GÁNH NẶNG CỦA LINH
Có một sự khác biệt giữa gánh nặng của linh
và sự nặng nề của linh. Sự nặng nề của linh đến từ Satan, và chủ đích của nó là
khiến các tín đồ chịu khổ; Satan sử dụng sự nặng nề để đàn áp họ. Tuy nhiên,
gánh nặng của linh đến từ Đức Chúa Trời. Chủ đích của nó là tỏ cho biết ý muốn
của Ngài và có được sự hợp tác của các tín đồ. Sự nặng nề của linh không có chủ
đích nào khác hơn là đàn áp. Như vậy, nó vô dụng và vô ích. Gánh nặng của linh
là gánh nặng từ Đức Chúa Trời và mục đích của nó là khiến con người công tác,
cầu thay và rao giảng vì Đức Chúa Trời. Một gánh nặng như vậy thì chủ đích, hợp
lý và ích lợi. Các tín đồ phải phân biệt giữa gánh nặng trong linh và sự nặng
nề trong linh mình.
Satan không ban bất cứ gánh nặng nào cho các
tín đồ, hắn chỉ bao vây linh của các tín đồ và đè nặng họ. Sự nặng nề của Satan
khiến linh các tín đồ bị cột trói và tâm trí họ ngừng hoạt động. Một người mang
gánh nặng chỉ phải mang chính gánh nặng đó thôi; còn một người bị đè nặng thì
bị cột trói trong cả bản thể mình. Một khi quyền năng của sự tối tăm đến với
tín đồ, lập tức người ấy đánh mất sự tự do. Tuy nhiên, một gánh nặng từ Đức
Chúa Trời thì không giống như vậy. Bất kể gánh nặng của Đức Chúa Trời nặng đến
đâu, thì gánh nặng đó cũng không bao giờ nặng đến nỗi một người không thể cầu
nguyện. Sự tự do cầu nguyện sẽ không bao giờ bị đánh mất trong bất cứ loại gánh
nặng nào. Nhưng sự nặng nề mà kẻ thù đem đến sẽ cướp mất sự tự do của các tín
đồ trong sự cầu nguyện. Thật ra, nếu không cầu nguyện vật lộn và kháng cự lại
thì sự nặng nề này không thể được cất đi. Gánh nặng của Đức Chúa Trời được bốc
dỡ một khi chúng ta cầu nguyện. Nhưng sự nặng nề từ kẻ thù thì không như vậy.
Hơn nữa, sự nặng nề của linh bò vào cách bí mật, trong khi gánh nặng trong linh
là kết quả công tác của Thánh Linh trong linh chúng ta. Sự nặng nề của linh thì
gây đau khổ và đàn áp sự sống của các tín đồ; gánh nặng trong linh thì vui mừng
vì điều đó hợp tác với Đức Chúa Trời (tham chiếu Matt. 11:30). (Tất nhiên, xác
thịt không cảm thấy vui mừng về gánh nặng của linh. Hơn nữa, gánh nặng này cũng
gây đau khổ nếu một người không đáp ứng các sự đòi hỏi của nó).
Mọi công tác thật đều khơi từ một gánh nặng
trong linh. (Tất nhiên, khi chúng ta không có gánh nặng trong linh, sẽ có nhu
cầu vận dụng tâm trí). Khi Đức Chúa Trời muốn chúng ta làm một điều gì đó, nói
một điều gì đó hoặc cầu nguyện cho một điều gì đó, trước hết Ngài ban cho chúng
ta một gánh nặng trong linh. Nếu biết các luật của linh, chúng ta sẽ không vội
vàng tiếp tục với công tác đang làm, để cho gánh nặng ngày càng trở nên nặng
hơn. (Có thể khi chúng ta để cho vấn đề đó cứ tiếp diễn trong một thời gian
dài, cảm thức về gánh nặng có thể mất). Chúng ta phải buông bỏ mọi điều và
nghiên cứu gánh nặng. Sau khi nghiên cứu ý nghĩa của gánh nặng, chúng ta phải
bước đi theo điều chúng ta biết. Khi mọi sự được hoàn thành, gánh nặng sẽ được
bốc dỡ khỏi chúng ta.
