--Tên Tuổi-
Si-la có hai tên được sử dụng
trong Kinh Thánh, Si-la và Si-vanh. Tên Si-la được sử dụng 13 lần trong Tân Ước,
tất cả trong sách Công-vụ (15:22, 27, 32, 34, 40, 16:19, 25, 29, 17: 4, 10, 14,
15; 18 : 5). Tên khác của ông, Si-vanh, chỉ được sử dụng bốn lần và chỉ có
trong các thư tín (1Phiero 5:12, 1Tê 1: 1, 2Tê 1: 1, 2 Cor 1:19). Ông Edmond
Hiebert đã lưu ý: "Si-la rõ ràng là hình thức tiếng Hy Lạp của tên Aramaic
cho tên Sau-lơ, một tên theo tiếng Hê-bơ-rơ, trong khi Si-vanh là tên La-tinh của
ông ta. Si-la có thể đã chọn tên La-tinh vì sự giống nhau của nó trong âm thanh
với tên Hê bơ rơ của ông". Người khác lại gợi ý: "Cái tên Si-vanh là
một danh hiệu Rôma, một dạng của chữ Si-la được La tinh hóa" (Gillman
1992: 6: 22). Tên Latin của ông cho biết ông có quốc tịch La Mã. Lưu ý lời của
Phao-lô nói cho các thẩm phán tại Phi-líp: “Chúng tôi [Phaolô và Si-la] là công
dân Rô-ma, thế mà khi chưa định tội, họ đã đánh đòn chúng tôi giữa công chúng rồi
tống giam vào ngục; bây giờ họ lại lén lút thả chúng tôi sao? Không thể được! Họ
phải đích thân đến đây để thả chúng tôi!”(Công vụ 16:37). Giống như Phao-lô, Si-la
có quốc tịch La Mã. Làm thế nào ông đã nhận được quốc tịch đó, chúng ta không
biết.
--Phác họa Tiểu sử Cuộc đời của
ông-
Hãy bắt đầu với một bản phác thảo
ngắn gọn về cuộc đời của vị sứ đồ nầy. Phần đầu cuộc đời của Si-la hơi mơ hồ.
Chúng ta có những gợi ý trong Kinh Thánh cũng như các lời phát biểu trong các
bài viết của các vị giáo phụ ban đầu về những gì Si-la đã làm. Theo truyền thống
của hội thánh, Si-la là một trong bảy mươi môn đồ được Chúa Giêsu sai đến Bê-rê
trong khoảng thời gian vào năm 29. Lu-ca đã viết về sự kiện này, nhưng không
cung cấp cho chúng ta tên của những cá nhân này: "Sau đó, Chúa chỉ định bảy
mươi môn đồ khác và sai từng đôi một đi trước Ngài vào tất cả các thành và các
nơi mà chính Ngài sẽ đi sau " (Luca 10: 1). Chúng ta không có cách nào xác
nhận truyền thống này, nhưng điều thú vị cần lưu ý là bất cứ khi nào Si-la đi
trong chuyến đi truyền giáo, ông luôn tuân theo nguyên tắc "từng đôi"
do Chúa Giê-su lập ra và có người khác đi với ông, tức là Si-la và Phi-e-rơ, Si-la
và Giu-đe, Si-la và Phao-lô, hoặc Si-la và Ti-mô-thê (xem Mác 6: 7).
Chúng ta có một gợi ý trong Công
vụ 15 về vai trò mà Si-la lãnh trong những năm đàu xây dựng hội thánh ở Giê-ru-sa-lem.
Lần nữa Lu-ca viết rằng, lần này liên quan đến quyết định của hội thánh vào năm
49 sau Công nguyên: "Sau đó, các sứ đồ và trưởng lão cùng cả Hội Thánh quyết
định chọn những người trong số họ và phái đi với Phao-lô và Ba-na-ba đến An-ti-ốt.
Họ phái Giu-đa, cũng gọi Ba-sa-ba và Si-la, là hai người thuộc hàng lãnh đạo
trong vòng anh em" (15:22). Chú ý hai điều về Giu-đa và Si-la, họ đã được
chọn là những người từ trong hội thánh tại Giê-ru-sa-lem cũng như những người
lãnh đạo trong hội chúng. Điều này chỉ ra rằng Si-la đã tích cực tham gia vào
công việc của Chúa ở Giê-ru-sa-lem.
Chúng ta cũng có thể giả định, bởi
vì việc xây dựng hội thánh đầu tiên ở Giê ru sa lem là thuộc người Hê-bơ-rơ, và
Si-la cũng là người Hê-bơ-rơ.
Một trong những giáo phụ đầu tiên
của hội thánh có tên là Eusebius Hieronymus, còn được gọi là Jerome (khoảng
347-419 ), đã đồng là tác giả một cuốn sách được gọi là Lives of Illustrious
Men (Đời sống những người nổi tiếng). Jerome là thư ký cho giáo hoàng Damascus
từ năm 382-385 và có vẻ như đã tiếp cận được một số hồ sơ của Tòa thánh Vatican
trước đó, điều này có thể giúp ông trong công việc viết quyển sách này, viết ở
Bết lê-hem vào năm 492. Trong các cuộc đời đó, Jerome và Gennadius cho ra bản
phác thảo tiểu sử về 135 tác giả Cơ Đốc từ thời Phi-e-rơ đến cuối thế kỷ thứ 5
sau CN.
