Một lương tâm không vấp phạm trước mặt Đức Chúa Trời lam chứng rằng Đức
Chúa Trời đẹp lòng với tín đồ và không có sự ngăn cách nào giữa Đức Chúa Trời
và tín đồ. Một lời chứng như vậy của lương tâm là điều không thể thiếu cho một
nếp sống bước đi theo linh. Đây phải là mục đích của tín đồ; tín đồ không được
bằng lòng khi chưa đạt đến điều này. Đây là nếp sống bình thường của một tín
đồ; sứ đồ Paul đã sống một nếp sống như vậy và các tín đồ ngày nay càng phải
sống một nếp sống như vậy. Enoch là người có một lương tâm không bị ô uế; vì
vậy, ông biết rằng ông biết rằng ông làm đẹp lòng Đức Chúa Trời. Lời chứng về
việc Đức Chúa Trời đẹp lòng với chúng ta có thể giúp chúng ta tiến bộ. Nhưng
chúng ta phải thận trọng; nếu không, chúng ta sẽ tôn cao “bản ngã”, cho rằng
chính mình có thể làm đẹp lòng Đức Chúa Trời. Mọi vinh hiển đều thuộc về Ngài.
Chúng ta phải “tự khích lệ mình” để giữ cho lương tâm của mình không vấp phạm.
Nếu lương tâm chúng ta thật sự không vấp phạm, chúng ta phải canh giữ, không
cho xác thịt bước vào cách quỷ quyệt.
Nếu lương tâm chúng ta thường xuyên làm chứng về sự đẹp lòng Đức Chúa
Trời, thì nếu chẳng may thất bại, chúng ta sẽ càng dạn dĩ tin cậy huyết của
Chúa Jesus một lần nữa tẩy sạch chúng ta. Nếu ao ước có một lương tâm không vấp
ngã, thì không một giây phút nào chúng ta được lìa khỏi huyết tẩy sạch chúng ta
đời đời. Chúng ta không được lìa khỏi vì dù không trượt ngã trong những vấn đề
lớn, nhưng chúng ta thường nhường cơ hội cho các sự vấp phạm trong lương tâm
trong những vấn đề nhỏ. Vì vậy, việc xưng nhận tội lỗi và tin cậy huyết quý báu
là không thể tránh khỏi. Vì bản chất tội và nhiều công tác kín giấu của nó vẫn
còn bên trong chúng ta nên phải đợi đến khi sự sống thuộc linh tăng trưởng hơn
chúng ta mới có thể nhận biết chúng. Đây là lý do tại sao có nhiều điều bây giờ
chúng ta mới cho là sai thật, còn trước kia thì chúng ta cảm thấy không sai.
Nếu không có huyết quý báu che phủ mọi sự, chúng ta sẽ không bao giờ bình an.
Một khi huyết quý báu được rảy trên lương tâm chúng ta, huyết sẽ liên tục tác
nhiệm ở đó bởi sự cầu thay của Chúa Jesus và sự sống đời đời Ngài đã ban cho
chúng ta.
Vị sứ đồ bảo chúng ta rằng ông đã nài xin để có một lương tâm không vấp
phạm trước mặt Đức Chúa Trời và con người. Hai vấn đề này, đối với Đức Chúa
Trời và đối với con người, có liên hệ mật thiết với nhau. Nếu ao ước có một lương
tâm không vấp phạm đối với con người, trước hết chúng ta phải có một lương tâm
không vấp phạm đối với Đức Chúa Trời, vì lương tâm có sự vấp phạm trước mặt Đức
Chúa Trời tự nhiên có sự vấp phạm trước mặt con người. Vì vậy, mọi tín đồ theo
đuổi cách sống thuộc linh phải liên tục theo một lương tâm tốt trước mặt Đức
Chúa Trời (1 Pet. 3:21). Điều này không có nghĩa là tình trạng của chúng ta
trước mặt con người không quan trọng. Chúng ta không chỉ theo đuổi một lương
tâm tốt trước mặt Đức Chúa Trời mà còn phải theo đuổi một lương tâm tốt đối với
con người. Nhiều điều có thể được chấp nhận trước mặt Đức Chúa Trời nhưng lại
không đúng đắn trước mặt con người. Chỉ có một lương tâm trong sáng trước mặt
con người mới có lời chứng tốt trước mặt họ. Cho dù người ta hiểu lầm, anh em
phải “có một lương tâm tốt, hầu cho trong vấn đề mà anh em bị nói nghịch, những
kẻ lăng mạ cách sống tốt đẹp của anh em trong Đấng Christ có thể bị làm cho hổ
thẹn” (c. 16). Một khi lương tâm không minh bạch, bất kể cách cư xử bên ngoài
của anh em tốt đến đâu thì cũng vô dụng; một khi lương tâm chúng ta không có sự
vấp phạm thì sự vu cáo của con người không thể gây ảnh hưởng gì.