Thông thường, linh của một tín đồ phải tự do
và không bị đè nén trước khi có thể nhận được các gánh nặng từ Đức Chúa Trời.
Chỉ có một linh tự do mới có thể cảm thức sự chuyển động của Thánh Linh. Một
linh chất đầy sự nặng nề thì không còn có thể là chiếc bình tốt nữa. Nhiều lần,
một tín đồ nhận được gánh nặng từ Đức Chúa Trời, nhưng người ấy không thực hiện
các yêu cầu của gánh nặng. Kết quả là linh của người ấy chịu khổ vì gánh nặng
đó trong nhiều ngày và người ấy không thể nhận được bất kỳ gánh nặng tươi mới
nào từ Đức Chúa Trời. Do đó, điều thiết yếu là phải tìm hiểu ý nghĩa của gánh
nặng trong sự cầu nguyện bởi Thánh Linh và qua sự vận dụng tâm trí.
Nhiều lần, gánh nặng trong linh là để chúng
ta cầu nguyện (Col
4:12). Thật ra, chúng ta không thể cầu nguyện nhiều hơn gánh nặng mình có. Tiếp
tục cầu nguyện mà không có gánh nặng chắc chắn là không hiệu quả, và sự cầu
nguyện đó ra từ sự bướng bỉnh. Gánh nặng về sự cầu nguyện ra từ linh chỉ có thể
được bốc dỡ qua sự cầu nguyện. Thật ra, mọi gánh nặng đều như vậy. Nếu Đức Chúa
Trời đặt gánh nặng cho linh chúng ta, chúng ta chỉ hoàn thành điều Đức Chúa
Trời muốn hoặc qua sự cầu nguyện hoặc qua việc công bố sứ điệp của Ngài. Chỉ
khi nào có gánh nặng trong linh để cầu nguyện, chúng ta mới có thể cầu nguyện
trong Thánh Linh, và chỉ khi đó chúng ta mới có thể cầu nguyện bằng các sự than
thở không thể nói ra được. Khi có một gánh nặng trong linh để cầu nguyện, không
điều gì có thể làm giảm nhẹ gánh nặng này và không điều gì có thể giải phóng
chúng ta ngoại trừ sự cầu nguyện. Khi những điều chúng ta cầu nguyện được hoàn
thành, gánh nặng lập tức được cất khỏi chúng ta
Nhiều lần, các tín đồ tích lũy nhiều gánh
nặng cầu nguyện trong linh mình. Khi họ bắt đầu cầu nguyện, dường như đó là một
công việc rất khổ sở. Nhưng các tín đồ càng cầu nguyện, linh họ càng nói amen.
Chúng ta phải cố gắng hết sức để cầu nguyện ra hết những điều đè nặng chúng ta
trong linh mình, cho đến khi gánh nặng hoàn toàn được cất khỏi chúng ta. Càng
biểu hiện sự sống cũng như mọi sự chúng ta có trong sự cầu nguyện, chúng ta sẽ
càng dễ chịu. Trong loại cầu nguyện này, chúng ta có thể bị cám dỗ để ngừng cầu
nguyện trước khi gánh nặng được bốc dỡ. Hầu hết các tín đồ đều nghĩ rằng hễ họ
có phần nhẹ nhõm trong linh thì các lời cầu nguyện của họ đã được đáp lời rồi.
Thật ra, đây là lúc công tác thuộc linh đúng đắn bắt đầu. Nếu chúng ta xoay đi
làm điều khác vào lúc này, công tác thuộc linh sẽ chịu tổn thất.
