Kinh văn: Nhã 1:9,15; 2:2,14; 3:6, 7,9,10,11
Trong sứ điệp trước chúng ta đã thấy Chúa đánh giá cao
người tìm kiếm trong ba chương đầu của Nhã -ca. Chúng tôi chỉ đề cập bảy điều:
một đoàn ngựa, đôi mắt bồ câu, hoa huệ, chim bồ câu, các trụ khói, chỗ nằm nghỉ
và cái cáng (kiểu) có nghĩa là cái kiệu hoàng gia. Nhưng còn thêm một điều, mão
miện “Hỡi con gái Giêrusalem, hãy ra xem vua Salômôn đội mão miện mà mẹ người
đã độc trên đầu người, trong ngày định thân, trong ngày lòng người vui vẻ”
(3:11)
-Nhóm chữ diễn tả
Không dể hiểu kinh thánh. Tại đây có một nhóm chữ mà
thuộc cùng gia đình; tôi gọi đó là một gia đình chữ diễn tả. Nhóm chữ này mô tả
về một người và có nhiều hình thể trong lời mô tả. Ít ra có tám hình thể. Và mọi
hình thể này đều là các lời của Chúa miêu tả lời tìm kiếm của Ngài. Sự miêu tả
của Chúa về người tìm kiếm với Ngài với các hình thể khác nhau minh họa lại
tình trạng mà người tìm kiếm đã đạt được vào lúc đó. Vì vậy nếu chúng ta suy
nghĩ chung tất cả tám hình thể này và so sánh chúng với nhau, chúng ta sẽ thấy
ý nghĩa của chúng. Có sự trưởng tiến trong sự sống và sự biến đổi bằng sự sống.
Trước hết mọi sự, Chúa Jesus đã dùng hình thể con ngựa.
Kể từ Ngài diễn giảng về đôi mắt bồ câu. Nàng chưa là con bồ câu, nhưng có đôi
mắt bồ câu. Rồi sau đôi mắt bồ câu có bông huệ. Con bồ câu là một thực thể hoàn
bị theo sau hoa huệ. Tiếp theo con bồ câu có trụ khói, chỗ an nghỉ và cái kiệu
(cáng). Và cuối cùng có mão miện. Nếu chúng ta cầu nguyện về tám hình thể này,
tôi tin Đức Thánh Linh sẽ bày tỏ đôi điều rất có ý nghĩa cho chúng ta. Nhưng
gánh nặng của chúng tôi không phải là giải nghĩa sách Nhã -ca. Gánh nặng của
tôi là phải có sự tương giao thông suốt với các anh em, hầu tất cả chúng ta có
thể biết con đường tiếp lấy sự sống của Chúa. Rất nhiều Cơ - Đốc nhân thảo luận
Đấng Christ là sự sống nhưng rất ít người biết làm sao kinh nghiệm Ngài là sự sống.
--Đấng
Christ là sự sống
Đường lối để vui hưởng và kinh nghiệm Đấng Christ là sự
sống ở trong Nhã -ca. Tư liệu “sự sống” không có trong sách này nhưng có đường
lối vui hưởng Đấng Christ là sự sống. Đường lối để vui hưởng Đấng Christ là sự
sống chỉ là yêu Ngài như là thân vị kỳ diệu. Phúc âm Giăng không phải là sách
giáo lý, của ân tứ hay quyền năng, đó là sự giới thiệu về thân vị kỳ diệu. Nhã
-ca cũng đích xác như vậy. Không có hoặc giáo lý hay các tư liệu giáo lý trong
sách này. Không có ân tứ hay quyền năng. Tám chương sách này khải thị một thân
vị khả ái cho chúng ta. Ngài hoàn toàn đáng yêu. Thân vị này không chỉ là sự sống
của chúng ta, nhưng cũng là sinh hoạt của chúng ta. Trong Nhã -ca, Đấng đáng yêu
này chỉ là sự sống và sinh hoạt của người tìm kiếm Ngài. Người tìm kiếm tiếp lấy
Đấng khả ái này làm sự sống ở bên trong và sinh hoạt nàng ở bên ngoài và đường
lối để nàng làm như vậy là yêu Ngài. Ô, chúng ta phải yêu một thân vị như vậy.
