theo tư tưởng riêng
của mình. Ngay cả khi sẵn lòng lắng nghe trực giác của mình, họ vẫn không duy
trì tình cảm của mình ở vị trí điềm tĩnh, họ dao động lên xuống theo tình cảm
của mình và nhầm lẫn tiếng nói của trực giác. Vì vậy mà việc bước đi theo linh
trở nên một sự kiện đặc biệt trong nếp sống của các tín đồ chứ không phải là
kinh nghiệm lâu dài, hằng ngày và trọn đời họ.
Vì đây là tình trạng của chúng ta ngay trong bước khởi đầu nhận biết ý
muốn của Đức Chúa Trời nên chẳng có gì lạ khi chúng ta không có bất cứ sự khải
thị sâu hơn nào. Trong tình trạng này, chúng ta sẽ không bao giờ ở trong linh
là điều khiến chúng ta có thể nhận biết kế hoạch của Đức Chúa Trời cho thời đại
sau cùng này, thực tại của chiến trận thuộc linh hoặc các lẽ thật sâu xa và sâu
nhiệm trong Kinh Thánh. Hơn nữa, trong vấn đề thờ phượng Đức Chúa Trời, chúng
ta sẽ bước theo điều chúng ta cho là đúng hoặc chúng ta sẽ bước theo các sự bộc
phát nhất thời của tình cảm. Trong các hoàn cảnh này, sự tương giao với Chúa
trong trực giác sẽ không tồn tại.
Một tín đồ phải biết rằng chỉ có Thánh Linh mới nhận biết những điều
của Đức Chúa Trời và Ngài biết được những điều của Đức Chúa Trời qua trực giác
chứ không phải qua tâm trí. Vì vậy, chỉ có Ngài mới có thể truyền đạt tri thức
này cho con người. Tuy nhiên, một người muốn nhận được tri thức này cũng phải
tiếp nhận theo cùng một cách, nghĩa là người ấy cũng phải sử dụng trực giác của
mình để nhận biết điều Thánh Linh nhận biết qua trực giác của Ngài. Mối liên
hiệp của hai trực giác này sẽ dẫn đến việc con người nhận biết những điều của
Đức Chúa Trời.
Câu 13 nói: “Chúng tôi cũng nói đến những điều đó, chẳng phải bằng các
lời do sự khôn ngoan loài người đã dạy mà bằng các lời do Linh đã dạy, giải
thích những điều thuộc linh bằng các lời thuộc linh”. Bây giờ chúng ta đến với
cách phát ngôn cho người khác những điều chúng ta biết bởi trực giác trong linh
mình. Những điều liên quan đến Đức Chúa Trời đã được nhận biết trong linh chúng
ta. Trách nhiệm của chúng ta là rao giảng những điều này. Vị sứ đồ nói rằng ông
không dùng “các lời do sự khôn ngoan loài người đã dạy” để phát ngôn về những
điều ông đã nhận biết trong linh mình. Sự khôn ngoan loài người thuộc về tâm
trí con người; đó là sản phẩm của trí não con người. Vị sứ đồ nói rằng ông sẽ
không dùng các lời gợi lên trong tâm trí để phát ngôn về những điều của Đức
Chúa Trời mà ông đã nhận biết trong linh mình. Sự khôn ngoan của sứ đồ Paul rất
lớn. Ông hoàn toàn có thể đưa ra nhiều cách diễn đạt mới lạ. Ông biết phải phát
ngôn thế nào, dùng minh họa gì và lập bố cục cho bài giảng ra sao. Ông có thể
dùng tài hùng biện thiên nhiên của mình rất tốt để khiến những người nghe ông
hoàn toàn hiểu được điều ông muốn nói. Tuy nhiên, ông nói rằng ông sẽ không
dùng các lời do sự khôn ngoan loài người đã dạy. Điều này nghĩa là tâm trí con
người không chỉ vô dụng trong việc nhận biết những điều của Đức Chúa Trời mà nó
còn vô dụng trong việc phát ngôn về sự khôn ngoan thuộc linh.