Các tín đồ đừng nghĩ sai rằng mọi công tác
thuộc linh đều hạnh phúc và vui mừng; họ cũng đừng nghĩ rằng một khi có một
loại gánh nặng nào đó là họ đã đánh mất kinh nghiệm thuộc linh của mình. Đáng
tiếc là các tín đồ không nhận thức rằng gánh nặng trong linh là nguồn của công
tác thuộc linh thật. Chỉ những người chịu khổ vì Đức Chúa Trời và con người
theo cách này mới thật sự không sống cho chính mình. Những ai tìm kiếm sự vui
mừng trong cảm xúc và sợ gánh vác gánh nặng vì hội thánh là đang sống cho chính
mình và những người thuộc hồn. Do đó, khi Đức Chúa Trời ban cho chúng ta một
gánh nặng, chúng ta đừng nghĩ rằng chúng ta đã sa ngã hoặc chúng ta đã phạm một
số sai lầm. Satan thích thấy chúng ta nghĩ như vậy, vì loại suy nghĩ này giúp
hắn không bị chúng ta tấn công. Chúng ta đừng hiểu lầm chính mình. Nếu nghe
theo Satan và nghĩ rằng chúng ta đã có gì đó sai trật rồi thì chúng ta sẽ bị
hắn kiện cáo nhiều hơn và chịu khổ.
Công tác thuộc linh đích thực là một cuộc tấn
công Satan và là một cơn quặn thắt trong sự sinh nở vì các tín đồ. Điều này quả
thật không có gì vui mừng!. Điều này đòi hỏi một người phải chết đối với bản
ngã cách sâu xa nhất. Vì lý do này, không một tín đồ thuộc hồn nào có thể thật
sự dự phần vào công tác thuộc linh. Việc có cảm xúc vui mừng suốt cả ngày không
phải là bằng chứng cho sự thuộc linh của một tín đồ. Loại tín đồ đúng đắn tiến
lên với Đức Chúa Trời mà không quan tâm đến các cảm xúc của mình. Nhiều lần khi
các tín đồ có gánh nặng trong linh để chiến đấu với kẻ thù, họ chọn ở một mình
và cắt đứt mọi sự tương giao với thế giới để có thể tập trung vào chiến trận
của họ với kẻ thù. Vào cuối trận chiến này, thật khó để tìm thấy một chút vẻ
tươi cười nào trên gương mặt họ. Do đó, mọi tín đồ thuộc linh phải chào đón các
gánh nặng từ Đức Chúa Trời.
Các tín đồ phải biết các luật của linh và
cách hợp tác với Đức Chúa Trời. Nếu không, họ sẽ bị bỏ lơ các gánh nặng như vậy
và bởi đó chịu khổ. Thậm chí họ sẽ sớm đánh mất các gánh nặng của mình và không
dự phần vào sự cộng tác vinh hiển nhất với Đức Chúa Trời. vì vậy. mỗi khi có
một gánh nặng trong linh, họ phải lập tức khám phá ra gánh nặng đó là gì trong
sự cầu nguyện. Nếu đó là một sự kêu gọi chiến đấu, họ phải chiến đấu. Nếu đó là
một sự kêu gọi rao giảng phúc âm, họ phải rao giảng phúc âm. Nếu đó là một sự
kêu gọi cầu nguyện, họ phải cầu nguyện. Họ phải tìm cách công tác cùng với Đức
Chúa Trời. Họ phải tìm cách công tác cùng Đức Chúa Trời. Họ phải bốc dỡ các
gánh nặng cũ để các gánh nặng mới có thể đến nữa.
SỰ GIẢM SÚT
CỦA LINH
Điều này nghĩa là sự sống và quyền năng của
Đức Chúa Trời có thể giảm sút trong linh tín đồ giống như thủy triều rút xuống
vậy. Khi các tín đồ thuộc hồn, họ xem việc cảm nhận được sự hiện diện của Đức
Chúa Trời trong cảm xúc khiến họ vui sướng là đỉnh cao thuộc linh. Nếu cảm thấy
khô hạn và không yên nghỉ, họ nghĩ rằng sự sống thuộc linh của họ đang ở trong
tình trạng tồi tệ nhất. Tuy nhiên, đây chỉ là điều họ cảm thấy trong cảm xúc;
điều đó không phản ánh tình trạng thật sự của sự sống thuộc linh của họ.