Một lương tâm không có sự vấp phạm không chỉ có thể làm chứng cho chúng
ta trước mặt con người mà còn khiến chúng ta có thể nhận các lời hứa của Đức
Chúa Trời. Các tín đồ ngày nay thường phàn nàn rằng đức tin của họ quá nhỏ bé
và vì vậy họ không thể có một cách sống thuộc linh trọn vẹn. Tất nhiên, có thể
có nhiều nguyên nhân, nhưng chẳng phải sự vấp phạm trong lương tâm chính là một
trong những nguyên nhân quan trọng nhất sao? Một lương tâm không vấp phạm và
một đức tin mạnh mẽ là hai điều không thể phân rẻ. Lúc lương tâm có sự vấp
phạm, đức tin lập tức bị suy yếu. Chúng ta hãy xem thể nào Kinh Thánh liên kết
hai vấn đề này với nhau: “Tình yêu ra từ một tấm lòng thuần khiết, một lương
tâm tốt và một đức tin không giả dối” (1 Tim. 1:5), và “giữ đức tin và một
lương tâm tốt” (c. 19). Lương tâm là quan năng của đức tin. Đức Chúa Trời ghét
tội lỗi nhất. Vinh hiển cao nhất của Đức Chúa Trời là sự thánh khiết vô hạn của
Ngài. Sự thánh khiến của Ngài không thể dung chịu tội lỗi một giây phút nào.
Nếu một tín đồ không bước theo sự hướng dẫn của lương tâm mình nhưng thích
những điều không theo ý muốn của Đức Chúa Trời, người ấy sẽ lập tức đánh mất sự
tương giao với Đức Chúa Trời. Có thể nói rằng mọi lời hứa thuộc linh trong Kinh
Thánh mà Đức Chúa Trời ban cho các tín đồ đều có điều kiện. Không một lời hứa
nào được ban cho các tín đồ để làm thỏa mãn các ý định của các xác thịt. Nếu
tội và xác thịt không được cất đi thì Thánh Linh cầu nguyện sẽ không được ban
cho tín đồ. Nếu lương tâm chúng ta đã kiện cáo chúng ta rồi, làm thế nào chúng
ta có thể dạn dĩ đến gần Đức Chúa Trời để tìm kiếm các lời hứa của Ngài? Nếu
lương tâm chúng ta không thể làm chứng rằng chúng ta sống trên đất không thể
làm chứng rằng chúng ta sống trên đất theo sự thánh khiết và công nghĩa của Đức
Chúa Trời, làm sao chúng ta có thể là những người cầu nguyện tìm kiếm các ân tứ
miễn phí vô hạn của Đức Chúa Trời? Nếu lương tâm chúng ta quở trách chúng ta
vào lúc chúng ta giơ tay mình lên với Đức Chúa Trời, thì lời cầu nguyện của
chúng ta có ích gì? Tội lỗi của chúng ta phải bị từ chối và được tẩy sạch trước
khi chúng ta có thể có đức tin cầu nguyện.
Lương tâm phải không có sự vấp phạm. Điều này không có nghĩa là lương
tâm phải trở nên tốt hơn trước hoặc nhiều điều ác được cất đi. Không có sự vấp
phạm, không có sự vấp phạm và hoàn toàn không sợ hãi trước mặt Đức Chúa Trời là
các tình trạng cần thiết của lương tâm. Nếu chúng ta sẵn lòng thuận phục lương
tâm và để cho lương tâm quở trách mình và nếu chúng ta hoàn toàn dâng mình cho
Chúa và sẵn lòng làm mọi sự theo ý Ngài, sự dạn dĩ của chúng ta chắc chắn sẽ
gia tăng, biết rằng có thể có được một lương tâm thuần khiết. Khi đó chúng ta
có thể nói với Đức Chúa Trời rằng chúng ta không cầm giữ bất cứ điều gì, không
có điều gì không mở ra với Ngài, không có điều gì giấu kín, và không có sự ngăn
cách nào giữa chúng ta và Ngài. Trong việc sống theo linh, một tín đồ không
được để cho lương tâm mình trở nên không trong sáng trong bất kỳ vấn đề nhỏ
nhặt nào. Mọi điều bị lương tâm kết án phải được từ chối ngay lập tức và chúng
ta phải lập tức xưng nhận. Tín đồ phải theo đuổi sự tẩy sạch của huyết ngay lập
tức và không cho phép bất cứ dấu vết nào của vấn đề này còn lại. Mỗi ngày,
người ấy phải theo đuổi một lương tâm luôn luôn trong sáng, vì lương tâm mà
không trong sáng, dù chỉ trong một thời gian ngắn thôi, cũng khiến linh chịu
nhiều tổn thất. Gương mẫu của vị sứ đồ là “luôn luôn có một lương tâm không vấp
phạm”. Theo cách này, chúng ta sẽ thấy sự tương giao của chúng ta với Đức Chúa
Trời thật sự không bị phá vỡ.
