Thứ Ba, 31 tháng 3, 2015

TRỰC GIÁC CỦA NHÂN LINH

Image result for photo of landscape


Nếu chúng ta muốn hiểu biết sáng tỏ hơn về nếp sống thuộc linh, chúng ta phải phân tích và hiểu được mọi luật của linh. Chỉ sau khi hiểu biết mọi chức năng của linh chúng ta mới lĩnh hội được các luật mà bởi đó linh vận hành. Một khi đã biết các luật của linh, chúng ta sẽ học cách bước theo linh, tức là bước đi bởi các luật của linh. Những điều này là sự sinh tử đối với nếp sống thuộc linh. Chúng ta không sợ có quá nhiều tri thức về linh; mối lo ngại duy nhất của chúng ta là chúng ta quá ra sức theo đuổi tri thức về linh bằng tâm trí của mình.

Phúc âm của Đức Chúa Trời là nói với dân chúng rằng con người sa ngã có thể nhận được sự tái sanh và con người xác thịt có thể có được một linh mới. Linh mới là nền tảng của nếp sống mới. Nếp sống thuộc linh mà chúng ta thường nói đến chính là một nếp sống mà trong đó chúng ta sống bởi linh nhận được lúc tái sanh. Đáng tiếc là hầu hết các tín đồ đều biết rất ít về các chức năng của linh và những điều liên hệ đến linh. Họ có thể biết thuật ngữ về mối liên hệ giữa con người và linh, nhưng họ vẫn không thể nhận ra linh này trong kinh nghiệm của mình. Như chúng ta đã đề cập đến trước đây, hoặc họ không biết linh mình ở đâu, hoặc họ kể các cảm xúc và ý tưởng của mình là các chức năng của linh. Vì vậy, một sự phân tích các chức năng là cần thiết, vì chỉ khi đó các tín đồ mới biết cách bước đi theo linh.
CÁC CHỨC NĂNG CỦA LINH
Trước đây chúng ta đã đề cập rằng các chức năng của linh có thể chia thành ba phần: trực giác, sự tương giao và lương tâm. Mặc dù ba phần này có thể phận biệt nhưng chúng gắn chặt với nhau. Chúng ta rất khó nói đến phần này mà không đề cập đến hai phần kia. Thí dụ, khi nói về trực giác, tự phát chúng ta cũng bao gồm sự tương giao và lương tâm. Vì vậy, mặc dù phân tích linh, nhưng chúng ta vẫn cần nghiên cứu kỹ về các chức năng ba phần của linh. Chúng ta đã thấy thể nào linh được chia thành trực giác, sự tương giao và lương tâm, và chúng ta sẽ không lặp lại ở đây. Tuy nhiên, chúng ta phải xem xét thêm xem trực giác, sự tương giao (hoặc thờ phượng) và lương tâm là gì và có chức năng gì, để biết cách bước đi theo linh. Vì linh bao gồm công tác của trực giác, sự tương giao và lương tâm nên chúng ta có thể nói rằng bước đi theo linh chỉ là bước đi theo trực giác, sự tương giao và lương tâm.
Trực giác, sự tương giao và lương tâm chính là ba chức năng của linh. Chúng ta không nói rằng linh chỉ bao gồm ba phần này, chúng ta cũng không nói rằng linh chỉ là một trong ba phần này. Theo Kinh Thánh, đây đơn giản là ba chức năng chính của linh. Linh vẫn là linh; linh thì có thật, riêng tư và không thấy được. Ngày nay, chúng ta không thể hiểu thấu tố chất bên trong của linh. Chúng ta chỉ có thể nhận thức rằng chính bởi các chức năng này mà linh biểu lộ. Chúng ta ở đây không phải để học tập các huyền nhiệm kỳ diệu về tương lai mà là để theo đuổi cách sống thuộc linh. Chỉ cần chúng ta nhận biết các chức năng của linh và biết cách bước đi theo linh là đủ rồi. Linh chúng ta không phải là vật chất hữu hình, nhưng linh có thể hiện hữu độc lập trong thân thể như nhân linh. Vì vậy, mặc dù linh chúng ta không phải vật chất nhưng chắc chắn linh sở hữu “tố chất thuộc linh”. Nếu không, linh không thể hiện hữu cách độc lập. Tố chất thuộc linh này chứa đựng các chức năng khác nhau, là điều thực hiện mọi đòi hỏi của Đức Chúa Trời đối với con người. Vì vậy, chúng ta sẽ chỉ cố gắng học về các chức năng của linh, chứ không phải về tố chất của linh.