Tất nhiên, có những lúc sự sống thuộc linh
thật sự thấp. Điều này khác với những lúc một người ở trong cảm xúc của hồn.
Sau khi một tín đồ đầy dẫy Thánh Linh, người ấy sẽ tiếp tục tiến tới trong một
thời gian. Nhung không lâu sau, người ấy dần dần có các sự thoái trào. Điều đó
không xảy ra đột ngột. Đây là sự khác biệt giữa sự giảm sút trong cảm xúc và
thoái trào trong thực tại. Trong trường hợp trước, điều đó xảy ra đột ngột;
trong trường hợp sau, điều đó xảy ra dần dần. Trong trường hợp sau, một người
cảm thấy sự sống và quyền năng trong linh mà mình đã từng nhận đánh mất sự vui
mừng, bình an và quyền năng trong linh mà người ấy đã từng có. Ngày qua ngày, người
ấy càng trở nên yếu đuối hơn. Không bao lâu sau, người ấy cảm thấy mình đã đánh
mất mọi khẩu vị về sự tương giao với Đức Chúa Trời; người ấy nhận thấy đọc Kinh
Thánh thật vô nghĩa, và không có một sứ điệp hay một đoạn Kinh Thánh đặc biệt
nào cảm động lòng người ấy. Cho dù người ấy có được đụng chạm đôi điều nhưng
điều đó cũng không mãnh liệt như trước nữa. Sự cầu nguyện trở nên khô hạn, vô
vị và vô nghĩa và người ấy dường như chẳng có gì để cầu nguyện. Người ấy không
thấy vui mừng trong việc làm chứng và không còn tuôn tràn như trước nữa. Sự
sống không còn mạnh như trước, cũng không còn phấn khởi, bay bổng và vui mừng
nữa. Mọi sự dường như đang giảm đi.
Đối với thủy triều thì thật sự có sự dâng lên
và rút xuống. Nhưng có sự dâng lên và rút xuống trong linh chúng ta khi linh đó
chứa đựng sự sống và quyền năng của Đức Chúa Trời không? Sự sống của Đức Chúa
Trời không rút xuống; nó mãi mãi tuôn chảy. Sự sống của Ngài không giống như
thủy triều của biển, dâng lên rút xuống; sự sống Ngài giống như một con sông
tuôn chảy nước sự sống mãi mãi (John 7:38). Sự sống Đức Chúa Trời bên trong
chúng ta không giống như thủy triều, phải rút xuống sau một thời gian. Nguồn
của sự đống bên trong chúng ta là Đức Chúa Trời; Ngài không bao giờ thay đổi và
với Ngài không có bóng đổi dời. Do đó, sự sống trong linh chúng ta phải tuôn
chảy không ngừng và phải liên tục tuôn tràn và lan rộng.
Nếu một tín đồ cảm thấy sự sống của mình đang
giảm sút, người ấy phải nhận thức sự sống của mình không giảm sút; nó chỉ ngừng
tuôn chảy thôi. Người ấy phải nhận thức rằng sự giảm sút này tuyệt đối không
cần thiết. Chúng ta đừng bao giờ bị Satan lừa dối để nghĩ rằng hễ một người còn
sống trong xác thịt thì người ấy không bao giờ có thể liên tục đầy dẫy sự sống
của Đức Chúa Trời. Sự sống của Đức Chúa Trời là một sông nước sự sống bên trong
chúng ta. Nếu không có sự ngăn trở thì nó sẽ tuôn chảy mãi. Các tín đồ có thể
có kinh nghiệm tuôn chảy lâu dài. Bất cứ loại giảm sút nào đều không cần thiết
và bất thường.