LƯƠNG TÂM VÀ
TRI THỨC
Trong việc bước đi theo linh và lắng nghe tiếng nói của lương tâm,
chúng ta cũng phải nhớ rằng lương tâm bị giới hạn bởi tri thức của nó. Lương
tâm chúng ta là cơ quan biện biệt tốt xấu. Biện biệt nghĩa là có tri thức. Tri
thức phân biệt tốt xấu thì không giống nhau giữa vòng nhiều Cơ Đốc nhân. Một số
có nhiều tri thức hơn và một số có ít tri thức hơn, vì hoàn cảnh cá nhân không
giống nhau và có lẽ các bài học được học cũng không tương tự nhau. Vì vậy,
chúng ta không thể hành động theo tiêu chuẩn của một ai đó và chúng ta cũng
không thể mong đợi người khác sống theo ánh sáng mà chúng ta có. Trong sự tương
giao giữa tín đồ và Đức Chúa Trời, một tội lỗi chưa được biết đến sẽ không cản
trở sự tương giao. Nếu tín đồ bước đi theo tiêu chuẩn mà người ấy đã biết: gìn
giữ (vâng phục) mọi điều người ấy biết là theo ý muốn của Đức Chúa Trời và từ
chối mọi điều người ấy biết là bị Đức Chúa Trời kết án thì người ấy có thể có
sự tương giao trọn vẹn với Đức Chúa Trời. Một tín đồ trẻ luôn luôn nghĩ rằng
tri thức của người ấy không đủ và vì vậy, người ấy không thể làm đẹp lòng Đức
Chúa Trời. Về một mặt, tri thức thuộc linh có giá trị rất cao, nhưng mặt khác,
sự thiếu hụt tri thức không phải là sự ngăn trở trong sự tương giao với Đức
Chúa Trời. Trong sự tương giao của Đức Chúa Trời với con người, Ngài quan tâm
đến thái độ của chúng ta đối với ý muốn của Ngài, không quan tâm chúng ta biết
ý muốn của Ngài bao nhiêu. Nếu thái độ của chúng ta là tìm kiếm ý muốn của Ngài
cách thành thật và chân thật, thậm chí ao ước hết lòng gìn giữ điều đó, thì sự
hiện diện của những tội lỗi mà chúng ta không biết sẽ không khiến chúng ta đánh
mất sự tương giao hay có một sự tương giao giới hạn với Đức Chúa Trời. Nếu sự
tương giao được quyết định theo sự thánh khiết của Đức Chúa Trời, thì từ đó đến
nay không một ai trong những thánh đồ thánh khiết nhất đủ tiêu chuẩn để có một
sự tương giao trọn vẹn với Đức Chúa Trời thậm chí chỉ trong giây lát. Hơn nữa,
tất cả họ sẽ bị đuổi khỏi mặt Đức Chúa Trời và khỏi vinh hiển của đại năng
Ngài. Tội lỗi mà chúng ta không biết được che phủ dưới huyết quý báu.
Về một mặt, nếu đã biết nhưng dung dưỡng cho một tội nhỏ mà lương tâm
kết án, tự phát chúng ta sẽ không có sự tương giao đầy đủ với Đức Chúa Trời.
Giống như một hạt bụi nhỏ trong mắt có thể cản trở tầm nhìn và làm đau chúng
ta, thì một tội lỗi mà chúng ta biết, dù nhỏ đến đâu, cũng có thể ngăn chúng ta
nhìn thấy gương mặt tươi cười của Đức Chúa Trời. Một khi lương tâm có sự vấp
phạm, sự tương giao cũng chịu tổn thất. Một tội lỗi cụ thể có thể còn lại trong
tín đồ nhiều năm, nhưng hễ người ấy không biết gì về tội đó, thì nó vẫn không
ngăn trở sự tương giao của người ấy với Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, ngay giây
phút mà ánh sáng (tri thức) đến, lương tâm kết án. Khi đó, nếu tội đó còn lại
một ngày nào nữa thì sự tương giao của ngày đó sẽ bị đánh mất. Đức Chúa Trời
tương giao với chúng ta theo mức độ của lương tâm chúng ta. Nếu chúng ta nghĩ
rằng vì một tội lỗi cụ thể đả tồn tại nhiều năm mà không gây ngăn trở, nên nó
sẽ có thể tiếp tục tồn tại và không gây tổn hại gì thì chúng ta là những người
ngu dại nhất.
