Theo Linh
Trong nếp sống Cơ Đốc, không điều gì trọng
yếu hơn việc bước đi theo tâm linh hằng ngày. Điều này sẽ giữ cho tín đồ luôn
thuộc linh, thoát khỏi quyền năng của xác thịt, bước theo ý muốn của Đức Chúa
Trời và thoát khỏi sự tấn công của Satan. Một khi chúng ta đã biết chức năng
của linh thì điều cần yếu là phải bước theo ngay lập tức. Đây là vấn đề từng
giây phút và chúng ta không được lơi lỏng trong vấn đề này. Chúng ta cần cảnh
giác hơn đối với việc tiếp nhận các sự dạy dỗ về Thánh Linh nhưng không bước đi
theo sự dẫn dắt của Ngài. Nhiều tín đồ đã thất bại và đây chính là nguyên nhân
sự thất bại của họ. Chỉ nhận lấy sự dạy dỗ thôi thì không đủ; cần phải bước
theo sự dẫn dắt của Ngài nữa. chúng ta đừng bao giờ bằng lòng với tri thức thuộc
linh; chúng ta phải quý trọng vấn đề bước đi theo linh. Chúng ta thường nghe về
“con đường thập tự”. Con đường thập tự thật sự là gì? Đó không gì khác hơn là
bước đi theo linh. Đây là vì để bước đi theo linh, mọi ý muốn, tình yêu và tư
tưởng riêng đều phải đi đặt vào chỗ chết. Để bước theo trực giác và sự khải thị
của tâm linh đòi hỏi chúng ta phải vác thập tự giá hằng ngày
Có lẽ mọi tín đồ thuộc linh đều biết đôi chút
về các chức năng của linh như chúng ta đã đề cập trước đây, nhưng những gì họ
biết không kéo dài. Họ chỉ thỉnh thoảng có các kinh nghiệm thuộc linh vì họ vẫn
không hiểu biết cách sáng tỏ mọi chức năng và luật của linh. Vì vậy, họ không
biết cách bước theo linh cách lâu dài. Sau khi nghe lẽ thật này, kinh nghiệm
của họ có thể làm chứng rằng đây là sự thật. Tuy nhiên, đáng tiếc là họ không
thể kinh nghiệm điều này liên tục. Nếu trực giác của họ tăng trưởng đủ, họ có
thể luôn luôn bước đi theo linh và không bị ảnh hưởng bởi thế giới bên ngoài.
(Lưu ý: mọi sự bên ngoài linh đều là thế giới bên ngoài). Nhiều tín đồ, do
thiếu hiểu biết luật của linh, đã cho rằng nếp sống theo linh thì dao động,
không có tiêu chuẩn và khó thực hành. Nhiều tín đồ quyết tâm thực hiện ý muốn
của Đức Chúa Trời và bước theo sự hướng dẫn của Thánh Linh trong linh, nhưng họ
đánh mất sự dạn dĩ để ra trình diện vì họ không tin chắc là sự dẫn dắt của trực
giác đáng tin cậy. Đây là vì họ chưa học tập để hiểu được tâm trí của trực
giác. Họ không biết ý định của mọi cảm nhận của trực giác – bảo họ hành động
hay dừng lại. Họ không biết tình trạng đúng đắn của linh; vì vậy, họ không thể
tiếp nhận sự hướng dẫn liên tục từ linh. Do không duy trì linh trong tình trạng
đúng đắn nên họ thường khiến linh mất quyền năng công tác. Đôi khi, họ nhận
được sự khải thị từ trực giác nhưng họ không biết tại sao sự khải thị đó được
ban cho vào lúc này. Những lúc khác thì họ không hiểu tại sao lại không nhận
được sự khải thị dù đã chuyên cần tìm kiếm. Họ không biết nguyên nhân của sự thất
bại này.