Do đó, vấn đề không phải là sự sống thuộc
linh giảm sút mà vấn đề là chúng ta phải làm một điều gì đó để sự sống thuộc
linh chỗi dậy. Nhu cầu hiện tại không phải là vấn đề đổ đầy con sông mà khơi
thông dòng chảy. Con sông sự sống vẫn ở trong các tín đồ, nhưng nó bị chặn. Vì
không có sự tuôn chảy nên nước sự sống không thể bước ra. Chỉ cần lối ra được
khơi thông thì nước sự sống sẽ tuôn ra không ngừng. Do đó, một tín đồ không cần
thêm sự sống mà cần thêm sự tuôn tràn sự sống.
Khi một tín đồ cảm thấy sự sống thuộc linh
của mình có vẻ như đang giảm sút, người ấy phải tìm hiểu xem nó bị chặn ở đâu.
Satan sẽ làm cho anh em cảm thấy sự sống thuộc linh của mình thoái lui. Những
người khác có thể cảm thấy anh em đã đánh mất quyền năng thuộc linh. Chính anh
em thậm chí nghĩ rằng mình đã phạm một trọng tội nào đó. Điều này có thể đúng
nhưng không hẳn là như vậy. Thật ra, lý do thật sự là nhiều tín đồ không biết
cách hợp tác với Đức Chúa Trời và thỏa đáp điều kiện của Đức Chúa Trời để có
một sự tuôn chảy không ngừng.Sự thiếu hiểu biết là nguyên nhân lớn nhất của
hiện tượng này. Vì vậy, một tín đồ phải lập tức cầu nguyện, suy gẫm, kiểm tra
và nghiên cứu. Anh em phải chờ đợi Đức Chúa Trời và xin Linh khải thị lý do cho
sự “giảm sút” này. Anh em phải sống động và tìm hiểu xem có phải mình đã thất
bại trong việc thỏa đáp một số điều kiện để có một sự tuôn chảy liên tục của sự
sống thuộc linh nên mới dẫn đến “giảm sút” này không.
Anh em không chỉ phải thừa nhận mình đã có
những sự thoái trào – sự thừa nhận này cũng là một bước quan trọng – mà còn
phải chủ động tìm kiếm nguyên nhân của những sự thoái trào như vậy. Mặc dù các
lời xác nhận của Satan, của những người khác và của chính ánh em đều không đáng
tin cậy, nhưng chúng cũng đáng kể xem xét vì đôi khi chúng có thể đúng. Một khi
đã tìm ra lý do, anh em phải lập tức từ chối điều đó. Đừng tưởng tượng là sự
sống thuộc linh sẽ tự phát tuôn chảy. Nếu anh em không loại bỏ lý do của sự
ngăn trở thì sự tuôn chảy sẽ không được khôi phục lại.
Do đó, mỗi lúc có sự “giảm sút” thuộc linh,
chúng ta phải lập tức tìm kiếm qua sự cầu nguyện và suy gẫm. Chúng ta phải hiểu
quy luật để sự sống Đức Chúa Trời tuôn chảy và từ chối mọi công tác của kẻ thù.
Nếu chúng ta làm như vậy, sự sống lại tuôn chảy và chúng ta sẽ được tiếp nhận
thêm sinh lực một lần nữa. Linh sẽ trở nên có quyền năng hơn trước và được vững
mạnh để đột kích đồn lũy của kẻ thù.
SỰ XAO LÃNG
TRÁCH NHIỆM CỦA LINH
Nhân linh giống như đèn điện. Khi linh tiếp
xúc với Thánh Linh, thì linh đầy ánh sáng. Khi tách rời khỏi linh thì linh lập
tức tối tăm. Linh con người là đèn của Chúa (Châm 20:27). Mục đích của Đức Chúa
Trời là đổ đầy tâm linh bằng ánh sáng, nhưng nhiều lần, linh của một tín đồ trở nên tối tăm. Đây là vì linh của người ấy
đã mất liên lạc với Thánh Linh và kết quả là linh bị tối tăm. Nếu chúng ta muốn
biết linh của một tín đồ có bị cô lập khỏi Thánh Linh hay không, mọi điều chúng
ta cần là xem linh có mất ánh sáng không.