Lý do cho điều này là lương tâm chỉ có thể kết án theo ánh sáng mới
nhất mà nó nhận được. Nó không thể kết án bất cứ tội nào mà nó không biết đó là
tội lỗi . Vì có sự tiến bộ trong tri thức của tín đồ nên lương tâm cũng tiến
bộ; tín đồ càng có tri thức thì càng có nhiều tội lỗi bị lương tâm kết án. Tín
đồ không phải đau buồn về bất cứ điều gì người ấy không biết và người ấy cũng
không cần nỗ lực làm bất cứ điều gì. Chỉ cần người ấy tuyệt đối thuận phục điều
người ấy biết là đủ rồi. “Nhưng nếu chúng ta bước đi trong ánh sáng”, tức là
nếu chúng ta bước đi trong ánh sáng mà chúng ta đã có, “như Ngài ở trong ánh
sáng, thì chúng ta có sự tương giao với nhau và huyết của Jesus Con Ngài tẩy
sạch chúng ta khỏi mọi tội” (mặc dù còn nhiều tội chưa biết) (1 John 1:7). Đức
Chúa Trời có ánh sáng vô hạn và Đức Chúa Trời cũng bước đi theo ánh sáng vô hạn
của Ngài. Ánh sáng mà chúng ta nhận được rất giới hạn, tuy nhiên chúng ta cũng
phải bước đi theo ánh sáng này. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể có sự tương giao
với Đức Chúa Trời và chỉ khi đó huyết của Con Ngài mới tẩy sạch chúng ta khỏi
mọi tội lỗi của mình. Chúng ta vẫn có nhiều tội lỗi chưa được cất đi, nhưng nếu
chúng ta không biết đến chúng và ánh sáng chưa chiếu sáng thì chúng ta vẫn có
thể có sự tương giao đầy đủ với Đức Chúa Trời. Chúng ta phải nhớ rằng mặc dù
lương tâm rất trọng yếu nhưng lương tâm không phải là thước đo cho sự thánh
khiết của chúng ta vì cớ tri thức. Đấng Christ là tiêu chuẩn duy nhất cho sự
thánh khiết của chúng ta. Nhưng trong sự tương giao của chúng ta với Đức Chúa
Trời, Đức Chúa Trời dùng việc có một lương tâm không vấp phạm làm điều kiện cho
sự tương giao của Ngài với chúng ta. Vì vậy, sau khi chúng ta hoàn toàn thuận
phục sự hướng dẫn của lương tâm, chúng ta đừng bao giờ, dù chỉ trong giây phút,
nghĩ rằng mình đã “hoàn hảo” rồi. Một lương tâm tốt chỉ nói lên rằng theo những
gì chúng ta biết, chúng ta đã đạt đến những điều nên đạt đến hiện nay.
Do đó, khi tri thức Kinh Thánh chúng ta gia tăng và kinh nghiệm Thánh
Linh của chúng ta tăng trưởng, tiêu chuẩn cho cách cư xử của chúng ta cũng theo
đó gia tăng. Trong sự gia tăng ánh sáng từng chút một, cách cư xử của chúng ta
phải dần trở nên thánh khiết hơn vì lương tâm chúng ta được bảo tồn không có sự
vấp phạm. Một khi chúng ta có thêm một năm tri thức và kinh nghiệm, lương tâm
chúng ta sẽ kiện cáo chúng ta nếu cách cư xử của chúng ta vẫn y như năm trước. Trong
năm trước, Đức Chúa Trời không cắt đứt sự tương giao của Ngài với chúng ta, vì
chúng ta không biết các sự vi phạm của mình. Nhưng một khi chúng ta đã có tri
thức về các sự vi phạm đó thì sự tương giao với Đức Chúa Trời sẽ bị đánh mất
nếu chúng ta không từ bỏ những điều đó. Lương tâm mà Đức Chúa Trời ban cho các
tín đồ là tiêu chuẩn hiện tại cho sự thánh khiết của họ. Nếu tín đồ vi phạm
tiêu chuẩn, họ sẽ bị xem là đã phạm tội.
Chúa vẫn có nhiều điều để nói với chúng ta, nhưng vì sự thiếu trưởng
thành trong sự hiểu biết thuộc linh của chúng ta, Ngài vẫn phải chờ đợi. Đức
Chúa Trời xử lý con cái Ngài theo tình trạng cá nhân của họ. Một số người xem
một số vấn đề là hết sức độc ác và tội lỗi, nhưng những người khác có thể không
cảm thấy như vậy. Đây là do các sự khác biệt trong tri thức của lương tâm họ.
Vì vậy, chúng ta đừng chỉ trích nhau. Chỉ có Đức Chúa Trời Cha mới biết cách xử
lý con cái Ngài. Chắc chắn Ngài không đòi hỏi “các con bé nhỏ” của Ngài có sức
lực của “những chàng trai trẻ”, hoặc “những chàng trai trẻ” có các kinh nghiệm
của “những người cha”. Tuy nhiên, Ngài mong đợi tất cả con cái Ngài thuận phục
Ngài theo điều họ đã biết. Nếu chúng ta biết chắc – điều này không dễ - rằng
Đức Chúa Trời đã phát ngôn với lương tâm của anh em chúng ta về một vấn đề nào
đó, và người ấy không vâng phục, thì chúng ta có thể thúc giục người ấy. Nhưng
chúng ta đừng bao giờ ép buộc anh em mình bước theo cảm nhận của lương tâm
chúng ta. Nếu Đức Chúa Trời tuyệt đối thánh khiết không từ chối chúng ta vì các
việc làm sai trái mà trước đây chúng ta không biết thì làm sao chúng ta có thể
xét đoán anh em mình, vốn chỉ sở hữu tri thức mà chúng ta đã có năm ngoái, theo
mức độ hiện tại cũa chúng ta?