Họ nhận được sự khải thị của linh vì đôi khi
họ vô tình bước đi theo luật của linh; vào những lúc khác, họ không thể có được
sự khải thị vì sự tìm kiếm của họ không theo luật của linh. Nếu họ có thể luôn
luôn bước theo luật của linh như họ đã từng bước theo cách vô tình, thì họ sẽ
luôn nhận được sự dẫn dắt của linh. Nhưng họ không biết điều này. Nếu chúng ta
muốn có được sự khải thị trong linh, nhận biết ý muốn của Đức Chúa Trời và làm
điều đẹp lòng Ngài thì chúng ta không thể thiếu hiểu biết về luật của linh. Mọi
cảm nhận của linh đều có ý nghĩa. Chúng ta phải học tập khám phá ra ý nghĩa của
chúng trước khi có thể hành động theo các yêu cầu của linh và liên tục bước
theo linh. Việc hiểu biết luật của linh là điều không thể thiếu đối với việc bước
đi theo linh.
Nhiều tín đồ xem sự vận hành không thường
xuyên của Thánh Linh trong linh mình là những kinh nghiệm kỳ diệu nhất trong
cuộc đời họ. Họ không mong có được các kinh nghiệm như vậy hằng ngày. Họ xem đó
là những sự kiện đặc biệt, chỉ có thể xảy ra một vài lần trong đời. Nếu bước đi
theo luật của linh, họ sẽ thấy cược đời mình trở nên siêu việt. Tuy nhiên, họ
xem các kinh nghiệm thuộc linh là khác
thường và không thể duy trì liên tục, không nhận thức rằng các kinh nghiệm
thuộc linh phải là kinh nghiệm hằng ngày bình thường của họ. Lìa khỏi vị tri
này và sống trong sự tối tăm mới thật sự là khác thường.
Đôi khi chúng ta dường như nhận được một ý
tưởng nào đó. Nếu biết cách biện biệt, chúng ta có thể biết được ý tưởng này ra
từ linh hay hồn mình. Một số ý tưởng đang sôi sục trong linh nhưng một số khác
chỉ là các sự lo lắng trong hồn. Các tín đồ phải học tập phân biệt chúng. Sau
khi kiểm tra, một tín đồ dễ dàng biện biệt điều thuộc linh và thuộc hồn. Vì
vậy, mọi lúc, tín đồ phải biết mỗi phần của bản thể mình đang tác nhiệm như thế
nào. Khi suy nghĩ, người ấy phải biết nguồn gốc ý tưởng của mình; khi cảm nhận,
người ấy phải biết nguồn gốc cảm nhận của mình; và khi công tác, người ấy phải
biết sử dụng năng lực nào. Cho nên, chúng ta có thể được giữ khỏi việc bước đi
theo cảm xúc và chúng ta có thể biết những điều đang xảy đến với chúng ta từ
linh hay từ hồn.
Chúng ta biết rằng hồn chúng ta là “sự tự ý
thức”. Do đó, đa phần các sự tự kiểm tra và tự ý thức của chúng ta đều hoàn
toàn ra từ hồn và rất có hại. Tại sao? Loại từ kiểm tra và tự ý thức này khiến
cho một tín đồ liên tục tự xem xét mình,
dẫn đến sự tăng trưởng của sự sống – bản ngã. Sự tự tôn thường ra từ sự tự ý
thức. Tuy nhiên, có một loại tự phân tích cung cấp tri thức không thể thiếu cho
hành trình thuộc linh, khiến một tín đồ thật sự biết mình đang ở đây và đang
bước đi như thế nào. Sự tự ý thức có hại bao gồm các ý tưởng kiêu ngạo hay chán
nản ra từ việc xem xét sự thành công hay thất bại của một người. Sự tự phân
tích có lợi liên quan đến các sự suy xét về nguồn gốc của tư tưởng, cảm nhận và
sở thích. Đức Chúa Trời ao ước chúng ta từ bỏ sự tự ý thức, nhưng Ngài không có
ý nói rằng chúng ta phải sống trong một thế giới không có đầu óc. Sự tự ý thức
quá mức phải bị kết thúc; nhưng đồng thời, qua Thánh Linh, chúng ta phải biết
chuyện gì đang diễn ra trong bản thể bên trong của mình. Vì vậy, việc cẩn thận
quan sát các hành động của bản ngã là cần thiết.