Ông phát ngôn bằng các lời “do linh đã dạy”. Điều này chỉ về sự chỉ dẫn
của Thánh Linh, là điều ông nhận được trong trực giác của mình. Trong nếp sống
Cơ Đốc không một điều nào có giá trị ngoại trừ việc ở trong linh. Ngay cả khi
phát ngôn về tri thức thuộc linh, chúng ta cũng phải dùng các lời phát biểu
thuộc linh. Trực giác không chỉ nhận biết những điều được Thánh Linh khải thị
cho chúng ta mà còn biết các lời Thánh Linh chỉ dẫn chúng ta dùng để thốt ra
điều Ngài đã khải thị. Nhiều lần, một tín đồ nhận được sự khải thị của Đức Chúa
Trời, trở nên sáng tỏ về một vấn đề nào đó, và muốn rao giảng cho người khác.
Đối với người ấy, vấn đề này rất sáng tỏ, và người ấy hiểu được điều đó. Tuy nhiên,
sự rao giảng của người ấy có thể không truyền đạt được tư tưởng của người ấy
cách đầy đủ vì người ấy không nhận được các lời trong linh mình. Đôi lúc đang
khi một tín đồ chờ đợi trước mặt Chúa, một điều gì đó dường như dấy lên trong
bản thể sâu thẳm của người ấy. Đó có thể chỉ là một vài lời nhưng các lời này
khi được phát ngôn ra trong buổi nhóm sẽ truyền đạt sự khải thị của Đức Chúa
Trời cách đầy đủ. Qua kinh nghiệm này, người ấy nhận thức rằng Đức Chúa Trời
thật sự dùng người ấy để làm chứng cho Ngài.
Các kinh nghiệm này cho chúng ta thấy tầm quan trọng của việc tiếp nhận
“lời phát biểu” từ Thánh Linh. Có hai loại phát biểu. Một là lời phát biểu
thiên nhiên của chúng ta và hai là lời phát biểu được Thánh Linh ban cho linh
chúng ta. Không thể thiếu lời phát biểu được đề cập đến trong Công vụ 2:4 trong
các công tác thuộc linh. Bất kể tài hùng biện thiên nhiên của chúng ta tốt đến
đâu cũng không thể phát ngôn ra các điều của Đức Chúa Trời. Ngay cả khi chúng
ta cảm thấy mình đã diễn đạt rất tốt, chúng ta có thể vẫn không truyền đạt được
ý định của Thánh Linh. Chỉ có các lời thuộc linh – các lời mà chúng ta nhận
được trong linh – mới có thể thuật lại tri thức thuộc linh. Đôi khi chúng ta có
sứ điệp của Chúa trong linh mình; dường như điều đó thúc ép và đốt nóng chúng
ta và chúng ta cảm thấy có một gánh nặng thuộc linh đè nặng trên mình; nhưng
chúng ta không có cách nào bốc dỡ được gánh nặng đó. Nhiều lúc chúng ta phải
chờ Thánh Linh ban cho chúng ta “lời phát biều” để chúng ta có thể phát ngôn ra
sứ điệp trong linh mình và bốc dỡ gánh nặng. Nếu chúng ta không nhận được lời
phát biểu từ Thánh Linh qua trực giác của mình, nhưng thay vào đó lại thay thế
bằng các lời của sự khôn ngoan loài người thì mọi giá trị thuộc linh sẽ bị đánh
mất. Mọi lời này chỉ khiến dân chúng cảm thấy rằng ý tưởng của chúng ta rất
tốt. Đôi khi chúng ta có nhiều kinh nghiệm thuộc linh nhưng không biết cách
diễn đạt. Tuy nhiên, một lời nhận xét ngắn của một tín đồ khác thường sẽ làm
tan các áng mây mù của chúng ta, khiến chúng ta có thể biết được ý nghĩa của
các kinh nghiệm vốn bị giấu kín đối với chúng ta, vì Chúa chưa chỉ dẫn chúng ta
trong linh bằng một lời rõ ràng. Nhưng một người nào đó có thể mở các kinh
nghiệm của chúng ta ra chỉ bằng các lời hết sức đơn giản.
“Những điều thuộc linh” phải được giải thích bằng “các lời thuộc linh”.
Chúng ta phải dùng các phương tiện thuộc linh để đạt được mục đích thuộc linh.