Thật ra, nếu là những người giúp đỡ, chúng ta không cần phải nhiều lần
thúc ép họ vâng phục mỗi điểm nhỏ. Chúng ta chỉ cần nài khuyên họ. Nếu họ đầu
phục Đức Chúa Trời thì mỗi khi Thánh Linh chiếu sáng họ trên bất cứ điều gì
được ký thuật rõ trong Kinh Thánh, họ sẽ vâng phục. Nếu ý muốn được bắt buộc,
thì bất cứ lúc nào lương tâm nhận được ánh sáng, tín đồ sẽ bước đi theo ý muốn
của Đức Chúa Trời. Chúng ta cũng vậy. Chúng ta không cần phải cố gắng sử dụng
sức lực của hồn để hiểu biết nhiều lẽ thật trong khi chưa đến thời điểm. Hễ
chúng ta sẵn lòng nghe sự phát ngôn hiện tại của Đức Chúa Trời là tốt rồi. Nếu
trong trực giác, Thánh Linh muốn dẫn dắt chúng ta nghiên cứu một số lẽ thật thì
chúng ta đừng do dự vâng theo; nếu không, chúng ta sẽ hạ thấp tiêu chuẩn về sự
thánh khiết của mình và trở nên tự mãn. Tóm lại, nếu chúng ta sẵn lòng chuyển
động theo linh mình thì sẽ không có nan đề gì.
SỰ YẾU ĐUỐI
CỦA LƯƠNG TÂM
Chúng ta đã nói rõ rằng Đấng Christ là tiêu chuẩn của sự thánh khiết
cho đời sống chúng ta. Mặc dù lương tâm là quan trọng nhưng nó không phải là
tiêu chuẩn. Đồng thời, mặc dù lương tâm không phải là tiêu chuẩn của sự thánh
khiết, nhưng nó là tiêu chuẩn làm chứng chúng ta có làm đẹp lòng Đức Chúa Trời
trong cách sống hằng ngày của mình không. Nói cách khác, lương tâm là tiêu
chuẩn cho mức độ thánh khiết hiện tại của chúng ta. Nếu có thể sống mỗi ngày
theo sự dẫn dắt của lương tâm thì chúng ta đã đạt đến mức độ mà hiện nay chúng
ta phải đạt đến. Nếu duy trì một lương tâm tốt, chúng ta sẽ không bị rớt lại
đằng sau trong hành trình thuộc linh của mình. Do đó, trên con đường bước đi theo
linh hằng ngày của chúng ta, lương tâm là nhân tố rất thiết yếu. Trong bất cứ
điều gì lương tâm chúng ta dẫn dắt, nếu không vâng phục, chúng ta sẽ bị quở
trách, đánh mất sự bình an, và tạm thời bị cắt đứt khỏi Đức Chúa Trời trong sự
tương giao của mình. Chắc chắn là chúng ta phải hoàn toàn bước đi theo linh qua
mọi sự dẫn dắt của lương tâm. Nhưng sự dẫn dắt của lương tâm có hoàn toàn
không? Đây vẫn còn là một nghi vấn.
Chúng ta biết rằng lương tâm được kiểm soát bởi tri thức. Lương tâm chỉ
có thể hướng dẫn người ta theo những gì nó biết. Khi đó, nếu con người không
vâng phục, lương tâm sẽ kết án. Lương tâm không kết án một điều gì đó mà nó
không biết. Vì vậy, nếu chúng ta so sánh tiêu chuẩn của lương tâm với tiêu
chuẩn sự thánh khiết của Đức Chúa Trời thì tiêu chuẩn của lương tâm thấp hơn
rất nhiều. Lương tâm có ít nhất hai sự thiếu hụt. Thứ nhất, như chúng ta đã nói
trước đây, đó là sự giới hạn trong tri thức của lương tâm; lương tâm chỉ có thể
kết án những việc làm sai trái mà nó biết. Cho nên, vì lương tâm chúng ta không
sở hữu một loại tri thức nào đó nên chúng ta để cho nhiều điều không theo ý
muốn của Đức Chúa Trời tồn tại trong đời sống chúng ta. Đức Chúa Trời và các
tín đồ trưởng thành hơn chúng ta đều biết rằng chúng ta có nhiều sự thiếu hụt.
Nhưng vì chúng ta chưa nhận được ánh sáng nên các sự thiếu hụt này vẫn còn. Đây
không phải là một khuyết điểm lớn sao? Tuy nhiên, điều này được cho phép vì Đức
Chúa Trời không kết án những gì chúng ta không biết. Mặc dù chúng ta có lỗi lầm
nhưng Đức Chúa Trời vẫn đẹp lòng và Ngài tương giao với chúng ta, vì chúng ta
đã hành động theo sự dẫn dắt của lương tâm.
