Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2019

HỎI VÀ ĐÁP LỜI KINH THÁNH -3



-
1. Hội Thánh Và Luật Pháp Cựu Ước-
--Câu hỏi:
Các lời trong Ma-thi-ơ 5: 17-19 "Đừng tưởng Ta đến để phá luật pháp hoặc lời tiên tri; ta đến không phải để phá đâu, bèn để làm trọn. Vì quả thật, Ta nói cùng các ngươi, mãi đến khi trời đất qua đi, một chấm một nét trong luật pháp hẳn không qua đi cho đến khi mọi sự thành tựu rồi.  Vậy, hễ ai trái bỏ một điều nhỏ hơn hết trong những điều răn nầy và dạy người ta như vậy, thì sẽ bị gọi là nhỏ hơn hết trong nước trời; còn hễ ai làm theo và dạy dỗ những điều răn ấy, thì sẽ được gọi là lớn trong nước trời”---  về việc làm trọn luật pháp và thực hành luật pháp chỉ đề cập đến người Do Thái mà thôi phải không?  Chúng có liên quan gì đến hội thánh không? Xin hãy hướng dẫn tôi.
-

--Trả Lời:
Ma-thi-ơ 5:17 nói về Chúa Giê-su, không phải nói về thế giới. Không ai trên thế giới có thể làm trọn luật pháp và các lời tiên tri. Những người cố gắng làm điều này là không biết gì về bản thân mình hoặc cố gắng thay thế công việc của Chúa. Việc làm trọn luật pháp nầy ám chỉ đến sự chết cứu chuộc của Chúa Giê-su. Do đó, nếu một người  nào nói, "Nếu Chúa Giê-su đã làm trọn luật pháp, thì một Cơ đốc nhân có phải làm như vậy không?" Ông ấy nói rằng vì Chúa Giê-su phải chuộc con người khỏi tội lỗi, các tín nhân cũng nên chuộc con người khỏi tội lỗi! Luật pháp trong câu 19 ám chỉ đến bài giảng dạy trên núi. Điều nầy không dành cho người Do Thái. Xin đọc Ma-thi chương 5 câu 1 và 2. Vì "đám đông", Chúa đã lên núi. Ngài chỉ mở miệng mình để dạy các môn đ. Các môn đồ là những Cơ đốc nhân (Công vụ 11:26). Do đó, việc giảng dạy trên núi, đó là luật pháp trong câu 19, là dành cho các Cơ đốc nhân .
-
2. Lửa Thiêu Hủy Công Trình Tín Đồ-
--Câu hỏi:
1 Cô-rinh-tô 3:15 “Nếu công trình của ai bị thiêu huỷ, thì người ấy sẽ bị lỗ, còn chính người thì sẽ được cứu, song dường như qua lửa vậy”. Lửa đây là lửa gì? Có phải ngục luyện tội chăng?
-
--Trả Lời:
Cơ Đốc nhân chân thật được cứu bởi ân điển, dù công trình hầu việc Chúa của họ như cỏ khô, rơm rạ, bị thiêu hủy, là mất phần thưởng, nhưng họ không mất sự cứu rỗi. Lửa nầy không phải là lửa ngục luyện tội mà Công giáo dạy dỗ. Lửa nầy ngụ ý tín đồ mất phần thưởng sẽ bị hình phạt, bằng lửa của hồ lửa. Họ sẽ chịu khổ trong nơi kỉ luật riêng, không phải trong hồ lửa.
-
3 -Tại Sao Chúa Muốn Giết Môi-se?
-        Câu hỏi:
Trong Xuất Ai-cập Kí 4:24, chúng ta đọc rằng Đức Chúa Trời đã tìm cách giết Môi-se trên đường ra khỏi vùng hoang dã để đến Ai Cập trong quán trọ. Làm thế nào để tôi hiểu điều này?