Đây là điều Chúa chuyên cần dạy dỗ chúng ta trong những ngày này. Có mục đích
thuộc linh thôi chưa đủ; các phương tiện và thủ tục cũng phải thuộc linh. Bất
cứ điều gì thuộc xác thịt, bất kể đó là gì, cũng không thể hoàn thành điều
thuộc linh. Nếu chúng ta cố gắng sử dụng tâm trí và tình cảm của mình để hoàn
thành mục đích thuộc linh thì điều đó giống như hy vọng một dòng suối đắng chảy
ra nước ngọt vậy. Mọi sự liên hệ đến sự tương giao của chúng ta với Đức Chúa
Trời, dù là tìm kiếm ý muốn Ngài, vâng phục lệnh truyền của Ngài hay rao giảng
sứ điệp của Ngài, đều chỉ hữu dụng khi chúng ta làm điều đó trong trực giác của
mình và trong sự tương giao với Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta sử dụng tâm trí,
tài năng và phương pháp riêng của mình thì điều đó sẽ là chết chóc trong con mắt
của Đức Chúa Trời.
Có một lưu ý nhỏ trong bản Kinh Thánh Liên Hiệp tiếng Hoa, đề nghị dịch
hai cụm từ cuối trong câu 13 là “truyền đạt những điều thuộc linh cho những
người thuộc linh”. Điều này rất có ý nghĩa và liên hệ đến câu sau. Chúng ta hãy
nghiên cứu điều này cùng với câu sau.
THUỘC HỒN VÀ
THUỘC LINH
Câu 14 nói: “nhưng một người thuộc hồn không nhận được những điều của
Linh Đức Chúa Trời, vì đối với người ấy, đó là sự ngu dại và người ấy không thể
biết được, vì phải được biện biệt cách thuộc linh”.
Người thuộc hồn là những người chưa được tái sanh và không có một linh
mới. Họ không có trực giác; điều họ có chỉ là tâm trí, tình cảm và ý muốn của
hồn. Họ có thể lý luận, xét đoán cách hợp lý, và biểu hiện điều họ thích, nhưng
họ không thể “nhận được những điều của Linh Đức Chúa Trời” vì họ không có linh
được tái sanh. Trong trực giác của con người, Đức Chúa Trời khải thị những điều
của Ngài cho con người. Mặc dù người thuộc hồn có thể suy nghĩ và quan sát
nhưng người ấy thiếu khả năng của trực giác. Kết quả là người ấy không thể nhận
được điều Đức Chúa Trời khải thị. Bất cứ điều gì con người có được từ nguyên
thủy đều vô dụng. Mặc dù con người có nhiều điều trong chính mình nhưng không
điều nào có thể thay thế công tác của trực giác. Không phải Đức Chúa Trời cố
tình trở nên đặc biệt. Ngài không chủ động tôn cao linh và trực giác là điều
Ngài đã ban cho con người qua sự tái sanh, vượt trên mọi điều con người sở hữu
từ nguyên thủy. Tuy nhiên, vì trong linh mình, con người đã chết đối với Đức
Chúa Trời nên Ngài không thể truyền đạt chính Ngài và những điều của Ngài cho
con người. Không có một cơ quan nào trong con người có thể nhận được những điều
của Đức Chúa Trời. Giữa vòng mọi điều tạo thành một người thuộc hồn, không một
điều nào có thể tương giao với Đức Chúa Trời. Thậm chí tâm trí, trí năng và sự
hợp lý là những điều được con người đánh giá cao, cũng hư hoại như các dục vọng
của con người; không điều nào trong số đó có thể hiểu biết Đức Chúa Trời. Không
chỉ những người chưa được tái sanh không thể tương giao với Đức Chúa Trời bằng
tâm trí mà ngay cả những tín đồ được tái sanh cũng không thể tương giao với Đức
Chúa Trời nếu không sử dụng linh được tái sanh của mình. Các tín đồ mà chỉ sử
dụng tâm trí và sự quan sát của mình cũng không thể hiểu những điều của Đức
Chúa Trời vì tiếp sau sự tái sanh các chức năng không có sự thay đổi. Tâm trí
vẫn là tâm trí và ý muốn vẫn là ý muốn; những điều này không thể trở nên các cơ
quan cho sự tương giao với Đức Chúa Trời.