Vẫn còn một khuyết điểm thứ hai có thể ngăn trở sự tương giao của tín
đồ với Đức Chúa Trời. Một lượng tri thức ít ỏi không chỉ dẫn dắt tín đồ kết án
một điều gì đó nên kết án, mà còn có thể dẫn dắt người ấy kết án một điều gì đó
không nên kết án. Vậy thì chúng ta phải nói gì? Lương tâm dẫn dắt sai sao?
Không, sự dẫn dắt của lương tâm không thể sai và phải được tín đồ vâng phục.
Nhưng dung lượng hay mức độ tri thức thì khác biệt. Do tín đồ thiếu tri thức
nên có nhiều điều người ấy sẽ được phép làm khi sở hữu nhiều tri thức hơn,
nhưng bây giờ thì không được phép vì thiếu tri thức. Nếu người ấy làm những
điều đó thì lương tâm sẽ kết án, và người ấy sẽ phạm tội, Đây là sự non trẻ của
tín đồ. Điều này nghĩa là nhiều điều hoàn toàn được phép đối với những người
cha vì họ có tri thức, kinh nghiệm và vị trí. Nhưng nếu con cái làm điều người
cha làm thì chắc chắn điều đó không được
phép do chúng thiếu tri thức, kinh nghiệm và vị trí. Không phải là có hai tiêu
chuẩn đúng sai, mà là tiêu chuẩn đúng sai theo vị trí của mỗi người không thể
không khác nhau. Điều này đúng trong những điều thuộc linh cũng như trong những
điều thuộc thể. Nhiều điều, khi được thực hiện bởi tín đồ trưởng thành, là hoàn
toàn theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, nếu một tín đồ trẻ bước theo và
làm cùng một điều thì đối với người ấy đó là tội lỗi.
Lý do cho điều này thì không gì khác hơn là các sự khác biệt trong mức
độ tri thức của lương tâm. Nếu theo lương tâm của một tín đồ, một điều gì đó
được cho phép và người ấy làm thì người ấy đang làm theo ý muốn của Đức Chúa
Trời. Nhưng nếu lương tâm của một tín đồ khác không cho phép điều đó thì người
ấy sẽ phạm tội nếu người ấy làm. Như chúng ta đã nói trước đây, điều này không
có ý nghĩa là ý muốn cao nhất của Đức Chúa Trời khác nhau, nhưng Đức Chúa Trời
dẫn dắt mỗi người theo vị trí của họ. Một người có tri thức thì sẽ có lương tâm
mạnh mẽ hơn; cho nên, người ấy có nhiều sự tự do hơn. Một người không có tri
thức thì yếu đuối hơn; cho nên, người ấy bị giới hạn hơn.
Vấn đề này được vị sứ đồ dạy dỗ cách sáng tỏ trong 1 Corinth. Vào lúc đó, các tín đồ tại Corinth có nhiều sự hiểu
lầm về vấn đề ăn của cúng thần tượng. Một số người nghĩ rằng các thần tượng
không là gì cả và có thể ăn thức ăn dù nó có được dâng cho các thần tượng hay
không, vì Đức Chúa Trời là duy nhất và không có thần nào khác (8:4). Những
người khác, trước khi là tín đồ, đã là những người thờ thần tượng. Vì vậy, khi
họ thấy rằng thức ăn họ đang ăn được dâng cho các thần tượng, họ không thể
không nhớ lại quá khứ. Cho nên, lương tâm họ không bình an. Khi ăn, họ bị ô uế
vì lương tâm họ yếu đuối (c. 7). Vị sứ đồ hiểu rằng sự khác biệt này là do sự
khác biệt về tri thức (c. 7). Người trước, vì có tri thức, nên không bị lương
tâm quở trách; vì vậy, sau khi ăn, họ không phạm lội. Người sau, do thiếu tri
thức, nên không bình an trong lương tâm; vì vậy, việc ăn của họ trở nên tội lỗi.
Từ điều này, chúng ta thấy rằng tri thức rất quan trọng. Đôi khi tri thức càng
nhiều càng có thể khiến lương tâm kết án nhiều hơn, nhưng cũng có thể khiến
lương tâm có ít sự kết án hơn.
Vì vậy, trong các vấn đề tương tự về hình bóng của những điều sắp đến,
chúng ta phải xin Chúa ban cho chúng ta thêm tri thức để chúng ta không bị cột
trói cách vô lý. Tuy nhiên, một tri thức như vậy phải được gìn giữ trong một tấm
lòng khiêm nhường; nếu không, chúng ta sẽ rơi vào trong xác thịt giống như các
tín đồ Corinth.