-
-        Trả lời
Xuất Ê-díp-tô Ký 4:24 “Dọc đường, tại một quán trọ, Đức Giê-hô-va hiện ra với Môi-se và tìm cách giết ông. Sê-phô-ra lấy con dao bằng đá, cắt dương bì của con mình, rồi lấy nó chạm vào chân Môi-se, và nói: “Thật, chàng là người chồng huyết cho tôi!”  Đức Giê-hô-va tha cho Môi-se. Do việc cắt bì nầy mà Sê-phô-ra nói: “Chàng là người chồng huyết”.

Không có vấn đề, hay là một sự kiện bí ẩn, nhưng khi chúng ta điều tra việc đó, nó có một nguyên nhân tự nhiên. Đức Chúa Trời đã ủy thác Môi-se  làm người lập pháp cho dân của Ngài, ông vẫn còn ở Ai Cập. Làm sao có thể khác hơn là bản thân ông trước tiên phải quy phục luật pháp. Nếu tôi không làm những gì tôi giảng dạy, tôi sẽ bị khiển trách như những người khác. Đức Chúa Trời đã truyền lệnh cắt bì mọi người nam từ trước (Sáng 17:10).
-
Tuy nhiên, Sê-phô-ra, đã  dùng "con dao" che chở cho hai con trai mình và đã không cắt bì hai cậu, cho đến ngày nay, nên lúc đó hai cậu con chừng 30 tuổi. Nói theo nghĩa bóng, cô run rẩy trước thập tự giá, trong khi mối liên hệ với Môi-se, một mô hình của Đấng Christ, chứa đựng cái chết cho bản chất tội lỗi. Sê-phô-ra, như chúng ta biết, là một mô hình của hội thánh, được Đấng Christ liên kết. Bản thân Môi-se, với sự thiếu cân nhắc cho vợ mình, đã khoan dung sự cắt bì của con trai mình, nên Đức Chúa Trời phải đặt tay lên chính Môi-se.

Bất kỳ sự không trung thành nào liên quan đến lệnh thần thượng đều giáng lại trên chúng ta. Có thể là Môi-se đã bị bệnh nặng tại nhà trọ, hay vì bất kỳ lý do nào khác - Sê-phô-ra ngay lập tức nhận ra điều đó là gì, và ngay lập tức cô với lấy con dao để sửa chữa sự thất bại của cô về việc cắt bì hai con trai mình. Đức Chúa Trời đã buông tha Môi-se (câu 26). Thật là một bài học nghiêm túc! Cắt bì có nghĩa là chúng ta nên loại xác thịt ra khỏi con đường và nhường chỗ cho Lời của Ngài, nếu không thì chức vụ và lời chứng không thể có được sự hướng dẫn và quyền năng của Thánh Linh.
-
4- Ta Lâng-
--Câu hỏi:
Làm thế nào chúng ta diễn giải dụ ngôn trong Ma-thi-ơ 25:27?
-
--Trả lời:
Những tài năng (ta-lâng) trong dụ ngôn này là ân tứ của Đức Thánh LInh. "Thế thì ngươi đã phải gởi tiền ta cho các chủ ngân-hàng, và khi Ta đến, Ta hẳn đã thu-nhận lại tiền của Ta với tiền lời " (câu 27) --có nghĩa là truyền lại cho một hoặc hai người ân tứ mà bạn đã nhận được từ Đức Thánh Linh và giúp họ làm việc, để bạn có thể nhận được một số tiền lời gián tiếp. Khi Chúa trở lại, bạn có thể thu hồi "tiền lời” [của Chúa].
-
5- Sự Cám Dỗ
--Câu hỏi:
Ma quỷ cám dỗ A-đam bằng cách sử dụng một con rắn. Nhưng trong Ma-thi-ơ 4: 1-2, Ma quỷ đã dùng điều gì để cám dỗ Chúa Giê-su?
-
--Trả lời:
Sa-tan không có được một nơi nhỏ nhất trong Chúa Giê-su (Giăng 14:30). Do đó, hắn không thể cám dỗ Chúa Giê-su giống như cách hắn cám dỗ chúng ta. Có lẽ hắn xuất hiện trong thân vị của chính mình khi cám dỗ Ngài.