Người thuộc hồn không chỉ không thể nhận được những điều này, họ còn
cho rằng đó là ngu dại. Điều này một lần nữa xoay chúng ta đến với tâm trí con
người. Theo tâm trí con người, những điều được nhận biết qua trực giác là ngu
dại vì chúng không thể được hợp lý hóa. Chúng vượt quá các cảm xúc loài người
và trái ngược với tâm lý thế giới. Chúng thậm chí trái với lẽ thường của con
người. Tâm trí chúng ta thích những điều hợp lý, có thể phân tích được và những
điều phù hợp với tâm lý thiên nhiên. Tuy nhiên, không một hành động nào của Đức
Chúa Trời là theo luật loài người. Vì vậy, những điều đó là ngu dại đối với con
người. Sự ngu dại được nói đến trong chương này chỉ về sự đóng đinh Chúa Jesus
trên thập tự giá. Sứ điệp về thập tự giá không chỉ nói về một Cứu Chúa đã chết
vì chúng ta mà còn về mọi tín đồ đã chết với Ngài. Mọi điều thuộc về bản ngã
của một tín đồ phải trải qua sự chết của thập tự giá. Nếu đây chỉ là một ý
tưởng thì tâm trí có thể tiếp nhận; nhưng nếu đây là một điều gì đó phải đem
vào trong sự thực hành thì tâm trí sẽ từ chối.
Vì người thuộc hồn không thể tiếp nhận nên người ấy cũng không thể
biết. Sự tiếp nhận đến trước rồi sau đó đến sự nhận biết. Việc một người có thể
tiếp nhận hay không được quyết định bởi việc người ấy có linh hay không. Việc
một người có nhận biết được hay không tùy thuộc vào việc người ấy có quen với
trực giác hay không. Trước hết người ấy phải có linh rồi mới có thể tiếp nhận
những điều của Đức Chúa Trời. Nếu người ấy có linh và nhận được những điều của
Đức Chúa Trời thì trực giác có cơ hội nhận biết những điều này của Đức Chúa
Trời. Ngoài nhân linh, không ai có thể biết được những điều của con người.
Người thuộc hồn không thể biết được vì người ấy không có một linh mới. Do đó,
người ấy không có trực giác để nhận biết.
Sau đó, vị sứ đồ nói rằng người thuộc hồn “không nhận được” vì những
điều của Đức Chúa Trời được “biện biệt cách thuộc linh”. Chúng ta có thấy rằng
Thánh Linh lặp lại bằng cách nhấn mạnh rằng nhân linh là cơ quan cho sự tương
giao với Đức Chúa Trời không? Sự tập trung của phần Kinh Thánh này là để chứng
minh, chứng tỏ và làm rõ rằng qua Linh của Đức Chúa Trời, nhân linh là nền tảng
cho sự tương giao với Đức Chúa Trời và cho sự nhận biết những điều của Đức Chúa
Trời. Không có gì khác ngoài nhân linh.
Mọi sự đều có chức năng riêng của nó. Chức năng của linh là biện biệt
những điều của Đức Chúa Trời. Chúng ta không loại bỏ tâm trí, tình cảm và ý
muốn của mình. Chúng đều có các chức năng riêng và đứng ở vị trí thứ yếu. Chúng
phải được giới hạn; chúng không được nắm quyền kiểm soát. Tâm trí phải ở dưới
sự giới hạn của linh; tâm trí phải hành động theo ý muốn của Đức Chúa Trời, là
điều được nhận biết qua trực giác. Tâm trí không được tự đề xuất ý tưởng và yêu
cầu toàn bản thể chúng ta phải hành động theo. Tình cảm cũng phải vâng phục
lệnh truyền của linh. Mọi sự yêu ghét của tình cảm phải theo điều linh muốn chứ
không theo điều tình cảm muốn. Tâm trí cũng phải bước theo ý muốn của Đức Chúa
Trời khi được biểu hiện trong trực giác. Ý muốn không được phớt lờ ý muốn của
Đức Chúa Trời và có các niềm ao ước riêng. Nếu tâm trí, tình cảm và ý muốn đều
được giữ trong vị trí thứ yếu thì một tín đồ sẽ tiến bộ nhanh trong tiến trình
thuộc linh của mình. Nếu điều này không xảy ra, thì tâm trí, tình cảm và ý muốn
trở nên ông chủ và vị trí của linh sẽ bị chiếm đoạt. Tự phát sẽ không có cách sống
và sự hữu dụng thuộc linh. Nhân linh phải được dâng cho vị trí đúng đắn của
mình. Một tín đồ phải chờ đợi sự khải thị của Đức Chúa Trời trong linh. Nếu
linh không được đề cao, con người sẽ không thể biện biệt những điều chỉ có thể
biện biệt được đối với Linh. Câu trước chỉ về việc truyền đạt những điều thuộc
linh cho người thuộc linh vì chỉ những người có linh nhạy bén mới có thể nhận
biết những điều trong linh.