Nếu tri thức của chúng ta không thích đáng và lương tâm vẫn quờ trách, chúng ta
vẫn phải vâng phục tiếng nói của lương tâm bất kể chúng ta phải trả giá cao bao
nhiêu. Chúng ta đừng nghĩ rằng vì điều này không sai trật theo tiêu chuẩn cao
nhất nên chúng ta không cần quan tâm đến lương tâm và có thể làm điều đó. Chúng
ta phải nhớ rằng lương tâm là tiêu chuẩn hiện tại cho sự hướng dẫn của Đức Chúa
Trời. Chúng ta phải vâng phục; không vâng phục là tội lỗi. Điều gì lương tâm
chúng ta kết án chắc chắn Đức Chúa Trời cũng kết án.
Chúng ta đã nói về những điều bên ngoài như thức ăn. Về những điều
thuộc linh hơn, bất kể chúng ta sở hữu bao nhiêu tri thức, vẫn không thể có sự
khác biệt về sự tự do hay sự cột trói đối với chúng ta. Những điều được nói đến
ở đây liên quann đến những điều bên ngoài của xác thịt. Đức Chúa Trời đối xử
với con cái Ngài theo độ tuổi của họ. Đối với các tín đồ non trẻ, Đức Chúa Trời
rất quan tâm đến những vấn đề bên ngoài như ăn, mặc và…v….v.. Vì Đức Chúa Trời
muốn đặt các hành vi độc ác của thân thể họ vào chỗ chết. Nếu các tín đồ trẻ có
lòng bước theo Chúa, họ sẽ thấy rằng Chúa thường khiến họ chinh phục những điều
này qua lương tâm của linh. Những người có kinh nghiệm hơn trong Chúa, vì họ
biết cách thuận phục Chúa nên dường như có nhiều sự tự do trong lương tâm hơn.
Tuy nhiên, các tín đồ trưởng thành hơn có một hiểm họa lớn trong vấn đề
này; lương tâm họ có thể quá mạnh mẽ và có thể trở nên lạnh lẽo và cứng cõi.
Các tín đồ non trẻ hết lòng tìm kiếm Chúa sẽ thuận phục Chúa trong nhiều điều
vì lương tâm và trực giác của họ nhạy bén và họ dễ dàng được Thánh Linh chuyển
động. Các tín đồ trưởng thành hơn có thể trở nên lạnh lẽo và cứng cỏi trong
lương tâm mình vì quá nhiều tri thức khiến tâm trí họ quá phát triển; cho nên,
họ đánh mất sự nhạy bén trong trực giác. Họ làm mọi sự theo tri thức của tâm
trí, Thánh Linh dường như không thể chuyển động họ. Đây là một vết thương chí
tử đối với sự sống thuộc linh. Nó khiến cho sự sống của tín đồ mất đi tính tươi
mới; mọi sự đều cũ kỹ. Bất kể có bao tri thức, chúng ta cũng không được bước
theo tri thức nhưng phải bước theo trực giác của linh (lương tâm). Nếu chúng ta
không quan tâm đến sự kết án của lương tâm qua trực giác mà chỉ dùng tri thức
của mình làm tiêu chuẩn cho cách cư xử của chúng ta thì chúng ta sẽ bước đi
theo xác thịt. Nhiều lần, theo lẽ thật mà chúng ta biết, chúng ta được phép làm
một điều gì đó. Nhưng chẳng phải lương tâm chúng ta không yên nghỉ nếu chúng ta
cứ tiến tới và làm điều đó sao? Nếu lương tâm kết án một vấn đề nào đó, thì
điều đó vẫn không phù hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời, dù theo tri thức của
tâm trí, vấn đề đó là tốt lành. Chúng ta thường thu đoạt tri thức của tâm trí
và đó không phải là sự khải thị của trực giác. Vì vậy, sự dẫn dắt của lương tâm
có thể mâu thuẫn với tri thức.
Vị sứ đồ cho rằng nếu một tín đồ không quan tâm đến sự quở trách của
lương tâm yếu đuối nhưng thay vì vậy cứ bước đi theo tri thức của tâm trí, thì
sự sống thuộc linh của người ấy sẽ bị tổn hại nghiêm trọng. “Vì nếu ai thấy anh
em là người có tri thức ngồi dựa nơi bàn trong Chùa miễu thì lương tâm kẻ ấy,
nếu yếu đuối, chẳng phải sẽ cả gan mà ăn của cúng thần tượng sao? Nên kẻ yếu
đuối mà đang bị phá hủy bởi sự tri thức của anh em, là một anh em mà Đấng
Christ đã chết cho” (1 Cor 8:10-11). Điều này bàn đến các tín đồ có tri thức và
những người không có tri thức. Nếu một tín đồ không có tri thức nhìn thấy một
người có tri thức ăn của cúng thần tượng thì người ấy sẽ lập luận rằng nếu tín
đồ khác ăn được thì mình cũng ăn được. Người ấy sẽ không quan tâm đến tiếng nói
của lương tâm mình và sẽ ăn. Điều này khiến cho tín đồ đó sa ngã. Đây là ý
nghĩa của các câu này. Một tín đồ không có tri thức chỉ có thể dùng tâm trí để
hiểu biết tri thức mà anh em mình sở hữu. Nếu người ấy bước đi theo tri thức
này, bỏ lở lương tâm của mình, người ấy sẽ sa ngã. Nguyện chúng ta luôn luôn
nhớ rằng chúng ta không được bước đi theo tri thức mà chúng ta có, dù chỉ trong
thời gian ngắn. Tất cả các tín đồ, bất kể tri thức của họ, phải bước đi theo
trực giác và lương tâm của linh. Tri thức của họ có thể ảnh hưởng đến lương
tâm, nhưng họ phải trực tiếp bước theo một mình lương tâm mà thôi. Đối với cách
cư xử của các tín đồ, Đức Chúa Trời quan tâm đến sự thuận phục của họ đối với ý
muốn Ngài nhiều hơn là cách cư xử tốt của họ. Việc lắng nghe tiếng nói của
lương tâm bảo đảm rằng sự hiến dâng và vâng phục của chúng ta là thật. Qua
lương tâm, Đức Chúa Trời quan sát xem sự ưu tiên của chúng ta có phải là thuận
phục Ngài không, hay chúng ta có các động cơ khác.