Con người giống như đền thờ thánh, và linh chúng ta giống như Nơi Chí Thành. Tiến thêm một bước nữa, chúng ta có thể ví trực giác, sự tương giao và lương tâm với hòm chứng cớ trong Nơi Chí Thánh. (1) Luật pháp của Đức Chúa Trời ở trong hòm chứng cớ để chỉ dẫn dân Israel trong những điều họ phải làm. Đức Chúa Trời khải thị chính Ngài và ý muốn của Ngài qua luật pháp. Tương tư, Đức Chúa Trời tỏ chính Ngài và ý muốn của Ngài với các tín đồ qua trực giác của họ để họ có thể bước theo. (2) Trên hòm chứng cớ có nắp vãn hồi được rảy huyết. Đây là nơi Đức Chúa Trời biểu lộ vinh hiển của Ngài và nhận được sự thờ phượng của con người. Tương tự, mỗi người được cứu bởi huyết quý báu đều có linh được tái sanh. Trong linh này, người ấy thờ phượng Đức Chúa Trời và tương giao với Ngài. Đức Chúa Trời chỉ có thể tương giao với dân Israel qua nắp vãn hồi của hòm chứng cớ. Tương tự, Ngài chỉ có thể tương giao với các tín đồ trong linh được tẩy sạch bởi huyết. (3) Theo ngôn ngữ gốc, hòm là “hòm chứng cớ” và Mười Điều Răn trong đó phục vụ như chứng cớ của Đức Chúa Trời với dân Israel. Nếu họ làm tốt, hai bảng luật pháp trong hòm chứng cớ sẽ chứng thực cho họ. Nếu họ làm những điều không đúng đắn, mười điều răn sẽ  âm thầm kiện cáo họ từ bên trong hòm chứng cớ. Tương tự, Thánh Linh viết luật pháp của Đức Chúa Trời trong lương tâm chúng ta chúng ta để làm chứng cho phẩm hạnh của chúng ta. Lương tâm làm chứng cho những điều theo ý muốn của Đức Chúa Trời và kết án những điều không theo ý muốn của Đức Chúa Trời. “ Lương tâm tôi cùng làm chứng với tôi trong Thánh Linh” (Rô ma 9:1).
Hãy xem con cái Israel tôn trọng hòm chứng cớ biết bao! Khi băng qua sông Jordan, họ không có sự hướng dẫn nào ngoài hòm chứng cớ. Họ đơn giản bước theo hòm chứng cớ mà không có bất cứ sự nghi ngờ nào. Khi chiến đấu với thành Jericho, họ không làm gì khác hơn là bước theo hòm chứng cớ. Khi không thể chống cự lại quân Philistine, họ cố gắng lợi dụng hòm chứng cớ theo ý riêng của mình. Chẳng phải Uzzah lập tức bị giết chết khi cố giữ hòm chứng cớ bằng đôi tay xác thịt của mình sao? Họ vui mừng biết bao khi chuẩn bị được một nơi cho hòm chứng cớ! (Thi 132). Những điều này phải dạy các tín đồ cách đối xử với hòm chứng cớ, là trực giác, sự tương giao và lương tâm trong linh chúng ta. Có sự sống và sự hòa bình khi chúng ta bước theo các chức năng này và sẽ không có gì ngoài sự thất bại hoàn toàn nếu chúng ta cố gắng quấy rầy những điều này theo ý muốn xác thịt của chúng ta. Sự chiến thắng không phụ thuộc vào những gì dân Israel nghĩ mà phụ thuộc vào nơi hòm chứng cớ dẫn dắt. Bất cứ sự hữu dụng thuộc linh nào cũng không phụ thuộc vào suy nghĩ của chúng ta mà phụ thuộc vào sự dạy dỗ của trực giác, sự tương giao và lương tâm.
TRỰC GIÁC
Thân thể có các giác quan của nó và linh cũng có các cảm thức của linh. Linh cư trú trong thân thể và có mối liên hệ mật thiết với thân thể; tuy nhiên, linh hoàn toàn khác với thân thể. Thân thể có các giác quan khác nhau nhưng người thuộc linh có thể dò ra những điều vượt quá các giác quan vật lý của mình. Có một cảm thức khác trong phần sâu thẳm nhất của bản thể người ấy, có thể là vui mừng, buồn rầu, sợ hãi, tán thành, kết án, quyết tâm và biện biệt. Đây là các cảm thức của linh, khác với các giác quan của hồn được biểu hiện qua thân thể.