Chúng ta đã nói rằng Thánh Linh của Đức Chúa
Trời cư trú trong linh con người. Con người hợp tác với Thánh Linh qua linh
mình. Khi lệch khỏi tình trạng bình thường, nhân linh bị cô lập khỏi Thánh Linh
và mất ánh sáng. Điều thiết yếu đối với một tín đồ là duy trì linh mình trong
tình trạng để có thể hợp tác với thánh Linh. Nếu linh bị quấy rầy bởi các hoàn cảnh
bên ngoài thì lập tức linh trở nên vô dụng; linh không thể hợp tác với Thánh
Linh và trở nên tối tăm.
Mọi tình trạng ở trên có thể khiến linh xao
lãng trách nhiệm của mình và thất bại trong việc hợp tác với Thánh Linh. Một
khi xao lãng trách nhiệm của mình, thì chiến thắng là điều bất năng. Nếu một
tín đồ cảm thấy bị mất linh khi thức dậy vào buổi sáng, kẻ thù có thể khiến
người ấy cảm thấy rằng người ấy đã làm việc quá sức vào tối hôm trước và thân
thể người ấy mệt mỏi. Nếu các tín đồ không cảnh giác, họ sẽ để cho linh xao
lãng trách nhiệm của mình. Họ sẽ thấy mình không có sức lực để kháng cự cám dỗ
và hoàn thành công tác trong ngày. Họ phải lập tức nghiên cứu vấn đề, nhận thức
rằng thân thể họ không được ảnh hưởng đến linh; đúng hơn, linh phải sống động
và mạnh mẽ, kiểm soát thân thể. Sau khi hiểu được điều này, họ phải xưng nhận
rằng linh đã xao lãng bổn phận của mình và bị kẻ thù tấn công. Vào những lúc
như vậy, họ phải lập túc nỗ lực khôi phục tình trạng trước đây của họ. Nếu
không làm như vậy, họ sẽ thất bại khi đi ra gặp người khác. Khi linh chúng ta
xao lãng bổn phận của mình vào buổi sáng, chúng ta đừng cho phép linh tiếp tục
như vậy suốt cả ngày, vì đây là cách bị đánh bại.
Sau khi các tín đồ nhận thức rằng linh họ đã
xao lãng bổn phận, họ phải lập tức từ chối mọi công tác của Satan và nguyên
nhân cho mọi công tác của hắn. nếu đó là một sự tấn công của kẻ thù thì chỉ cần
họ từ chối sự tấn công đó thì linh họ sẽ tự do. Nhưng nếu có một lý do nào khác
sự tấn công đó, nghĩa là các tín đồ đã nhường lập trường cho kẻ thù, họ phải
nghiên cứu lý do cho các sự tấn công bởi đó loại bỏ lập trường của nó. Điều này
liên hệ rất nhiều đến lịch sử quá khứ của các tín đồ. Họ phải xem xét cách kẻ
thù tấn công linh và họ xem xét môi trường, gia đình, thân nhân, con cái và
nghề nghiệp mình. Họ phải cầu nguyện cho một điều gì đó và đang khi cầu nguyện
cảm thấy có phần nhẹ nhõm trong linh mình thì họ phải nhận thức rằng họ đã xác
định được nguyên nhân của sự tấn công, Khi đó họ phải loại bỏ nguyên nhân đó
trước mặt Đức Chúa Trời. Sau khi cầu nguyện, họ phải tự do và linh họ phải khôi
phục lại các chức năng của mình. Nhiều lúc, việc linh xao lãng trách nhiệm diễn
ra khi các tín đồ bỏ mặc linh mình và không vận dụng sự kiểm soát trên linh
hoặc chỉ dẫn linh ở trên đúng con đường. “Linh của các tiên tri thuận phục các
tiên tri” (1 Cor 14:32). Những người “bước theo linh của riêng mình” là “những
tiên tri ngu dại” (Ezek 13:3) Điều này rất quan trọng. Nếu các tín đồ không vận
dụng ý chí của họ để kiểm soát linh, ngăn chặn linh trở nên thái quá, và nếu không
duy trì sự hợp tác giữa linh mình và Thánh Linh, thì linh họ sẽ xao lãng bổn
phận của mình. Các tín đồ phải nhận thức rằng nhân linh có thể trở nên hoang
dã. Đây là lý do tại sao Châm Ngôn nói rằng có một “linh kiêu căng” (Châm
16:18). Linh con người có thể hành động độc lập với Thánh Linh. Nếu một tín đồ
không vận dụng độc lập với Thánh Linh. Nếu một tín đồ không vận dụng bất kỳ sự
kiểm soát nào trên linh mình và khiến linh thuận phục Thánh Linh thì linh có
thể hành động độc lập. Do đó, một tín đồ phải cảnh giác mọi lúc và không để cho
linh mình lệch khỏi con đường của Đức Chúa Trời hoặc khỏi sự tương giao bình
tịnh với Đức Chúa Trời; nếu không, người ấy sẽ không còn có thể hợp tác với Đức
Chúa Trời nữa.