-
6- Sự Ép Buộc-
-Câu hỏi:
Nếu ai đó sử dụng Ma-thi-ơ 5: 39-42 để ép buộc tôi cho đến khi tôi không thể chịu đựng được nữa, tôi nên giải quyết như thế nào?
-
-Trả lời:
Chúng ta nên giữ bài giảng trên núi theo nghĩa đen từng chữ. Tất cả những gì chúng ta có thể giữ, chúng ta nên giữ. Nhưng điều này vẫn chưa phải là một quy luật. Khi thập giá của Chúa làm được một công việc sâu thẳm trong tấm lòng của con người, việc giữ những lời này dường như là một điều tự nhiên. Sẽ không có lúc chúng ta "không thể chịu đựng được nữa", bởi vì có 1 Cô-rinh-tô 10:13. Nếu chúng ta tin câu này, Chúa phải mở đường.
-
7—Các Ẩn Dụ
--Câu hỏi:
Bằng cách đọc Ma-thi-ơ 13: 10-15, người ta tin rằng mục đích của việc sử dụng các dụ ngôn là làm cho việc nói năng trở nên khó hiểu. Nhưng thông thường, mọi người sử dụng các dụ ngôn là để làm cho việc nói năng dễ hiểu. Cái nào đúng? Sai chỗ nào?
-
--Trả lời:
Trong mười hai chương đầu, Chúa Giê-su đã chịu đựng sự từ chối của người Do Thái; Vì vậy, từ chương mười ba, Chúa Giê-su bắt đầu từ chối dân Israel. Trong chương này, Chúa phân biệt các môn đồ của Ngài với người Do Thái. Mắt Ngài đã nhìn vào hội thánh. Khi sử dụng các dụ ngôn ở đây, Chúa đã cố gắng làm cho các môn đồ của Ngài (Hội thánh tương lai) hiểu được những huyền nhiệm của vương quốc thiên đàng (câu 11), đồng thời khiến người Do Thái nghe nhưng không hiểu và thấy nhưng không am tường. Bằng cách sử dụng các dụ ngôn, Ngài đã không cố gắng làm cho tất cả con người khó hiểu được sự thật, chỉ có một phần của thính giả mà thôi.
-
8- Tiếng Mới-
--Câu hỏi:
Những người đã nhận được Đức Thánh Linh bây giờ nói tiếng lạ. Nhưng những người khác không hiểu tiếng lạ của họ. Những tiếng này có giống như những tiếng lạ được nói trong Kinh Thánh không?
-
-Trả lời:
Một số tiếng lạ được đề cập trong Kinh Thánh không được người khác hiểu (1 Cô 14: 7-9), nhưng chúng vẫn là ngôn ngữ của con người (câu 21). Gần đây, những tiếng nói của những người tuyên bố họ có thể nói tiếng lạ thì không phải là phương ngữ hay thổ ngữ của bất kỳ dân nào ở bất kỳ quốc gia nào hoặc ở bất kỳ nơi nào; chúng chỉ đơn thuần là một loại lời lắp bắp vô nghĩa giống nhau và la hét. Đây không phải là những tiếng lạ được nói trong Kinh Thánh (Công 2:7-11).
-
9- Kinh Thánh Ghi Chép-
--Câu hỏi:
Ma-thi-ơ 8: 5-13 và Lu-ca 7: 1-10 ghi lại câu chuyện về một bách nhân đội trưởng yêu cầu sự chữa lành. Tại sao một bản được viết theo cách chủ quan và bản kia theo cách khách quan? –
-
--Trả lời:
Những gì được ghi lại ở đây không phải là hai sự cố. Cũng hông phải là một sự cố trong hai hồ sơ mâu thuẫn. Thực tế là: trước tiên ông đội trưởng đã cử ai đó đến gặp Chúa, sau đó chính ông đã đến. Trình tự như sau. Đầu tiên là Lu-ca 7: 3-5, nơi ông sai vài người đến với Chúa Giê-su, sau đó là Lu-ca 7: 6a, nơi những người nầy trở lại. Tiếp theo là Lu-ca 7: 6 b-8 và Ma-thi-ơ 8: 8-9, nơi chính ông đội trưởng cũng đi. Cách ghi chép này hoàn toàn hài hòa với bản tánh của Ma-thi-ơ và Lu-ca. Ma-thi-ơ đã xóa chi tiết việc đội trưởng sai những người Do Thái khác, nhưng Lu-ca  đã làm điều ngược lại. Ma-thi-ơ đã xóa tất cả những gì sẽ làm cho người Do Thái kiêu ngạo. Lu-ca đã viết cho dân ngoại đọc và liên quan đến sự tốt lành của đội trưởng qua miệng người Do thái. Điều này được viết vì lợi ích của họ.