Rồi chúng ta sẽ tiếp lấy Ngài làm sự sống chúng ta và làm sinh hoạt của chúng
ta. Ngài sẽ trở nên sự đàm thoại của chúng ta và làm sinh hoạt của chúng ta.
Ngài sẽ trở nên sự đàm thoại của chúng ta, bước đi của chúng ta, thái độ của
chúng ta, biểu hiện của chúng ta và mọi sự của chúng ta. Ngài không chỉ trở nên
sự sống chúng ta ở bên trong, nhưng sinh hoạt chúng ta ở bên ngoài. “Đối với
tôi, sống là Đấng Christ” đây là Nhã –ca.
--Sự
thay đổi liên tục
Sách này không chỉ giới thiệu bức tranh về thân vị kỳ
diệu, yêu thương này, nhưng cũng đưa ra bức tranh minh bạch về người tìm kiếm rất
mực yêu Ngài. Đây là tại sao có sự thay đổi liên tục trong việc nàng trưởng tiến
trong sự sống. Chúng ta không thể không có sự trưởng tiến trong sự sống và có sự
biến đổi trong sự sống nếu chúng ta là người yêu thiết thực của Jesus. Nếu anh
em nói rằng anh em yêu Chúa Jesus, song
le anh em vẫn y nguyên từ năm này sang
năm kia, tôi không tin anh em. Nếu một người thực sự yêu Chúa, sẽ có sự trưởng
tiến và sự biến đổi liên tục trong sự sống. Điều đó không do giáo điều, giáo huấn
sửa sai hay chỉnh lý. Tôi không có sự tin tưởng nơi các điều này. Họ chỉ có thể
điều chỉnh một ít theo đường lối bề ngoài như các nhà thầu ma chay làm việc
trên một thây chết. Họ tạo được vài thay đổi nhưng chúng đều bề ngoài. Không có
điều nào xuất phát từ sự sống. Không có sự trưởng tiến, không có sự biến đổi,
không có sự chấn hưng, không có sự thay đổi và không có sự tiến triển sinh động.
Hãy coi người tìm kiếm trong Nhã -ca. Nàng đang trưởng
tiến, thay đổi và được biến đổi luôn luôn. Có sự biến đổi từ con ngựa đến con bồ
câu là dường nào! Từ bồ câu đến trụ khói. Từ trụ khói đến chỗ nằm nghỉ. Từ chỗ
nằm nghỉ đến cái kiệu và từ cái kiệu đến mão miện. Trong tất cả các hình thể
này chúng ta có thể thấy và nhận thức sự trưởng tiến trong sự sống của một người
tìm kiếm như vậy. Điều đó không do lời dạy dỗ và tôi vẫn cứ phải lặp lại rằng
điều đó không do ân cứ. Chúng ta có thể nhận thức rằng không có sự biến đổi sự
sống có thể xuất phát từ bất cứ ân tứ nào. Trong Giăng 2, chúng ta đọc về nhiều
người đã thấy các phép lạ do Chúa thực hiện và vì vậy đã tin Ngài. Song le Chúa
không muốn giao thác chính mình Ngài cho các người tán thưởng phép lạ. Chúng ta
không phải là các người tán thưởng phép lạ, nhưng các người tán thưởng thân vị -
những người yêu và tìm kiếm chính mình Chúa. Rồi sẽ có sự trưởng tiến trong sự
sống và biến đổi của sự sống.