Các cảm thức và chức năng của linh có thể được nhìn thấy từ các câu sau đây:
“Linh thì sẵn sàng” (Matt. 26:41).
“Jesus, hoàn toàn nhận biết trong linh mình” (Mark 2:8).
“Ngài than thở sâu trong linh Ngài” (Mark 2:8).
“Linh tôi đã hớn hở trong Đức Chúa Trời Cứu Chúa tôi” (Luke 1:47).
“Những người thờ phượng thật sẽ thờ phượng Cha trong linh và tính chân thật” (John 4:23).
“Ngài … phẫn nộ trong linh” (John 11:33).
“Khi nói những điều đó rồi, Jesus bị bối rối trong linh” (John 13:21)
“Linh ông bị chọc giận bên trong khi ông thấy thành phố đầy thần tượng” (Công 17:16).
“Người này đã được chỉ dạy về đường lối của Chúa, có linh nhiệt thành” (Công 18:25).
“Paul chủ định trong linh” (Công 19:21).
“Tôi bị ràng buộc trong linh là phải đi đến Jerusalem” (Công 20:22).
“Nóng cháy trong linh” (Rô ma 12:11).
“Vì giữa dòng loài người ai biết được những điều của con người ngoài nhân linh ở trong con người” (1 Cor. 2:11).
“Tôi sẽ hát bằng linh” (1 Cor. 14:15).
“Nếu anh chúc em phước bằng linh” (1.Cor. 14:16).
“ Tôi không có sự yên nghỉ trong linh mình” (2 Cor. 2:13).
“Có cùng một linh của đức tin” (2 Cor. 4:13).
“Linh của sự khôn ngoan và khải thị” (Eph. 1:17).
“Tình yêu của anh em trong linh” (Col. 1:8).
Bây giờ chúng ta có thể thấy cảm thức của nhân linh nhạy bén biết bao và các chức năng của linh nhiều biết bao. Kinh Thánh không nói lòng của con người cảm thức và tác nhiệm theo cách này nhưng nói nhân linh cảm thức hoặc tác nhiệm như vậy. Chúng ta phải đọc các câu trên cách thật cẩn thận để nhận thức rằng nhân linh sở hữu mọi chức năng này. Sau khi đọc kỹ, chúng ta thấy rằng các chức năng và cảm thức của nhân linh cũng bao hàm như của hồn. dù là suy nghĩ, quyết định hay cảm nhận, hễ điều gì hồn có thì linh cũng có. Điều này cho chúng ta thấy rằng việc học tập biện biệt điều thuộc linh với điều thuộc hồn quan trọng biết bao. Hễ một tín đồ trải qua công tác sâu nhiệm của thập tự giá và Thánh Linh, người ấy sẽ dần dần lão luyện và biết được điều gì thuộc hồn và điều gì thuộc linh.
Sau khi một tín đồ dấn thân vào nếp sống thuộc linh, các cảm thức và chức năng của linh tăng trưởng và phát triển đầy đủ. Trước khi linh của tín đồ được phân rẽ khỏi hồn và kết hiệp với Chúa làm một linh, thì thật khó để người ấy để ý đến các cảm thức trong linh mình. Nhưng một khi quyền năng của Thánh Linh được đổ vào trong linh và người bên trong được làm vững mạnh thì linh người ấy sẽ sở hữu các cảm thức và chức năng của một người tăng trưởng đầy trọn. Chỉ khi đó người ấy mới có thể hiểu biết các chức năng khác nhau của linh.
Cảm thức này của linh được gọi là trực giác vì nó đến mà không có bất cứ nguyên nhân hoặc lý do nào. Nó đến qua “trực giác” chứ không qua bất cứ phương tiện nào. Các cảm giác thông thường của chúng ta được dấy lên bởi những phương tiện cụ thể, có thể là con người, sự vật hay sự kiện. Những điều này dấy lên một số cảm nhận. Nếu có một điều gì đó vui mừng thì chúng ta vui mừng. Nếu có một điều gì đó buồn rầu thì chúng ta cảm thấy buồn rầu. Mọi cảm giác này được dấy lên bởi một điều gì đó; vì vậy, chúng không thể được gọi là trực giác. Cảm thức của linh không ra từ bất cứ phương tiện nào những trực tiếp đến từ bản thể bên trong.