-
10- Được Xưng Nghĩa Bởi Việc Làm Trong Sách Gia-cơ-
-
-Câu hỏi:
-Có phải Ê-phê-sô 2: 8 và Gia-cơ 2:14 nói về hai điều riêng biệt: một về việc cứu chính chúng ta và một về việc cứu người khác phải không? Nếu cả hai đề cập đến cùng một điều, chúng không mâu thuẫn sao? Xin hãy sửa sai tôi.
-
-Trả lời:
Ê-phê-sô 2: 8 và Gia-cơ 2:14 đều nói về chúng ta. Chúng ta được cứu nhờ đức tin. Điều này được toàn bộ Kinh Thánh chứng minh mà không cần tranh cãi. Nhưng chúng ta nên biết rằng sự xưng nghĩa (xưng công chính) mà Phao-lô nói đến khác với sự xưng nghĩa mà Gia-cơ nói đến. Chúng ta đã nhận được hai sự xưng nghĩa. Trong Rô-ma 4, Phao-lô nói về sự thật (lẽ thật) của sự xưng nghĩa bằng đức tin, trong khi trong Gia-cơ 2, ông Gia-cơ nói về lý do cho sự xưng nghĩa bằng việc làm.
Một điều có thể được sử dụng như một chìa khóa để hiểu hai sự xưng nghĩa này: lịch sử của Áp-ra-ham như được cả Phao-lô và Gia-cơ trích dẫn. Câu trích dẫn của Phao-lô về lịch sử của Áp-ra-ham trong Rô-ma 4 là để chứng minh sự thật của sự xưng nghĩa bởi đức tin, và nó được ghi lại trong Sáng thế ký 15, trong khi trích dẫn của Gia-cơ về lịch sử của Áp-ra-ham trong Gia-cơ 2, là để chứng minh lý do có sự xưng nghĩa bằng các việc làm, và nó được ghi lại trong Sáng thế ký 22.
Phao-lô đã nói về thời gian trước khi Áp-ra-ham có một đứa con trai, khi ấy ông đã tin rằng Đức Chúa Trời sẽ ban cho ông một đứa con trai. Gia-cơ nói về sự vâng phục của Áp-ra-ham đối với Đức Chúa Trời khi dâng Y-sác như một của lễ. Sự xưng nghĩa đầu tiên của Áp-ra-ham nằm ở niềm tin của ông vào việc Đức Chúa Trời ban cho một đứa con trai. Sự xưng nghĩa thứ hai của ông ta nằm ở việc ông dâng Y-sác. Áp-ra-ham đã được xưng nghĩa hai lần; các tín đồ cũng vậy. Đầu tiên chúng ta được xưng nghĩa bằng đức tin, và sau đó chúng ta được xưng nghĩa bằng các công việc. Thật không may, nhiều Cơ Đốc nhân chỉ nhận được sự xưng nghĩa đầu tiên mà thôi.
-
Tuy nhiên, thất bại trong lần xưng nghĩa thứ hai không có nghĩa là một người đã mất lời xưng nghĩa đầu tiên. Sự xưng nghĩa đầu tiên phụ thuộc hoàn toàn vào Chúa Giê-su. Sự xưng nghĩa thứ hai có được sau khi nhận được sự xưng nghĩa đầu tiên thông qua việc chiếm được công việc tốt của Chúa. Trong Rô-ma 4 và Ê-phê-sô 2, Phao-lô đã hủy bỏ công việc cách hoàn toàn. Trong thơ tín của minh, Gia-cơ nhấn mạnh cả đức tin và công việc; ông không bao giờ hủy bỏ đức tin.