--Sức
mạnh thiên nhiên thế tục
Bây giờ tất cả chúng ta cần nhìn vào tám hình thể này
cách chi tiết hơn. Trong kinh thánh, con ngựa luôn luôn biểu thị sức mạnh và tốc
lực (Thi 33:17, 147:10) Đây là những con ngựa dùng cho Vua Ai Cập. Hỡi bạn tình
ta, ta sánh mình như bầy ngựa này biểu thị trong các xe cộ của Pharaôn”(1:9). Các con ngựa này biểu thị
sức mạnh thiên nhiên theo một đường lối thế tục. Người tìm kiếm của Chúa đang
dùng sức mạnh của nàng để tìm kiếm Chúa. Trong câu 7 nàng cầu nguyện” Hỡi người
mà hồn tôi yêu, xin tỏ cho tôi biết chàng muốn nuôi bầy tại đâu? Ban trưa cho bầy
chàng nghỉ tại nơi nào?” Nàng đã cầu nguyện về khâu nuôi dưỡng và sự an nghỉ của
Chúa. Chúa đáp cùng nàng trong câu 8 “Hỡi người đẹp hơn hết trong các người nữ,
nếu người chẳng biết, hãy ra theo các dấu chân của bầy và nuôi dưỡng các con dê
con bên trại các kẻ chăn chiên”. Nên nàng đã bước theo trong đường lối mạnh mẽ như
vậy đến nổi Chúa đã ngợi khen nàng trong ý nghĩa là nàng giống như một bầy ngựa
trong xe cộ của Pha ra ôn. Đây là đường lối tốt, nhưng tốt theo thiên nhiên và
thế tục anh em đang tìm kiếm Chúa, nhưng anh em lôi kéo thế giới theo sau anh
em. Trong khi anh em tìm kiếm Chúa, anh em khác không được ấn tượng về Chúa,
nhưng được đôi điều của Pha ra ôn. Anh em không chuyển vận Salômôn, nhưng Pha
ra ôn
Nhiều bạn trẻ trong các hội thánh đang thực sự tìm kiếm
Chúa. Song le họ mang theo “các xe cộ của Pha ra ôn” vài món đồ từ Ai Cập, vài
điều từ thế giới được lôi kéo sau lung họ. Đó không phải là điều tà ác, nhưng
vài điều của Pha na ôn. Đôi lúc điều đó có tính cách bệ vệ và hoàng gia, song
le xuất phát từ thế giới. Người trẻ được Chúa thu hút và họ đang yêu Chúa, nhưng
họ vẫn là con ngựa trong xe cộ của Pha ra ôn” mang theo đôi điều của thế giới.
Họ không giống các kiệu của Salômôn, chuyển vận Đấng Christ.
Chúng ta có đang thực sự tìm kiếm Chúa không? Rồi chúng ta chuyển vận
ai ? Chúng ta đang chuyển vận Pha ra ôn hay chúng ta đang chuyển vận
Salamôn ? Nếu chúng ta đang khiêng Pha ra ôn, chúng ta chỉ là một con ngựa,
được dùng là một phương tiện để kéo xe của hắn. Nhưng nếu chúng ta khiêng
Salômôn, chúng ta là một cái kiệu, một dụng cụ để người ngồi ở trên. Salômôn được
chứa đựng trong đồ dùng này. Nhưng nếu chúng ta muốn khiêng Salômôn chúng ta phải
làm một món đồ dùng, một bình chứa tức các kiệu của người.
--Trưởng tiến bằng sự đánh giá
Tiếp sau sự đánh giá đầu tiên của Chúa về người tìm kiếm,
nàng đã vui hưởng Chúa càng thêm càng hơn và nàng đã đánh giá Chúa. « Giữa
1 :9 và 1 :15 có một số câu bày tỏ thế nào Chúa đánh giá nàng và thế
nào nàng đánh giá Chúa. Nàng nói : « người yêu của tôi giống như bó
hoa một dược cho tôi, nằm ở giữa nương long tôi. Người yêu của tôi giống như
chum hoa phụng tiên cho tôi trong vườn nho Ênghêđi”. (1:13-14). Nhờ các sự đánh
giá nầy về Chúa, đã có sự trưởng tiến trong sự sống và sự biến đổi bằng sự sống.
Sự đánh giá thiết thực về Chúa luôn luôn mang đi lại sự trưởng tiến trong sự sống
và sự biến đổi bằng sự sống. Sự đánh giá thiết thực về Chúa luôn luôn mang lại
sự trưởng tiến trong sự sống và sự biến đối bằng sự sống có thời kỳ tìm kiếm
Chúa thêm nữa bằng cách đánh giá Ngài ở giữa các câu 9 và 15.
Sự
sáng suốt thuộc linh.