Đôi khi, sự xao lãng bổn phận trong linh là
do sự cúng cỏi trong linh của tín đồ. Đức Chúa Trời cần một linh mềm mại để
biểu hiện ý muốn của Ngài. Nếu linh kêu căng, tự tin và không hạ mình, công tác
của Thánh Linh sẽ bị ngăn trở. Chỉ có một linh đầu phục mới hoàn thành ý muốn
của Thánh Linh. Một tín đồ phải có một linh sẵn sàng (Xuất 35:21) và người ấy
phải sẵn lòng đáp ứng với ý muốn của Thánh Linh trong thời gian ngắn nhất. Linh
của một tín đồ phải rất nhạy bén để có thể cảm thức tiếng nói nhỏ nhẹ của Thánh
Linh và đáp ứng ngay lập tức. Nếu có một sự bướng bỉnh nào dù nhỏ nhất trong
linh của một tín đồ, người ấy sẽ không thể thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời
và nghe được tiếng của Thánh Linh bên trong linh mình. Do đó, các tín đồ phải
duy trì linh mình trong tình trạng dễ uốn nắn và luôn luôn bước theo cảm thức
tinh tế trong linh mình. Đây là ý của vị sứ đồ khi nói: “đừng dập tắt linh” (1
Thes 5:19). Các tín đồ phải cẩn thận bước theo mọi công tác, cảm nhận và cảm
thức của linh. Nếu họ làm như vậy, cảm thức của linh họ sẽ ngày càng nhạy bén
hơn. Hơn nữa, Đức Chúa Trời sẽ tỏ cho họ biết ý muốn của Ngài.
Nếu các tín đồ ao ước theo linh, họ phải biết
khi nào linh xao lãng bổn phận của mình và không còn hợp tác với Thánh Linh
nữa. Họ cũng phải biết tại sao linh xao lãng bổn phận. Họ phải thức canh bảo vệ
linh mình và giữ linh liên tục ở trong sự đơn sơ và bình tĩnh. Khi đó, họ có
thể tương giao với Đức Chúa Trời chống lại mọi điều gây xao lãng từ kẻ thù và
từ chính họ, là những điều cướp mất sự tiếp xúc hòa bình với Đức Chúa Trời.
TÌNH TRẠNG CỦA
LINH
Tóm
lại, một tín đồ phải hiểu biết mọi luật của linh trước khi có thể bước đi theo
linh. Nếu người ấy không thức canh và hợp tác với Đức Chúa Trời, người ấy sẽ sa
ngã. Luật quan trọng nhất của linh là kiểm tra tình trạng của linh. Việc kiểm
tra tình trạng của linh là vấn đề trung tâm mà chúng ta nói đến trong sự bàn
luận ở trên.