Từ điều này chúng ta thấy rằng đức tin là nền tảng của sự xưng nghĩa. Hơn nữa, sự cứu rỗi và sự xưng nghĩa được đề cập trong Gia-cơ 2:14 không phải là sự xưng nghĩa và sự cứu rỗi trước mặt Đức Chúa Trời.
Điều mà câu này đang nói là trước mắt của con người, nếu không có việc làm tốt, một Cơ đốc nhân sẽ không được coi là công bình ngay cả khi anh ta quy mọi thứ cho đức tin vào Đức Chúa Trời. Xin vui lòng đọc câu 18. Gia-cơ không nói rằng Đức Chúa Trời sẽ không cứu hay xưng nghĩa, vì ngay khi một người tin vào Chúa Giê-su, Đức Chúa Trời sẽ cứu anh ta và xưng nghĩa cho anh ta (Ê-phê-sô 2: 8-9; Rô-ma 3:22 , 24, 28; 4: 4-5). Tuy nhiên, thế giới sẽ chỉ trích đức tin của một người như vậy (Gia-cơ 2:18). Do đó, Gia cơ chương 2 chỉ đơn thuần nói cho chúng ta quan điểm của con người. Mục đích thư tín của Gia-cơ là để khuyến khích mọi người "trở thành người làm theo lời (kinh thánh) và không chỉ nghe suông" (1:22).
-
Hơn nữa, những gì Gia cơ đề cập chỉ là sự đánh giá của con người. Do đó, những lời như "đức tin đó có thể cứu anh ấy không?" "Đức tin ... đã chết", v.v., chỉ đề cập đến những gì mọi người nhìn thấy ở một tín đồ và kết quả của sự thật trong mắt con người. Chúng  không đề cập đến linh hồn. Chúng ta nên biết rằng trước tiên chúng ta được cứu, sau đó chúng ta thực hiện việc làm tốt. Chúng ta không thực hiện công việc tốt trước và sau đó được cứu. Sau khi chúng ta được cứu, chúng ta tự nhiên làm các công việc tốt. Nhưng những người chỉ đơn thuần thực hiện công việc tốt sẽ không bao giờ được cứu. "Hãy tin vào Chúa Jêsus, và bạn sẽ được cứu" (Công vụ 16:31).
-
11.Tuân Giữ Ngày Chúa Nhật:
-Câu hỏi:
Có người hỏi: "Có phải có điều răn của Đức Chúa Trời là chúng ta tuân giữ ngày Chúa nhật?" Tôi không thể dùng Kinh thánh trả lời. Xin hướng dẫn cho tôi.
-
Trả lời:
Thật vậy, bạn không thể sử dụng Kinh Thánh để trả lời anh ta. Tôi sợ rằng không có nhà giải nghĩa Kinh Thánh trung thực nào có thể trả lời anh ta! Tôi không thể tìm thấy bất kỳ điều răn nào trong Kinh Thánh nói rằng chúng ta nên "tuân giữ" ngày Chúa nhật! Xin đừng hiểu lầm bằng cách nghĩ rằng chúng ta nên tuân giữ ngày thứ bảy; cũng không có chuyện đó. Tôi chưa tìm thấy đoạn nào trong Kinh thánh nói rằng Cơ đốc nhân nên tuân giữ ngày thứ bảy! Điều đó có nghĩa là gì? Ngày Sa-bát (nghĩa là thứ bảy) thuộc về luật pháp. Nhưng chúng ta, dân ngoại, không ở dưới luật pháp. (1) Trước khi chúng ta tin Chúa, chúng ta là "dân ngoại, không có luật pháp" (Rô-ma 2:14). (2) Sau khi chúng ta tin vào Chúa, sứ đồ nói rằng "anh em không ở dưới luật pháp" (6:14). Tuy nhiên, "bất cứ điều gì luật pháp nói, nó đều nói với những người ở dưới luật pháp" (3:19). Nếu những anh em đó khăng khăng rằng chúng ta tuân giữ ngày Sa-bát mà không thể chứng minh cho chúng ta rằng ngày Sa-bát không thuộc về luật pháp, họ không thể yêu cầu chúng ta giữ nó. Họ càng nói rằng ngày Sa-bát rất quan trọng vì lý do đó là một điều răn quan trọng của luật pháp, điều đó càng có nghĩa là chúng ta không nên giữ nó!