Tiếp theo điều nầy, hình thể kế tiếp được Chúa dùng
miêu tả nàng là đôi mắt bồ câu. “Hỡi bạn tình ta, mình thanh lịch thay, mình
thanh lịch thay! Đôi mắt mình như đôi mắt bồ câu” (1:15). Nàng vốn thế tục và
thiên nhiên, nhưng bây giờ nàng bắt đầu có sự sáng suốt thuộc Linh (Mathiơ
3:16). Đôi mắt bồ câu biểu thị sự sáng suốt, sự hiểu biết và sự nhận thức của
Linh.
Nếu chính tôi phải phát ngôn với số người trẻ về tóc
dài của họ, bất luận họ có yêu Chúa nhiều bao nhiêu, họ sẽ bị vấp phạm. Điều nầy
vì cớ họ vẫn còn giữ quan niệm thiên nhiên về mái tóc của họ. Nhưng nếu họ đã
đánh giá Chúa càng thêm càng hơn, loại đánh giá nầy sẽ mang lại quan niệm thuộc
linh và sự sáng suốt của Linh. Đôi mắt ngựa sẽ biến đổi thành đôi mắt bồ câu. Rồi
họ sẽ nhìn tóc họ, bộ ria mép của họ bằng cặp mắt khác biệt. Tôi biết rằng
thanh niên ngày nay thích các điều nầy. Họ có các quan niệm thiên nhiên, nhưng
họ chỉ có đôi mắt man dại của con ngựa. Nhưng Chúa Jesus rất thiết thực có thể
thay đổi đôi mắt ngựa của chúng ta thành đôi mắt bồ câu. Chúng ta càng đánh giá
Ngài, thị quan của chúng ta sẽ càng được biến đổi.
Đôi mắt bồ câu là sự sáng suốt thuộc linh xuất phát từ
khâu nhìn chăm chú vào Chúa và đặt sự tin cậy của chúng ta nơi Ngài. Khi nào
đôi mắt người tìm kiếm đã trở nên đôi mắt bồ câu, nàng sẽ mất sự tin tưởng của
nàng vào sức mạnh thiên nhiên của mình.
Nàng đã quay từ sức thiên nhiên của nàng để đến cùng
Chúa và liên tục nhìn xem Ngài. Nhờ nàng đánh giá Chúa, nàng nhận lãnh quan niệm
thiên thượng và sự sáng suốt thuộc linh. Bây giờ nàng có đôi mắt bồ câu để nhìn
xem mọi sự theo đường lối mới mẻ. Nàng chưa trở thành con bồ câu đầy trọn,
nhưng ít ra nàng có đôi mắt chim bồ câu. Ít ra quan niệm của nàng. Sự sáng suốt
của nàng và cái nhìn của nàng đến Chúa giống như đôi mắt bồ câu.
-Đời
sống đức tin.
Rồi sau khi có đôi mắt bồ câu, nàng trở nên hoa huệ.
“Bạn tình ta ở giữa đám con gái như hoa huệ ở giữa gai góc” (2:2). Trong kinh
thánh, hoa huệ biểu thị một sinh hoạt sống hoàn toàn bằng đức tin. Xem lời Chúa
phán ở Math 6:28-30 về hoa huệ. Bông huệ là một trong các người tìm kiếm của Chúa,
đang sống trên trái đất nầy, nhưng không nhờ trái đất nầy. Anh ta sống bằng
cách tin cậy Đức Chúa Trời, anh ta không tin cậy trái đất nầy. Nhờ đức tin như
vậy, anh ta trở nên thánh khiết như các bông huệ trắng. Đây là các người thánh
khiết đang sống bằng đức tin nơi Đức Chúa Trời. Không chỉ chính Chúa coi người
tìm kiếm ở đây như bông huệ, nhưng thậm chí chính nàng tự nhận là bông huệ.
Nàng nói trong 2:16 “Người yêu của tôi thuộc về tôi, tôi thuộc về người, người
chăn bầy mình giữa đám bông huệ”. Nàng là một trong các bông huệ, và Chúa đang
chăn bầy mình ở giữa các bông huệ này.
--Con
bồ câu hoàn bị
Có thêm một sự chấn hung là đôi mắt bồ câu đến hoa huệ.
Bây giờ nàng không chỉ nhìn xem Chúa nhưng cũng có đức tin thực tiễn nơi Ngài.