Hồn và linh khá giống nhau. Các tín đồ không nên bước theo hồn mình, nghĩa là họ không nên bước theo các suy nghĩ, cảm giác hay sở thích của mình. Mọi điều này đều ra từ hồn. Đường lối của Đức Chúa Trời cho các tín đồ là bước đi theo linh. Mọi đường lối khác đều thuộc về sáng tạo cũ và không có chút giá trị thuộc linh nào. Vậy thì, làm sao chúng ta có thể bước đi theo linh? Bước đi theo linh là bước đi theo trực giác trong linh; đây là vì trực giác của linh biểu hiện tư tưởng của nhân linh và của Đức Chúa Trời.
Nhiều lần, chúng ta dự định làm một điều gì đó, và chúng ta có thể có nhiều lý do để làm điều đó. Lòng chúng ta có thể ao ước một số điều nào đó và niềm ao ước này có thể rất tốt. Hơn nữa, ý muốn của chúng ta có thể quyết định thực hiện các ý định của tâm trí và ao ước. Tuy nhiên, trong phần sâu thẳm nhất của bản thể chúng ta, có một điều gì đó không nói ra được, yên lặng, nặng nề, bức bách và kín giấu, đang chiến đấu chống lại với các tư tưởng của tâm trí, các niềm ao ước của tình cảm và các quyết định của ý muốn chúng ta. Cảm giác phức tạp này trong lòng chúng ta dường như nói với chúng ta rằng chúng ta không được làm những điều này. Vào những dịp khác, kinh nghiệm này có thể khác. Kinh nghiệm đó có thể khởi đầu bằng việc bản thể sâu thẳm của chúng ta có cùng một cảm nhận không thể nói ra được, yên lặng, nặng nề, bức bách và kín giấu như chúng ta đã có trước đây, là điều thúc ép, đè nén, chuyển động và khích lệ chúng ta làm một số điều gì đó. Những điều này đối với chúng ta dường như vô lý, phi lý và trái với các tư tưởng thông thường của chúng ta. Những điều này nghịch với những điều chúng ta thường ao ước, ủng hộ, thích thú, yêu mến và nắm giữ và ý muốn của chúng ta không ao ước thực hiện chúng.
Điều mà hành động trái nghịch với tâm trí, tình cảm và ý muốn của chúng ta là gì? Đó là trực giác của nhân linh. Linh biểu hiện tư tưởng của linh qua trực giác. Bây giờ chúng ta có thể thấy sự khác biệt giữa trực giác và các cảm nhận của tình cảm. Thông thường, điều chúng ta cảm thấy phải làm thì đối nghịch với sự cảnh báo của trực giác yên lặng, bên trong này. Trực giác này cũng hoàn toàn khác với tâm trí chúng ta. Tâm trí chúng ta ra từ đầu chúng ta và là điều hợp lý. Tuy nhiên, trực giác không được đặt trong đầu chúng ta và thường thì phi lý. Thánh Linh khải thị tư tưởng của chính Ngài qua trực giác của linh. “Sự thúc giục” của Thánh Linh là công tác của Thánh Linh trong linh chúng ta, khiến trực giác của chúng ta hiểu biết ý muốn của Ngài. Bây giờ chúng ta có thể phân biệt điều gì ra từ Thánh Linh và điều gì ra từ bản ngã và Satan. Nơi cư trú của Thánh Linh ở trong linh chúng ta, và linh chúng ta là trung tâm của toàn bản thể chúng ta. Do đó, khi Thánh Linh khải thị ý muốn của Ngài qua trực giác, Ngài làm điều đó qua phần sâu thẳm của bản thể chúng ta. Tuy nhiên, ý muốn riêng của chúng ta nằm ở phần bên ngoài của thân thể chúng ta. Các tư tưởng của chúng ta đến từ bên ngoài của chúng ta. Một khi chúng ta nhìn thấy các ý kiến của mình ra từ tâm trí hoặc tình cảm – người bên ngoài của chúng ta – chúng ta sẽ biết rằng tình cảm – người bên ngoài của chúng ta – chúng ta sẽ biết rằng chúng chỉ là các tư tưởng của riêng chúng ta và không phải là sự thúc giục của Thánh Linh. Sự thúc giục của Thánh Linh luôn luôn ra từ phần sâu thẳm nhất của bản thể chúng ta. Chúng ta cũng có thể dùng điều này để biện biệt những điều từ Satan (ngoại trừ những người bị quỷ ám). Satan không cư trú trong linh tín đồ. Nơi cư trú của hắn là ở trong thế giới. “Đấng ở trong anh em lớn hơn kẻ (Satan) ở trong thế giới” (1 John 4:4). Satan chỉ có thể xâm lấn các tín đồ từ bên ngoài. Hắn công tác qua các sự khao khát và cảm giác của thân thể hoặc qua tâm trí và tình cảm của chúng ta, vì cả thân thể lẫn tâm hồn đều thuộc về người bên ngoài. Vì vậy, các tín đồ phải rất cẩn thận để biện biệt các  cảm nhận của mình là ra từ phần sâu thẳm của bản thể bên trong hay ra từ người bên ngoài.