Câu 15 nói: “Con người thuộc linh biện biệt mọi sự, nhưng chính người
ấy thì không ai biện biệt được”. Người thuộc linh nhận lấy linh làm trung tâm
và trực giác của người ấy rất nhạy bén. Tâm trí, tình cảm và ý muốn của hồn
người ấy không quấy rầy sự yên tĩnh trong linh. Linh người ấy có thể thực hiện
trách nhiệm của mình.
“Người thuộc linh biện biệt mọi sự” vì trực giác chỉ có được tri thức
qua Thánh Linh. “Chính người ấy thì không ai biện biệt được” vì người khác
không biết cách Thánh Linh chạm đến trực giác của mình và các cảm thức trong
trực giác của mình là gì. Nếu một tín đồ chỉ có thể có được tri thức qua trí
năng của mình, thì chỉ những người thông minh mới biện biệt được mọi sự. Nếu là
như vậy, thì sự uyên bác và học vấn thế tục sẽ trở nên không thể thiếu được.
Những người này cũng được người khác biện biệt vì ai bằng họ hoặc thông minh
hơn họ sẽ hiểu được các ý tưởng của họ. Tuy nhiên, tri thức thuộc linh có trực
giác của linh là nền tảng. Nếu một người là thuộc linh và có trực giác nhạy
bén, thì tri thức của người ấy sẽ là vô hạn. Cho dù tâm trí người ấy có thể
chậm chạp, Thánh Linh vẫn có thể đem người ấy vào trong thực tại thuộc linh.
Linh người ấy vẫn có thể soi sáng tâm trí. Sự khải thị bởi Thánh Linh thường
vượt quá sự mong đợi của con người.
Câu 16 nói: “Vì ai đã biết tâm trí của Chúa và sẽ chỉ dẫn Ngài? Nhưng
chúng ta có tâm trí của Đấng Christ”. Vấn đề là đây. Không ai trong thế giới
biết tâm trí của Chúa để chỉ dẫn Ngài, vì mọi người đều thuộc hồn. Cách duy nhất
để nhận biết Đức Chúa Trời là qua trực giác. Vậy thì chúng ta có thể tìm đâu ra
một người nhận biết tâm trí của Đức Chúa Trời mà không có linh? Câu này xác
định phần cuối trong câu Kinh Thánh trước. Một người thuộc linh “thì ai biện
biệt được” vì không ai biết tâm trí của Chúa. “Không ai” chỉ về người thuộc
hồn. Người thuộc linh biết tâm trí của Chúa vì người ấy có trực giác nhạy bén.
Người thuộc hồn không thể nhận biết vì người ấy không có trực giác. Do đó người
ấy không thể tương giao với Đức Chúa Trời. Vì người thuộc hồn không thể biết
tâm trí của Chúa nên người ấy không thể nhận biết người thuộc linh, là người
hoàn toàn thuận phục tâm trí của Chúa. Đây là ý nghĩa của câu này.
“Nhưng chúng ta”, nghĩa là chúng ta khác với người thuộc hồn. “Chúng
ta” này bao gồm mọi tín đồ được cứu, mặc dù có nhiều người thuộc xác thịt.
“Nhưng chúng ta có tâm trí Đấng Christ”. Những người được tái sanh, dù là trẻ
con hay người lớn, đều có tâm trí của Đấng Christ. Tất cả chúng ta đều biết ý
định của Đấng Christ vì tất cả chúng ta đều có trực giác được phục sinh. Đây là
lý do tại sao chúng ta có thể nhận biết và đã nhận biết điều Đấng Christ dự bị
cho chúng ta trong tương lai (c. 9). Người thuộc hồn không biết, nhưng những
người đã được tái sanh có thể biết. Sự khác biệt là một người có linh hay không
(Jude 19).
(Người Thuộc Linh)