Nàng không chỉ đã mất sức mạnh và sự tin tưởng thiên nhiên của mình nhưng nàng
cũng có đức tin thiết thực nơi Đức Chúa Trời. Nàng đã loại bỏ sự tin cậy của
nàng nơi sức mạnh con ngựa của mình. Và bây giờ nàng đã có sự tin cậy sinh động
nơi Đức Chúa Trời. Nàng không chỉ có đôi mắt của chim bồ câu, nhưng cũng có đức
tin thanh khiết của bông huệ. Halêlugia! Bức tranh kỳ diệu biết bao! Nên cuối
cùng, sau khi trở nên hoa huệ, nàng trở thành chim bồ câu hoàn bị “Hỡi chim bồ
câu ta trong hóc vầng đá, tại các chỗ kín mật của các bậc thang, hãy cho ta xem
dung quang mình, cho ta nghe tiếng mình, vì tiếng mình êm dịu và dung quang
mình có duyên” (2:14).
Mọi sự chấn hưng và mọi giai đoạn trưởng tiến trong sự
sống chỉ có thể đạt được bằng cách tiếp lấy Đấng Christ làm Thân vị của chúng
ta. Chúng ta phải yêu Ngài, đánh giá Ngài và học tập sống bởi Ngài càng ngày
càng hơn. Rồi chúng ta sẽ tiến triển từ con ngựa đến đôi mắt bồ câu, hoa huệ và
cuối cùng là con bồ câu hoàn bị. Người tìm kiếm đang liên tục giao thiệp với
Chúa trong tất cả các giai đoạn nầy. Nàng đã học tập tiếp lấy Chúa như mọi sự của
nàng, nhờ điều nầy nàng cứ trưởng tiến và chấn hưng có một sự biến đổi liên tục
từ giai đoạn con ngựa đến giai đoạn bồ câu.
Một
thời kỳ lâu dài.
Nhưng điều nầy chưa hết. Con bồ câu đáng yêu và thanh
lịch, nhưng không nhiều hữu dụng. Có một thời kỳ lâu dài sau giai đoạn bồ câu.
Có một khoảng thời gian từ 2:14 đến 3:6. Các câu ở giữa bày tỏ thời kỳ lâu dài
đó. Có hóc vầng đá, có nơi kín mật của các chỗ bực thanh, một dược và nhũ
hương, với mọi loại hương liệu của con buôn các điều nầy là các hình thể thi ca
miêu tả sự chết, phục sinh và thăng thiên của Chúa.
--Ngụ
tại thập tự giá.
Hóc vầng đá biểu thị thập tự giá. Đấng Christ là hóc vầng
đá bị đập vỡ vì chúng ta. (Xuất 17:6, 1 Cô 10:4). Do đó hóc vầng đá biểu thị sự
đóng đinh của Ngài là thập tự giá của chúng ta. Đây là nơi chúng ta phải ngụ
trong sự đóng đinh của Ngài. Sứ đồ Phaolô vẫn luôn kinh nghiệm sự chết của Đấng
Christ. Ông nói: “Tôi đã bị đóng đinh với Đấng Christ” (Galati 2:20). Ông cũng
chia sẻ rằng mình đã luôn mang khâu giết chết của Jesus trong thân thể…vì chúng
tôi vì cớ Jesus, luôn bị nộp cho sự chết…nên sự chết hoạt động trong chúng
tôi”.(II côr 4:10-12). Đây là ý nghĩa con bồ câu ở trong hóc vầng đá. Chỉ sau một
thời gian dài kinh nghiệm nầy mới đem chúng ta tiến đến giai đoạn kế tiếp.
Tại đây chúng ta cần vài minh họa thực tiễn. Giả sử
tôi đang ở chung với anh em. Sống chung là diệu kỳ nhưng lắm lúc cũng kinh khủng.
Họ có nhân phẩm và bản tính thiên nhiên riêng, và tôi có phần của tôi. Chúng
tôi đều khác nhau. Giả sử nhân phẩm của tôi vấp phạm nhân phẩm anh em nầy. Anh
ta sẽ làm gì? Anh ta phải nói: “Chúa Jesus ôi, xin giữ tôi tại hóc vầng đá. Xin
giữ tôi tại thập tự giá. Xin thập tự giá xóa bỏ tôi”. Nhờ điều nầy Chúa sẽ có
thể truyền đạt đôi điều vào trong anh ta. Chúng ta phải ngụ trong hóc vầng đá
trong mọi tình thế khác nhau của mình. “Chúa Jesus ôi, con đã bị đóng đinh với
Ngài. Bị đóng đinh với Đấng Christ trên thập tự giá là ngụ tại hóc của vầng đá.