SỰ XỨC DẦU CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Trực giác là nơi sự xức dầu của Đức Chúa Trời dạy dỗ chúng ta. “Còn các con có sự xức dầu từ Đấng Thánh, và tất cả các con đều biết… Sự xức dầu mà các con nhận được từ Ngài cứ ở trong các con, và các con không cần bất cứ ai dạy dỗ mình; nhưng như sự xức dầu của Ngài dạy dỗ các con về mọi sự và là thật chứ không giả dối, và cũng như sự xức dầu đó đã dạy dỗ các con, hãy cứ ở trong Ngài” (1 John 2:20, 27). Đoạn Kinh Thánh này cho biết rất rõ sự xức dầu của Thánh Linh dạy dỗ chúng ta như thế nào.
Trước khi xem xét đoạn Kinh Thánh này, chúng ta hãy phân biệt ý nghĩa của chữ “nhận biết” và “hiểu biết”. Linh “nhận biết”, trong khi tâm trí “hiểu biết”. Một tín đồ “nhận biết” một điều gì đó bởi trực giác của linh. Tâm trí chỉ có thể “hiểu biết”. Nói cho đúng, tâm trí không thể “nhận biết”. ( Tất nhiên, mọi điều này chỉ về mối liên hệ giữa chúng ta với Đức Chúa Trời). Các tín đồ rất bối rối về vấn đề tìm kiếm tư tưởng của Thánh Linh, vì họ không biết sự khác biệt giữa “nhận biết” và “hiểu biết”. Theo cách dùng thông thường thì nhận biết và hiểu biết không khác biệt lắm. Nhưng trong những vấn đề thuộc linh, nhận biết và hiểu biết cách xa nhau như cõi thiên thượng với trái đất vậy. Nhận biết là công tác của trực giác; hiểu biết là công tác của tâm trí. Thánh Linh khiến linh chúng ta có thể nhận biết và linh chúng ta khiến tâm trí chúng ta hiểu biết. Thật khó để phân biệt hai từ ngữ này nhưng trong kinh nghiệm, chúng khác nhau như lúa mì với cỏ lùng vậy.
Có phải là nhiều lần chúng ta có một cảm nhận không diễn tả được trong bản thể bên trong chúng ta như được đề cập trên đây không? Cảm nhận này khiến chúng ta có thể biết là có nên làm một điều gì đó hay không. Đúng là trong linh mình chúng ta có thể biết tư tưởng của Thánh Linh. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, trong trực giác, chúng ta biết mình nên làm gì, nhưng tâm trí chúng ta có thể vẫn thiếu hiểu biết về ý nghĩa và lý do của điều đó. Trong các vấn đề thuộc linh, rất có thể chúng ta nhận biết nhưng không hiểu. Chẳng phải là nhiều lần các tư tưởng của chúng ta bị bí lối, nhưng linh chúng ta lại nhận được sự dạy dỗ từ Thánh Linh; vào những lần đó, chúng ta kêu lên: “Tôi biết điều đó!” Nhiều lần khi chúng ta phủ nhận các tư tưởng và lý luận trong tâm trí mình và vâng phục tư tưởng của Thánh Linh được biểu hiện trong trực giác, chúng ta phải chờ đợi một thời gian dài rồi tâm trí chúng ta mới được soi sáng và chúng ta mới hiểu được lý do tại sao Thánh Linh lại dẫn dắt chúng ta theo cách đặc biệt như vậy. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể kêu lên: “Bây giờ tôi đã hiểu!” Các kinh nghiệm này nói với chúng ta rằng chúng ta “biết” tư tưởng của Thánh Linh trong trực giác của linh mình, nhưng chúng ta “hiểu” sự dẫn dắt của Thánh Linh trong tâm trí của hồn mình.
