Thứ Sáu, 7 tháng 3, 2014

CHÍN DANH NHÂN TRONG GENESIS

 

1.Ađam “đất đỏ” Chúa làm ra,                         
   Biểu lộ trị vì thế Chúa Cha;                              
   Bởi quá yêu người vợ hái trái,                          
   Ađam phạm lỗi khác người ta.                           

2.“Làn hơi nước” ý nghĩa Abên,                       
   Vì Chúa hết lòng trưởng dưỡng chiên;           
   Kẻ ác ghét ganh người tuận đạo,                     
   Chết rồi còn nói đến thiên niên.         
                
3.Đời người “yếu ớt” chóng mau qua,              
   Ê-nót kêu cầu Giê-hô-va;                               
   Kêu lớn Danh Ngài ta luyện tập,                        
   Mọi sự là Chúa cấp ban ta.                               

4.Mười vạn ngày cùng Chúa bước đi,,               
   Ơn ban Hênóc nói tiên tri;                                 
   Tên ông có nghĩa là “dâng hiến”,                        
   Chúa rước ra đi rất diệu kỳ.                                

5.Nô-ê, thầy giảng đạo công bình,
   Đóng chiếc tàu do Chúa khải minh;
   Điều chẳng thấy, lòng tin vững chắc,
   Cứu sinh vật với cả nhà mình.

6.Kia Ápram là tổ đức tin,
   Urơ gặp gỡ Đấng quang vinh;
   Qua bao thử thách càng tăng trưởng,
   Xứng đáng Bạn thân của Chúa mình.

7.Người già sinh nở đáng cười vui,
   Ysác kế thừa cha đấy thôi;
   Yên nghỉ, hưởng vui, không khổ nhọc,
   Là Christ với các thánh Ngài rồi.

8.Nhiều năm xử lý bởi Laban,
   Giacốp nên người biến đổi ngoan;
   Đến lúc Israel càng tỏa sáng,
   Trưởng thành tầm thước rất đường hoàng.

9.Áo đẹp, con yêu dấu của Cha,
   Ngôi cao Giôsép đã thấy qua;
   Lời thiêng thử thách bao năm chịu,
   Giôsép trị vì khắp đất xa.

Minh Khải