Ẩn
náu trong sự thăng thiên.
Chúng ta cũng phải ngụ trong nơi kín mật các chỗ bực
thang, nơi chúng ta kinh ngiệm sự thăng thiên của Chúa. Điều nầy cũng được đề cập
trong Thi 91:1 “Người nao cư trú nơi kín đáo của Đấng Chí cao sẽ cư ngụ dưới
bóng của Đấng Toàn Năng”. Tất cả chúng ta phải học tập ẩn mình trong nơi kín
đáo của Đấng Chí cao. Điều nầy có nghĩa ở trong hiện diện của Đức Chúa Trời ở
các nơi thiên thượng, đó là ngụ trong sự thăng thiên của Chúa. Nếu tôi bị bối rối
bởi người nào hay tình thế đặc biệt nào, tôi phải cầu nguyện, “Chúa Jesus ôi,
xin giữ con cư ngụ trong nơi kín mật của các chỗ bậc thang. Chúa ôi, nguyện con
cư ngụ tại thập tự giá của Ngài và nguyện con ngụ trong hiện diện Ngài tại các
nơi trên trời”. Theo đường lối nầy, tôi bị xóa bỏ, và mọi sự đều ở dưới chân
tôi. Halêlugia!
Đây là sự tác thành kỳ diệu trong sự biến đổi của sự sống.
Không ai không thể được biến đổi sự sống như vậy. Đang khi chúng ta ở tại thập
tự giá và ở tại các nơi thiên thượng trong hiện diện của Chúa, sẽ có sự trưởng
tiến thiết thực trong sự sống và sự biến đổi của sự sống.
Được
thẩm nhuần bằng sự chết và sự phục sinh.
Rồi sau một thời kỳ lâu dài, qua các kinh nghiệm như vậy,
chúng ta đến chương 3 câu 6, “người kia là ai, từ đồng vắng đi lên, giống như
các trụ khói, xông một dược và nhũ hương, với đủ các hương liệu của con buôn?”.
Nói cách tốt hơn”, được thấm nhuần bằng một dược và nhũ hương”. Theo hình bóng
học, một dược biểu thị hương thơm sự chết của Jesus, còn nhũ hương biểu thị
hương vị của sự phục sinh Ngài. Tất cả chúng ta phải được thấm nhuần bằng hương
vị sự chết và phục sinh của Đấng Christ. Rồi chúng ta sẽ thấm nhuần bằng một dược
và nhũ hương. Đây không phải là giáo lý, điều đó cần thì giờ. Chúng ta cần ở dưới
sự thấm nhuần nhũ hương của sự chết và phục sinh của Đấng Christ.
Ngoài một dược và nhũ hương, cũng còn có các hương liệu
của con buôn. Đấng Christ là thương gia, và mọi hương liệu dịu ngọt của Ngài dần
thấm chúng ta. Chúng ta phải được thấm nhuần bằng sự chết và phục sinh của Đấng
Christ và bằng mọi thuộc tánh của Đấng Đấng Christ thiên thượng. Chắc chắn điều
này sẽ phát sinh sự biến đổi thiết thực
--Các trụ cột nâng đỡ mối lưu
tâm của Đức Chúa Trời
Bây giờ người tìm kiếm trở thành các trụ khói đang đứng
trên trái đất, nâng đỡ sự mở rộng. Theo Hoa văn, chúng tôi có câu châm ngôn tốt
nói về một người đúng trên đất chống đỡ các từng trời. Sứ đồ Phaolô và Giăng là
loại người này. Họ là các trụ khói trong toàn vũ trụ để nâng đỡ bầu trời ở hôm
nay. Khi đọc văn phẩm của họ, chúng ta nhận thức rằng họ là các trụ cột của bầu
trời. Khi chúng ta trở nên trụ cột như vậy, Chúa có thể giao thác mục đích Ngài
cho chúng ta và trên chúng ta. Chúng ta là các trụ cột như vậy, đứng vững và
không rung động. Hình thể này rút ra từ phương pháp kiến trúc thời xưa mà họ
không dùng các bức tường để nâng đỡ kiến ốc, nhưng các trụ hay các cây cột. Mọi
sự đều dựa trên các trụ đỡ đó. Đây là tại sao Phaolô đề cập Phierơ và Giăng như
là các trụ cột của hội thánh, Galati 2:9. trong 1 Tim. 3:15, hội thánh của Đức
Chúa Trời hằng sống được nói đến như trụ và nền của thực tế. Bây giờ người tìm
kiếm trở nên cây trụ như vậy để nâng đỡ mối lưu tâm của Đức Chúa Trời trên trái
đất.