Sứ đồ John bảo chúng ta rằng sự xức dầu của Chúa cứ ở trong chúng ta và dạy dỗ để chúng ta biết mọi sự và không cần ai dạy chúng ta. Điều này chỉ về các chức năng của trực giác. Chúa ban Thánh Linh cho mọi tín đồ; Ngài cứ ở trong linh chúng ta và dẫn dắt chúng ta vào trong mọi lẽ thật. Ngài dẫn dắt như thế nào? Ngài dẫn dắt qua trực giác của linh. Trong linh, Ngài biểu hiện các tư tưởng của Ngài. Trực giác sở hữu khả năng nhận biết ý nghĩa sự thúc giục của Thánh Linh. Giống như tâm trí khiến con người có khả năng lĩnh hội những điều của thế giới thì trực giác khiến con người lĩnh hội những điều của lĩnh vực thuộc linh. Sự xức dầu nguyên thủy chỉ về sự áp dụng dầu xức. Cách mà Thánh Linh dạy dỗ, công tác và phát ngôn với chúng ta là ở trong nhân linh. Ngài không phát ngôn từ trời bằng một tiếng lớn và lửa đang cháy hoặc ném các tín đồ xuống đất bằng quyền năng của Ngài. Đúng hơn, Ngài công tác cách thầm lặng trong linh chúng ta để khiến chúng ta cảm thức một điều gì đó trong trực giác mình. Giống như dầu khi được xức lên sẽ khiến thân thể có một cảm giác nào đó thì sự xức dầu của Thánh Linh cũng ban cho linh các tín đồ một cảm nhận nào đó khi được áp dụng. Khi ý thức về cảm nhận này, trực giác sẽ biết Thánh Linh phát ngôn điều gì.
Nếu một tín đồ muốn bước theo ý muốn của Đức Chúa Trời, người ấy không cần hỏi người khác hoặc thậm chí cũng không cần tự hỏi mình. Tất cả những gì người ấy cần làm là bước đi theo sự chỉ dẫn của trực giác. Sự xức dầu sẽ dạy tín đồ “mọi sự”. Ngài sẽ không để hoặc cho phép con người tự đưa ra sự lựa chọn của mình. Những ai muốn bước đi theo linh đều phải nhận thức được điều này. Trách nhiệm của chúng ta không gì khác hơn là chịu dạy dỗ. Chúng ta không cần quyết định con đường của mình; thật ra thì chúng ta cũng chẳng có thể quyết định được gì. Bất cứ điều gì ngoài sự dẫn dắt của sự xức dầu đều chỉ là hành động của riêng chúng ta. Công tác của sự xức dầu là độc lập; nó không đòi hỏi sự giúp đỡ của con người. Nó không đòi hỏi tâm trí con người nghiêm cứu hay tình cảm con người được khuấy động; sự xức dầu biểu hiện tư tưởng của chính Thánh Linh cách độc lập. Ngài công tác cách độc lập trong nhân linh và khiến con người nhận biết ý muốn của Ngài trong trực giác của họ. Sau đó, Ngài khiến con người thực hiện các sự hướng dẫn của Ngài.