Nhiều tín đồ, dù đã được tái sanh, nhưng vẫn
cảm thấy rằng họ không có linh. Thật ra, không phải họ không có linh mà là họ
không cảm thấy mình có linh. Một người có thể có cảm thức của linh nhưng không
biết rằng các cảm nhận này ra từ linh. Đối với mỗi tín đồ được sinh lại đích
thực, sự sống thật để sống là sự sống của linh mình. Nếu sẵn lòng học tập,
người ấy nhìn thấy cảm thức của linh mình thật sự là gì. Một điều chắc chắn là
hồn có thể bị tác động bởi thế giới bên ngoài chứ không bởi linh. Thí dụ, sau
khi thấy một cảnh đẹp, thưởng thức thiên nhiên thanh bình, nghe một bản nhạc du
dương hoặc chạm đến những vật xung quanh bên ngoài, hồn có thể lập tức cảm
động, dẫn đến một loại cảm xúc. Tuy nhiên, linh thì không như vậy. Nếu linh của
một tín đồ được đổ đầy bằng quyền năng của Thánh Linh, thì linh sẽ độc lập với
hồn. Không giống như hồn, vốn lệ thuộc vào các tác động bên ngoài cho các hoạt
động của nó, linh có thể tự chuyển động. Do đó, linh có thể tác nhiệm trong bất
cứ loại tình trạng nào. Vì vậy, nếu một tín đồ thật sự thuộc linh thì có thể
tiếp tục công tác, dù hồn người ấy có cảm xúc hay không hoặc thân thể người ấy
có sức lực hay không, vì người ấy sống theo một linh liên tục năng động.
Nói cách thực tiễn, cảm nhận của hồn và trực
giác của linh rõ ràng là khác nhau. Nhưng đôi khi cảm nhận của hồn lại rất
giống với trực giác của linh. Đôi khi hai điều này gần như giống hệt nhau và
các tín đồ rất khó phân biệt. Mặc dù rất hiếm có trường hợp này nhưng vẫn có
thể xảy ra. Giữa hai điều này dường như chỉ cách nhau một li thôi. Vào những
lúc này, một tín đồ nóng vội không thể tránh khỏi bị lừa dối. Tuy nhiên, nếu
người ấy kiên nhẫn chờ đợi, biện biệt nguồn gốc cảm nhận của mình nhiều lần,
Thánh Linh sẽ khải thị sự thật cho người ấy vào đúng thời điểm. Nếu muốn bước
đi theo linh, chúng ta không được hành động hấp tấp.
Đa số tín đồ thuộc hồn đều có một xu hướng.
Nói chung, họ có xu hướng về tình cảm hoặc tâm trí. Khi ao ước trở nên thuộc
linh và bước đi theo linh, họ thường rơi vào trong cái bẫy có xu hướng ngược
lại. Điều này nghĩa là một tín đồ tình cảm sẽ xem một điều lạnh lùng hợp lẽ
phải là sự dẫn dắt của linh. Vì người ấy nhận thức rằng cách sống nhiệt thành
của mình trong quá khứ là thuộc hồn nên người ấy sai lầm cho rằng sự hợp lý
hiện tại của mình là thuộc linh. Một tín đồ hay phân tích sẽ xem các cảm xúc
sôi nổi của mình là sự dẫn dắt của linh. Than ôi, cả hai điều này chỉ đổi chỗ cho nhau và cũng
thuộc hồn như nhau mà thôi. Vì vậy, chúng ta phải ghi nhớ chức năng của linh.
Nói cách khác, bước đi theo linh là bước đi theo trực giác, vì tri thức thuộc linh,
sự tương giao và lương tâm đều có được từ trực giác. Thánh Linh dùng trực giác
để hướng dẫn các tín đồ. Do đó, một tín đồ không nên tượng trưng điều gì là
thuộc linh. Người ấy chỉ cần bước theo trực giác là đủ. Nếu ao ước vâng phục
Thánh Linh, người ấy cần biết ý muốn của Ngài trong trực giác.
Một số người quyết liệt tìm kiếm các ân tứ
của Thánh Linh. Nhiều lần, các sự tìm kiếm của họ chỉ là tìm kiếm hạnh phúc; có
“cái tôi” đằng sau đó. Hơn nữa, nếu họ cảm thấy Thánh Linh ngự xuống, thân thể
họ bị một quyền lực bên ngoài tiếp quản, hoặc có một sức nóng tuôn ra từ đầu
đến chân, họ sẽ cho rằng mình đã có được báp-têm của Thánh Linh. Thánh Linh
chắc chắn có thể khiến một người cảm thức Ngài qua các cảm giác của người ấy,
nhưng việc tìm kiếm Ngài theo cảm xúc thì hết sức nguy hiểm. Điều này không chỉ
khuấy động sự sống – hồn của một người mà còn đem đến sự trá hình của Satan.