--Sự an nghỉ của Đấng Christ
Người này là ai? “Kìa chỗ an nghỉ của Salômôn, có sáu
mươi dũng sĩ trong bọn dõng sĩ Ysơraên vây xung quanh nó” (3:7) có được câu trả
lời vì bây giờ nàng là chỗ an nghỉ của Salômôn. Câu hỏi về nàng, nhưng câu hỏi
về Salômôn. Điều này vì cớ bây giờ nàng hiệp một với Salômôn, nàng là một với Đấng
Christ. Đấng Christ là nội dung, nàng là bình chứa dựng. Chỗ an nghỉ là loại
bình chứa đựng để nắm giữ nội dung, không để di chuyển nhưng để an nghỉ trong
ban đêm. Các dũng sĩ ở xung quanh chỗ an nghỉ này. Chắc chắn điều này có nghĩa
bây giờ nàng bước vào giai đoạn của tình trạng chiến tranh thuộc linh. Chỉ các
ngươi trưởng thành có thể chiến đấu trong chiến trận và tại đây thâm chí cuộc
chiến khai diễn vào ban đêm. Tuy nhiên, thậm chí trong suốt cuộc chiến về đêm, Đấng
Christ vẫn có thể có sự an nghỉ của Ngài trong người tìm kiếm như vậy. Người này
là ai? Đây là sự an nghỉ của Đấng Christ. Nàng không chỉ là trụ cột đang nâng đỡ
các mối lưu tâm của Đức Chúa Trời trên trái đất, nhưng cũng là chỗ an nghỉ cung
cấp sự an nghĩ cho Đấng Christ, thậm chí trong suốt cuộc chiến vào ban đêm.
Bây giờ nàng không quá lo lắng về sự thỏa mãn riêng của
mình, nhưng về sự thỏa mãn của Đấng Christ. Trong chương 2, nàng ở dưới cây cam
cho sự thỏa mãn của mình, nhưng bây giờ Salômôn nằm xuống và có sự thỏa mãn của
Đấng Christ. Trong chương 2, nàng ở dưới cây cam cho sự thỏa mãn của mình,
nhưng bây giờ Salômôn nằm xuống và có sự thỏa mãn của Ngài ở trong nàng. Người
này là ai ? Đây là chỗ an nghỉ của Salômôn, chỗ an nghỉ trong suốt cuộc
chiến ban đêm.
--Dụng cụ di động của Đấng
Christ
Nhưng nàng không chỉ là chỗ an nghỉ của Salômôn an nghỉ
về đêm. Nàng cũng là các kiệu cho Ngài di chuyển ban ngày. Vua Salômôn đã làm
cho mình một cái kiệu bằng gỗ bá hương (của Liban). Người làm các trụ của nó bằng
bạc, nơi dựa lưng bằng vàng, chỗ ngồi bằng vật màu điều, còn ở giữa lót bằng ái
tình của con gái Giêrusalem” (3:9-10). Bây giờ người tìm kiếm là dụng cụ chứa đựng
Đấng Christ, chuyển vận Đấng Christ trong sự chuyển động của Ngài. Cái kiệu là
chiếc xe hoàng gia bệ vệ. Là dụng cụ, nó chứa dựng thân vị nó mang đi. Nên bây
giờ nàng là chiếc bình di động của Đấng Christ. Đấng Christ di động bằng cách được
chứa đựng trong nàng. Đang khi nàng chứa đựng Ngài, Ngài di động trong nàng và
với nàng. Halêlugia! Đây là kiệu của Đấng Christ.