-
Nhưng có những người phạm phải sai lầm tương tự như những người giữ ngày Sa-bát cách sốt sắng; họ là những người tuân giữ ngày Chúa nhật (thực ra là những người tuân giữ Ngày của Chúa). (1) Họ nghĩ rằng vì các sứ đồ đã nhóm họp vào ngày này, do đó chúng ta nên "tuân giữ" ngày này. Nhưng, tại sao các sứ đồ chỉ họp lại vào ngày này, trong khi những người này muốn thay đổi nó có nghĩa là họ phải tuân giữ ngày này? (2) Họ nghĩ rằng sau khi Chúa Giê-su chết, theo Tân Ước, ngày Sa-bát được thay đổi từ Thứ Bảy sang Chúa Nhật. Nhưng Kinh thánh nói điều này ở đâu? (3) Họ nghĩ rằng Ngày của Chúa là "Ngày Sa-bát Cơ đốc ".
-
Trong nhiều giáo phái, Mười Điều Răn vẫn được giữ ở địa vị cao, và các thành viên được khuyến khích  giữ ngày Sa-bát một cách trung thành. Tuy nhiên, ngày Sa-bát rõ ràng là ngày thứ bảy, tức là thứ bảy hôm nay. Làm thế nào họ có thể đánh đổi mọi thứ xung quanh và biến ngày đầu tuần (nghĩa là ngày Chúa nhật của chúng ta) thành ngày Sa-bát? Không có gì lạ khi chúng ta nói rõ sự thật với những người sốt sắng giữ thứ bảy, các hệ phái của họ mất nhiều thành viên. Chúng ta không phải đi vào chi tiết về điều này.
Tất cả các lập luận của các giáo phái này làm cho ngày Chúa nhật thành Ngày Sa-bát đã hoàn toàn bị những người Cơ Đốc Phục Lâm bác bỏ rồi. Theo nghiên cứu của chúng tôi về Kinh Thánh, những người giữ ngày Sa-bát là sai, và những người tuân giữ ngày Chúa nhật cũng sai. Cả hai đều sai. Những người giữ ngày Sa-bát dẫn các Cơ Đốc nhân đến một vị trí hoàn toàn ở dưới luật pháp, trong khi những người tuân giữ ngày Chúa nhật đang dẫn các Cơ Đốc nhân đến một vị trí là sự pha trộn giữa luật pháp và ân sủng. Trong hai hướng nầy, cái sau nguy hiểm hơn.
-
Mọi người rất sáng tỏ rằng Kinh Thánh đã  không truyền lệnh cho các tín đồ Tân Ước giữ ngày Sa-bát. Nhưng nơi nào trong Kinh thánh chép các Cơ Đốc nhân  được yêu cầu giữ Ngày của Chúa? Chúng ta phải nói rằng không có một câu nào trong Kinh thánh nói điều này. Trước khi tiếp tục, trước tiên hãy để tôi giải thích ý nghĩa của thành ngữ "tuân giữ ngày Chúa nhật". Tuân giữ ngày Chúa nhật là ngừng làm việc hoặc không làm bất kỳ công việc nào vào ngày Chúa nhật. Vào ngày này các chủ cửa hàng nên đóng cửa hàng của họ để tuân giữ trong ngày.