Điều đáng giá trước mặt Đức Chúa Trời không phải là cảm thức của chúng ta về sự
hiện diện của Chúa hoặc tình yêu của chúng ta đối với Ngài qua tình cảm; đúng
hơn, chính việc chúng ta bước theo Thánh Linh trong trực giác của mình và sống
theo những gì Ngài khải thị cho chúng ta trong linh mới có giá trị. Chúng ta
thường thấy một người có “sự báp-têm của Thánh Linh” vẫn sống theo sự sống
thiên nhiên chứ không theo linh. Người ấy cũng không có trực giác nhạy bén để
phân tích thế giới thuộc linh. Chỉ có sự tương giao với Chúa trong trực giác,
không phải trong tình cảm, mới có giá trị.
Khi đọc về các chức năng của linh được ký
thuật trong Kinh Thánh, chúng ta nhận thức rằng linh có thể nồng nhiệt như tình
cảm, cũng có thể lạnh lùng như lý trí. Nhưng những người có kinh nghiệm trong
Chúa sẽ nhận biết sự khác biệt giữa điều ra từ linh và điều ra từ hồn.
Nếu một tín đồ không tìm kiếm để thật sự nhận
biết Đức Chúa Trời trong trực giác và bước đi theo trực giác, nhưng chỉ mặc
nhiên chấp nhận trong tâm trí, hoặc thậm chí phổ biến hơn là theo đuổi sự khuấy
động của Thánh Linh trong các cảm xúc của mình, thì người ấy vẫn đang bước đi
theo xác thịt và khiến nếp sống thuộc linh của mình lún sâu vào trong tình
trạng không có sự sống.
Bởi quan sát cách cư xử của Paul, chúng ta có
thể nhận thức tốt hôn về tầm quan trọng của việc bước đi theo trực giác của
linh. Ông nói: “Nhưng Đức Chúa Trời đã vui lòng khải thị Con Ngài trong tôi để
tôi loan báo Con ấy như phúc âm giữa vòng dân Ngoại Bang, tức thì tôi không bàn
với thịt và huyết, cũng không đến Jerusalem với các sứ đồ trước tôi, nhưng tôi
qua Arabia rồi lại về Damascus” (Gal 1:15-17). Sự khải thị là vấn đề của linh.
Ngay cả khi sứ đồ John được khuấy động để viết sách Khải Thị, ông đã nhận được
sự khải thị trong linh (Khải 1:10). Cả Kinh Thánh cùng làm chứng rằng sự khải
thị là ở trong linh của tín đồ.
Vị sứ đồ bảo chúng ta rằng sau khi nhận được
sự khải thị trong linh, nhận biết Chúa Jesus, và nhận thức rằng Đức Chúa Trời
sai ông đến với người ngoại bang, ông đã bước theo sự dẫn dắt trong linh. Ông
không bàn với thịt và huyết; ông không cần phải lắng nghe các ý kiến, tư tưởng
và lý lẽ của loài người nữa. Ông cũng không lên Jerusalem để gặp “những người
thâm niên thuộc linh” để hỏi ý kiến của họ về vấn đề này. Ông đã bước theo sự
dẫn dắt của linh trọn đường. Một khi có được các sự khải thị của Đức Chúa Trời
trong trực giác của mình và hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời, ông không còn tìm
kiếm các bằng chứng khác nữa. Theo ông, sự khải thị trong linh là đủ để hướng
dẫn ông rồi, mặc dù việc rao giảng Chúa Jesus giữa vòng người ngoại bang là sự
chuyển động chưa từng có tiền lệ vào thời đó. Theo hồn người, chúng ta càng suy
xét nhiều thì càng tốt và chúng ta càng tìm kiếm các ý kiến của người khác,
nhất là của những người có kinh nghiệm trong việc rao giảng phúc âm, thì càng
tốt. Nhưng Paul chỉ bước theo linh và không quan tâm đến các ý kiến của con
người, thậm chí của những sứ đồ thuộc linh nhất.