Điều thích thú là nhìn thấy cái kiệu làm bằng gì. Nó
làm bằng gỗ, bạc và vàng. Gỗ là cây bá hương của Liban. Điều này biểu thị nhân
tính của Chúa. Các cây trụ là bạc mà luôn luôn biểu thị sự cứu chuộc của Đấng
Christ cái kiệu được cứu chuộc của Đấng Christ nâng đỡ. Nơi dựa, cái đế làm bằng
vàng, biểu thị bản chất và sự sống của Đức Chúa Trời. Bản chất thần thượng của
Đức Chúa Trời là cái đế. Khi chúng ta đọc, cầu nguyện tất cả các điều này chúng
ta thấy người tìm kiếm đã được biến đổi nhiều biết bao. Có nhân tính của Jesus,
thần tính của Đức Chúa Trời và sự cứu chuộc của Đấng Christ đã truyền mọi điều
đó vào trong nàng. Chỉ những điều này có thể làm một cái kiệu cho Đấng Christ.
Chúng ta phải có được ba nguyên liệu này truyền đạt vào chúng ta. Rồi là một
cái kiệu cho Đấng Christ, chúng ta sẽ được tạo nên bằng nhân tính của Jesus, sự
cứu chuộc của Đấng Christ, và bản chất thần thượng của Đức Chúa Trời. Tất cả đều
rất có ý nghĩa Cũng có sự trang trí ở bên trong được lót bằng tình yêu từ các
con gái Giêrusalem. Phần bên trong chúng ta không gì khác hơn tình yêu của chúng
ta đối với Đấng Christ. Là một cái kiệu cho Đấng Christ, chúng ta được trang
trí và lót ở bên trong bằng tình yêu chúng ta đối với Chúa. Đây là tại sao toàn
sách này là một câu chuyện tình yêu. Thậm chí khi chúng ta được biến đổi đến một
giai đoạn như vậy, phần bên trong chúng ta được lót bằng tình yêu. Đây là cái
kiệu mang Chúa đi kiệu làm bằng nhân tính của Jesus, sự cứu chuộc của Đấng
Christ, thân tính của Đức Chúa Trời và phần bên trong được lót bằng tình yêu đối
với Jesus.
--Mão miện đám cưới
Rồi cuối cùng người như vậy trở nên mão miện “hỡi các
con gái Si ôn, hãy ra xem vua Salômôn đội mão miện mà mẹ người đã đội trên đầu
trong ngày định thân, trong ngày lòng người vui vẻ” (3:11). Đã có vấn đề: người
này là ai? Thứ nhất, câu trả lời là: đó là chỗ nằm nghỉ của Salômôn để an nghỉ
và cái kiệu để ông di chuyển. Rồi thứ hai, đây là Salômôn với mão miện của ông.
Bây giờ nàng là mão miện của Salômôn.
Đây không phải là mão miện của vương quyền,
nhưng là mão miện vào ngày hôn lễ. Đó là mão miện để Đấng Christ kết hôn với
chúng ta. Ngài
là Tân lang và chúng ta là Tân phụ. Cuối cùng Tân phụ trở nên mão miện cho
chàng rễ. Ha lê lu gia.
Có thêm một điều chúng ta phải thấy.
Khi người tìm kiếm còn là con ngựa yêu Chúa, nàng đầy dẫy các ý kiến riêng. Thậm
chí là một con bồ câu bé nhỏ, nàng vẫn còn một loại nhân phẩm nào đó. Khi nàng
trở nên các trụ cột, chỗ nằm nghỉ, cái
kiệu và mão miện, nàng đã mất nhân phẩm.
Điều đó phát sinh vì đã được thầm nhuần
bằng một dược, nhũ hương, sự chết và sự phục sinh của Đấng Christ trong
sự an nghĩ của Ngài và trong sự di động của Ngài. Đây là đường lối tiếp lấy Đấng
Christ làm sự sống của chúng ta. Nhờ yêu Ngài như thân vị, vui hưởng Ngài như sự
thỏa mãn của chúng ta, và kinh nghiệm Ngài
trong rất nhiều đường lối nên chúng ta có thể trở nên sự biểu hiện đầy
trọn của Ngài.