Một tín đồ phải biết tình trạng của linh
mình. Người ấy phải biết tình trạng bình thường của linh và khi nào linh bất
bình thường. Linh phải cai trị hồn và thân thể con người; linh phải có vị trí
cao nhất và là phần mạnh nhất. Một tín đồ phải kiểm tra xem đây có phải là tình
trạng của linh mình không. Người ấy phải biết linh mình có bất thường và có
đang bị kích động qua chiến trận hoặc môi trường không. Thường sẽ có bốn loại
tình trạng với linh:
(1) Linh bị đè nén và chịu thoái lui. (2)
Linh bình tĩnh kiên định và ở trong vị trí đúng đắn. (3) Linh bị kích động và
buộc phải phản ứng quá mức. (4) Linh bị ô uế và trở nên yếu đuối (2 Cor 7:1);
Linh đã nhường lập cho tội lỗi.
Một tín đồ ít nhất phải biết bốn tình trạng
của linh mình và người ấy phải biết cách xử lý chúng. Nhiều lần, do sự bất cẩn
của chính người ấy và qua các sự tấn công của kẻ thù, linh của một tín đồ bị
“gạt qua một bên” và trở nên chán nản. vào những lúc như vậy, người ấy đánh mất
vị trí thiên thượng, sáng chói và chiến thắng và trở nên lạnh lẽo, tê liệt và
bị đè bẹp. Linh có thể trở nên chán nản qua sự buồn rầu hoặc vì hàng trăm lý do
khác mà đánh mất sự vui mừng bay bổng. Khi linh bị đè nặng thì linh đã sa ngã
dưới mức bình thường.
Đôi khi linh cũng có thể bị kích động và
chuyển động vượt quá vị trí đúng đắn. Một tín đồ có thể phấn khích trong hồn và
ngất ngây đến mức linh người ấy bị kích động và đánh mất sự bình tĩnh. Đôi khi,
một tín đồ bước theo “sức sống thọ tạo” đến mức người ấy có một “linh không
được kiềm chế”. Sự cười cợt mất kiểm soát và nhiều lý do khác có thể khiến linh
trở nên hoang dã và không kiểm soát được. Chiến trận kéo dài với kẻ thù cũng có
thể dẫn đến hành động thái quá của linh. Satan có thể khiến linh của một tín đồ
trở nên vươn ra quá mức trong và sau cuộc xung đột của Satan với người ấy đến
mức người ấy không thể dừng hoạt động của linh mình và giữ điềm tĩnh. Satan có
thể ban cho các tín đồ một loại vui sướng kỳ lạ hoặc nhiều điều khác khiến linh
họ hành động vượt quá sự kiểm soát của tâm trí và ý muốn của họ. Khi điều này
xảy ra, các tín đồ không còn có thể canh giữ chính mình và họ thất bại.
Đôi khi, linh hoặc quá cao hoặc quá thấp,
nhưng bị ô uế. Đôi khi, sự ô uế xuất hiện như một thái độ trong linh một người,
như bướng bỉnh và bất phục chẳng hạn. Đôi khi nó xuất hiện trong linh như tội
lỗi, kiêu ngạo và ganh tị chẳng hạn. Vào những lúc khác, nó xuất hiện như sự
pha trộn các hoạt động thuộc hồn trong linh, như tình yêu, cảm xúc và ý tưởng
thiên nhiên. Một khi đã bị ố uế, linh phải được tẩy sạch (2 Cor 7:1; 1 John
1:9)
Nếu một tín đồ ao ước bước đi theo linh,
người ấy phải hiểu biết tình trạng của linh mình. Linh người ấy có ở trong tình
trạng bình tĩnh và đúng đắn hay không, hay linh đang ở trong một vị trí quá thấp,quá
cao, hoặc bị ô uế? Người ấy phải biết cách nâng cao linh bị đàn áp của mình để
linh tương xứng với tiêu chuẩn của Thánh Linh. Người ấy phải biết cách vận dụng
ý chí của mình để dừng một linh quá hiếu động lại và xoay linh trở lại tình
trạng bình thường. Người ấy phải biết cách tẩy sạch linh bị ô uế để lại có thể
công tác với Đức Chúa Trời.
Người thuộc linh