SỰ BIỆN BIỆT
Nếu đọc văn mạch của phần Kinh Thánh này, chúng ta sẽ thấy rằng vị sứ đồ diễn giảng về nhiều sự dạy dỗ giả mạo và antichrist. Ông đang nói rằng vì các tín đồ đã nhận được sự xức dầu từ Đấng Thánh, là Đấng cứ ở trong họ, nên sự xức dầu này tự phát dạy họ điều gì là thật, điều gì là giả, ai vì Đấng Christ, và ai là antichrist. Không cần con người dạy dỗ hoặc phát ngôn bất cứ điều gì; sự xức dầu cứ ở bên trong sẽ tự phát dạy dỗ. Sự biện biệt thuộc linh là điều thiết yếu ngày nay. Chúng ta không cần tham khảo nhiều sách thần học, không cần lý luận, so sánh, nghiên cứu, quan sát và suy nghĩ bằng trí năng của mình để có thể hiểu được điều gì là giả dối và điều gì là sự thật. Nếu chúng ta phải làm như vậy thì chỉ có các tín đồ uyên bác và trí thức mới có thể tự mình thoát khỏi các sự lừa dối. Đức Chúa Trời không tôn trọng sáng tạo cũ của con người. Ngoài linh của sáng tạo mới, mọi sự điều chết chóc trong mắt Ngài và phải bị kết liễu. Khả năng trí tuệ, điều mà Đức Chúa Trời nhất quyết phải hủy bỏ, có thể giúp con người phân biệt đúng sai không? Không, tuyệt đối không. Đúng hơn, Đức Chúa Trời đặt Linh Ngài vào trong linh của mỗi tín đồ để dạy người ấy điều gì thuộc và không thuộc về Ngài, bất kể người ấy có thể thiếu hiểu biết hoặc ngu dại đến đâu. Vì vậy, mặc dù có nhiều lần chúng ta không thể tìm ra lý do để chống đối một sự dạy dỗ nào đó nhưng có một cảm thức không tán thành bên trong phần sâu thẳm nhất của bản thể chúng ta. Chúng ta không biết lý do, nhưng cảm thức bên trong chúng ta bảo chúng ta rằng điều này là sai trật. Đôi khi chúng ta nghe một sự dạy dỗ hoàn toàn khác với điều chúng ta thường nắm giữ và chúng ta không muốn bước theo; nhưng bên trong chúng ta có một tiếng nói nhỏ nhẹ, kiên trì nói với chúng ta rằng đó là con đường đúng rồi và chúng ta phải bước theo. Mặc dù chúng ta có thể có nhiều lý do để chống đối lại và mặc dù lập luận của chúng ta có thể thắng nhưng tiếng nói nhỏ nhẹ này của trực giác bên trong sẽ luôn luôn nói với chúng ta và luôn luôn bảo chúng ta rằng chúng ta sai rồi.
Các kinh nghiệm này bày tỏ cho chúng ta rằng trực giác– cơ quan mà Thánh Linh công tác tại đó – có thể phân biệt đúng sai. Không cần có bất cứ sự hỗ trợ nào từ sự quan sát và nghiên cứu của tâm trí. Bất cứ một tín đồ được dưỡng dục ra sao về mặt thiên nhiên, người ấy vẫn luôn có thể được dạy dỗ bởi sự xức dầu, miễn là người ấy chân thành, ao ước và trung tín bước theo Chúa. Trong các vấn đề thuộc linh, một bác sĩ trí thức nhất và một người nhà quê thất học nhất cũng đều ngu dại như nhau. Nhiều lần, người trí thức còn phạm nhiều sai lầm hơn là người thất học nữa. Ngày nay, các sự dạy dỗ giả dối rất phổ biến. Nhiều người sử dụng các lời xảo trá để cải trang các lời nói dối của họ thành lẽ thật. Do đó, có nhu cầu về sự biện biệt trong linh về điều gì đúng và điều gì sai. Các sự dạy dỗ tốt nhất, tâm trí lanh lợi nhất, và các cố vấn lão luyện nhất, tất cả đều không đáng tin cậy; chỉ những người bước đi theo sự dạy dỗ của Thánh Linh trong trực giác mới được cứu khỏi việc lừa dối bởi các sự nhầm lẫn về thần học và nhiều tà giáo, điều kỳ diệu và phép lạ. Chúng ta phải liên tục xin Chúa làm cho linh chúng ta trở nên năng động và thuần khiết hơn; chúng ta cũng phải bước theo tiếng nói nhỏ nhẹ nhất ra từ trực giác của mình. Chúng ta đừng nên thời ơ đối với lời cảnh báo của trực giác vì một số người khác có nhiều tri thức hơn. Nếu không, chúng ta sẽ bị sa vào cái bẫy tà giáo hoặc trở nên cuồng tín. Nếu không bình tĩnh bước theo sự dạy dỗ của sự xức dầu, là điều ra từ tiếng nói nhỏ nhẹ này, chúng ta sẽ bị xao lãng bởi tình cảm rối loạn và tâm trí ồn ào.
(Người Thuộc linh)