Trong tiểu sử của Phi-e-rơ,
Jerome viết: "Simon Phi-e-rơ, con của Giăng, từ làng Bết-sai-đa ở tỉnh
Ga-li-lê, em của Anh-rê, là một sứ đồ,
và chính mình ông là trưởng các sứ đồ. Sau khi làm giám mục hội thánh của An-ti-ốt
và đã rao giảng cho những người Hê bơ rơ tản lạc nhiều nơi- những người tín đồ tin
vào phép cắt bì, tại Pontus, Galatia, Cappadocia, châu Á và Bithynia - Phi-e-rơ
đã được đưa đẩy lên Rome vào năm thứ hai của sê sa Cơ-lau-đe" (Nicene và
Post-Nicene Fathers, 2nd series, 3 : 361). Hoàng đế Cơ-lau-đe trị vì từ năm 41
đến năm 54, vì vậy năm thứ hai là năm 42 S.C.
Nếu Jerome đúng trong bản tuyên bố
theo trình tự thời gian này, nó có ảnh hưởng trực tiếp đến niên đại của cuộc đời
Si-la và ngày trước tác thơ I Phi-e-rơ. Theo I Phi-e-rơ 5:12, hoặc là Si-la
cùng với Phao-lô ở Rô-ma vào năm 42, viết thư này cho anh ta trở lại với các
tín hữu mà họ vừa rao Tin lành ở Pontus, Galatia, Cappadocia, Châu Á và
Bithynia (sau đây gọi là các vùng thăm viếng cuộc hành trình truyền giáo đầu
tiên của Phi-e-rơ], và hoặc Si-la là người vận chuyển thư tín này trở về các hội
thánh mới thành lập ở những vùng này. Tôi nghi ngờ Si-la đã viết cả bức thư nầy (I Phi-e-rơ) cùng với Phi-e-rơ ở Rôma cũng
như có trách nhiệm đưa nó trở lại các hội thánh trong năm 42 S.C.
Mỗi sách bình luận về thơ I
Phi-e-rơ và sách Công vụ, cũng như mọi bài viết mà tôi đã đọc về Si-la đều ghi
lại thời gian viết thơ I Phi-e-rơ là vào đầu những năm 60. Họ cũng gợi ý Si-la
đi cùng với Phi-e-rơ sau khi Si-la phục vụ tại Cô-rin-tô vào đầu những năm 50.
Tôi không chia sẻ những quan điểm này.
Sứ đồ Phi-e-rơ đã không tập trung
vào một đặc điểm nổi bật nào của Si-la khi ông viết thư tín đầu tiên của mình.
Si-la trung thành với Chúa và công việc của Ngài. "Tôi nhờ Sin-vanh, người
tôi xem như một anh em tín cẩn" (5:12).
Sau khi Si-la trao thư, chúng ta
có thể cho rằng ông đã trở lại Giê-ru-sa-lem để tiếp tục chức vụ của mình trong
thành phố đó. Bảy năm sau, ông có mặt ở trong thành phố cho Giáo Hội nghị Giê-ru-sa-lem
(Công-vụ 15:22, 27, 32-34, 40-41).
Tại Hội đồng Giê-ru-sa-lem đã quyết
định rằng một người dân ngoại không phải chịu phép cắt bì để được cứu. Các sứ đồ
và các trưởng lão trong Hội thánh Giêrusalem đã viết một bức thư cho tín hữu
người ngoại bang tại An-ti-ố (ở Orontes), Sy-ri và Cilicia và gửi nó qua tay
Paul và Ba-na-ba, nhưng chỉ thị cho Giuđa và Si-la đi với họ và tuyên rao bằng
lời nội dung của bức thư và làm rõ mọi câu hỏi mà mọi người có thể có (Công vụ
15:22, 27).
Trong khi ở An-ti-ốt, Giu-đa và
Si-la "khuyến khích và củng cố" hội thánh trong thành phố đó (Công-vụ
15:32). Sau một thời gian, họ được đưa về Jerusalem, nhưng Si-la quyết định ở lại
lâu hơn một chút nữa (15:33, 34).
"Sau đó ít lâu, Phao-lô nói
với Ba-na-ba: “Chúng ta hãy trở lại thăm viếng anh em trong mỗi thành mà chúng
ta đã rao giảng đạo Chúa, xem họ như thế nào.” Ba-na-ba muốn đem theo Giăng cũng gọi là Mác. Nhưng Phao-lô thì nghĩ không nên đem Mác theo,
vì Mác đã lìa bỏ hai người tại Pam-phi-ly, không cùng họ tiếp tục công tác. Do đó, có sự tranh luận gay gắt đến nỗi hai
người phân rẽ nhau: Ba-na-ba đem Mác cùng đáp tàu đi đến đảo Síp. Còn Phao-lô thì lên đường, sau khi đã chọn
Si-la, và nhờ anh em giao phó mình cho ân điển Chúa. Ông đi khắp Sy-ri và Si-li-si, làm cho các Hội
Thánh được vững mạnh (15: 36-41).
Si-la là đồng công của Phao-lô từ An-ti-ốt
trên đường Orontes tới Cô-rinh-tô (Công-vụ 15: 41-18: 17). Dọc đường, họ mời một
người trẻ tuổi tên là Ti-mô-thê làm môn đệ ông ( Công 16: 3, xem Ti-mô-thê 2:
2) và đưa cho các hội thánh trong các thành phố mà họ thăm viếng các nghị định
của Hội đồng Giê-ru-sa-lem (16: 4). Trong thời gian lưu lại tại Cô-rinh-tô,
Si-la đã tham gia vào công tác truyền
giáo (2 Cor 1:19) cũng như làm đồng tác giả hai tác phẩm cho hội thánh ở
Tê-sa-lô-ni-ca, cùng với Phao-lô và Ti-mô-thê (1 Tê 1: 1; 2 Tê. 1: 1).
(Internet)