Có một vấn đề khác mà một tín đồ phải chú ý đến. Người ấy phải cẩn thận
để không cho phép lương tâm mình bị bao vây. Nhiều lần, lương tâm chúng ta đánh
mất sự tác nhiệm bình thường vì bị bao vây. Lương tâm chúng ta trở nên lạnh lẽo
vì lương tâm của những người xung quanh, chúng ta lạnh lẽo và cứng cỏi vỉ các
lập luận, lời nói, sự dạy dỗ, khích lệ, gương mẫu và rào cản của họ tác động
đến chúng ta. Chúng ta phải đề phòng những người dạy dỗ có lương tâm lạnh lẽo
và cứng cỏi. Chúng ta phải canh chừng bất cứ lương tâm nhân tạo nào; lương tâm
mà người khác tạo ra cho chúng ta phải được từ chối. Lương tâm chúng ta phải
chịu trách nhiệm trực tiếp trước mặt Đức Chúa Trời trong mỗi một vấn đề. Chúng
ta phải biết ý muốn của Đức Chúa Trời và chúng ta phải chịu trách nhiệm gìn giữ
điều đó. Nếu không quan tâm đến lương tâm của chính mình và bước theo lương tâm
của người khác, chúng ta sẽ thất bại.
Nói tóm lại, lương tâm của tín đồ là một quan năng quan trọng của tâm linh.
Tín đồ phải hoàn toàn bước theo sự dẫn dắt của lương tâm. Mặc dù lương tâm bị
ảnh hưởng bởi tri thức nhưng mọi sự phát ngôn của lương tâm đều đại diện cho ý
muốn cao nhất của Đức Chúa Trời đối với chúng ta ngay lúc ấy. Chỉ cần đạt đến
đỉnh cao nhất mà chúng ta phải đạt đến ngày hôm nay là đủ rồi. Chúng ta không
cần lo về mọi
điều khác. Chúng ta phải luôn luôn giữ cho lương tâm của mình lành mạnh và
không để cho một tội lỗi nào làm tổn hại khả năng lĩnh hội của lương tâm. Một
khi chúng ta trở nên lạnh lẻo và cứng cỏi thì không điều gì có thể chuyển động
chúng ta. Khi đó, chúng ta phải biết rằng chúng ta đã sa ngã sâu vào trong xác
thịt. Mọi tri thức Kinh Thánh của chúng ta sẽ được giữ trong tâm trí của xác
thịt và không có quyền năng sống động. Chúng ta phải luôn luôn bước đi theo
trực giác của linh và được đổ đầy bằng Thánh Linh hầu cho khả năng lĩnh hội của
lương tâm ngày càng trở nên nhạy bén hơn. Khi đó, thậm chí mọi vấn đề nhỏ không
đúng đắn với Đức Chúa Trời cũng có thể bị phát hiện và được ăn năn. Đừng chỉ lao
tác trong tâm trí và quên đi trực giác của lương tâm. Sự tăng trưởng của tầm
vóc thuộc linh bảo đảm gia tăng sự nhạy bén của lương tâm. Vì vậy, nhiều người
không sở hữu bất kỳ sự sống động nào ngày nay là họ đã không quan tâm đến lương
tâm mình, nhưng chỉ giữ tri thức chết chóc trong tâm trí. Chúng ta phải thức
canh mỗi ngày và đừng rơi vào trong sự tự mãn. Đừng sợ việc mình dễ cảm động.
Nếu đó là sự cảm động của lương tâm thì chúng ta phải sợ rằng chúng ta quá ít
cảm động, chứ không phải quá nhiều. Lương tâm là chiếc phanh của Đức Chúa Trời.
Lương tâm cho chúng ta biết phần nào gặp rắc rối và phải được sửa chữa trước
khi tiến lên. Nếu sẵn lòng lắng nghe, chúng ta sẽ tránh được nhiều công tác
giật đổ về phía sau.
(Người Thuộc Linh)