Vì vậy, chúng ta không nên bước theo lời của
một số người thuộc linh, nhưng thay vì vậy phải bước theo sự hướng dẫn trực
tiếp của chính Chúa trong linh mình. Điều này nghĩa là lời của những người
trưởng thành thuộc linh là vô ích phải không? Không, chúng vẫn rất có ích. Các
sự nhắc nhở và dạy dỗ của họ rất hữu ích, nhưng chúng ta vẫn cần suy nghĩ cẩn
thận và sáng tỏ để xem sự phát ngôn của họ có phải là từ Đức Chúa Trời hay
không và chúng ta vẫn cần tiếp nhận sự chỉ dẫn riêng tư của Chúa. Khi chúng ta
không biết chắc sự khuấy động bên trong mình có thật sự là sự khải thị của linh
hay không, các sự dạy dỗ của những người có kinh nghiệm sâu xa trong Chúa sẽ
rất hữu ích. Tuy nhiên, nếu chúng ta biết chắc rằng sự khải thị là từ Đức Chúa
Trời như Paul vào thời của ông, thì dù ngày nay vẫn còn sứ đồ đi nữa thì chúng
ta cũng không cần kiểm tra lại với họ.
Nếu đọc văn mạch, chúng ta có thể thấy rằng
vị sứ đồ rất xem trọng việc phúc âm của ông là bởi sự khải thị chứ không phải
được dạy bởi các sứ đồ khác. Đây là điểm trọng yếu. Phúc âm của chúng ta không
phải có được từ việc nghe một ai đó, đọc một sách nào đó hay ra từ một loại vận
dụng trí năng nào đó. Nếu phúc âm của chúng ta không phải bởi sự khải thị của
Đức Chúa Trời thì nó tuyệt đối không có giá trị thuộc linh. Các tín đồ trẻ ngày
nay nhấn mạnh đến vấn đề học tập từ một người hướng dẫn, còn những người tiến
bộ thuộc linh thì nhấn mạnh đến nhu cầu truyền các niềm tin đúng đắn lại cho
thế hệ sau.
Họ không biết rằng những điều này không có
giá trị về mặt thuộc linh. Nhưng gì chúng ta tin, những gì chúng ta rao giảng,
và những gì chúng ta có được, tất cả sẽ là con số không to tướng nếu chúng
không phải bởi sự khải thị. Một tín đồ có thể tiếp nhận nhiều ý tưởng kỳ diệu
từ tâm trí người khác nhưng linh người ấy vẫn nghèo nàn và trống rỗng.Tất
nhiên, chúng ta không mong đợi một phúc âm mới mẻ và cũng không xem thường sự
phát ngôn của các đầy tớ khác của Đức Chúa Trời, vì Kinh Thánh nói rõ rằng
chúng ta không được xem thường việc nói tiên tri. Tuy nhiên, chúng ta phải biết
rằng sự khải thị tuyệt đối không thể thiếu.
Nếu không có sự khải thị, mọi điều được nói
đến là vô ích. Chúng ta phải có được sự khải thị về lẽ thật của Đức Chúa Trời
trong linh mình, thì việc rao giảng của chúng ta mới có thể có các kết quả
thuộc linh. Nếu không, sự cung ứng từ người khác vẫn vô ích. Đối với mỗi công
nhân của Đấng Christ, sự khải thị tronglinh phải có vị trí cao nhất. Đây là
phẩm chất tiên quyết của mỗi công nhân. Chỉ bởi cách này chúng ta mới có thể
công tác thuộc linh và bước theo linh. Ngày nay có quá nhiều công nhân lệ thuộc
và trí năng và tư duy của mình! Thậm chí các tín đồ có đức tin thuần khiết nhất
cũng có thể chỉ tiếp nhận lẽ thật trong tâm trí mình. Những điều này đều là các
công tác chết. Chúng ta hãy tự hỏi: sự rao giảng của chúng ta ra từ sự khải thị
của Đức Chúa Trời hay từ con người?
(Người Thuộc Linh)