Nhưng tôi có thể hỏi những người trong các giáo phái, "Tại sao bạn tuân giữ  ngày Chúa nhật theo cách này? Tại sao các tín đồ không nên mua và bán vào ngày Chúa nhật, và tại sao ngày đó họ không nên làm những gì họ làm vào các ngày trong tuần khác?" Những người này sẽ nhất trí trả lời, "Không phải điều răn thứ tư cho chúng ta biết rằng chúng ta nên nghỉ ngơi vào ngày này sao?" Anh em ơi, hãy xem đây là một sự nhầm lẫn! Nếu bạn hỏi những người này hơn nữa thì điều răn thứ tư đề cập đến ngày nào, họ phải nói rằng nó đề cập đến ngày Sa-bát.
-
Nhưng ngày nào là ngày Sa-bát? Đó là thứ bảy. Họ đang tuân giữ ngày nào? Họ đang tuân giữ ngày Chúa nhật. Xin lưu ý rằng quy định của điều răn thứ tư liên quan đến ngày Thứ Bảy. Nhưng những gì mọi người đang tuân giữ hôm nay là ngày Chúa nhật. Lý do cho việc căn cứ tuân giữ  ngày Chúa nhật của một người dựa trên một quy định chi phối ngày thứ bảy là gì? Tại sao thay đổi từ thứ bảy sang Chúa nhật, trong khi vẫn giữ các quy định quản lý ngày thứ bảy? Các người tuân giữ ngày Chúa nhật không thể trả lời những câu hỏi này. Họ nhận ra rằng trong thời đại ân sủng, không cần phải giữ ngày Sa-bát nữa. Nhưng trong khi họ tuân giữ Ngày của Chúa, họ vẫn bị ràng buộc bởi các quy định của ngày Sa-bát.
Có lợi thế gì để thay đổi ngày thứ bảy sang ngày thứ nhất? Loại hành vi này là vô tâm, vô nghĩa, phi luận lí, trái với ân sủng, trái với pháp luật, và không đúng Kinh thánh. Giáo huấn kinh thánh liên quan đến việc giữ ngày là gì? Kinh thánh đã không truyền lệnh cho các Cơ Đốc nhân "tuân giữ" bất cứ ngày nào. Không, Hoàn toàn không có. Theo ví dụ và giáo huấn của Kinh Thánh, vào Ngày của Chúa (tức là Chúa nhật), các Cơ Đốc nhân nên (1) vui mừng và hoan hỉ (Thi. 118: 24), (2) nhóm họp và bẻ bánh (Công vụ 20: 7) và (3) dâng hiến (1 Cô 16: 2). Đây là những điều mà Cơ Đốc nhân nên làm. Ngày này là "Ngày của Chúa" (Khải huyền 1:10). Do đó, chúng ta nên hành động theo ý muốn của Chúa. Đối với những gì không nên làm, Kinh thánh không có một lời nào liên quan đến việc đó. Nhiều quy định ngày nay là truyền thống của con người.
-
Nếu một người không nên mua và bán vào Ngày của Chúa, anh ta cũng không nên làm như vậy vào tất cả các ngày khác. Đó là bởi vì con người không hiểu rằng phúc âm dạy cho con người làm mọi thứ trong cuộc sống hàng ngày của họ cho Đức Chúa Trời. Kết luận là Cơ đốc nhân không nên giữ ngày Sa-bát, và họ cũng không nên giữ ngày Chủ nhật. Tuy nhiên, vào Ngày của Chúa (tức là Chúa  nhật), họ nên vui mừng và hoan hỉ, nhóm họp và bẻ bánh cùng hiến dâng. Câu hỏi này đã làm nhiều người hoang mang và gây ra sự mất mát cho những tín đồ nghèo khổ, những người muốn làm việc vào Ngày của Chúa, nhưng họ không ngưng làm việc dưới nỗi sợ rằng họ sẽ xúc phạm đến Chúa. Vì lý do này, tôi đã nói thêm một chút về chủ đề này. Lương tâm của nhiều người bị truyền thống của con người làm cho yếu đi.
-
12. Hai Cây Gươm-

-Câu hỏi:
Trong Lu-ca 22:36 và 38, Chúa Giê-su yêu cầu các môn đồ bán quần áo và mua gươm. Các môn đệ trả lời rằng có hai thanh gươm ở đó. Chúa nói rằng thế là đủ. Nhưng trong Ma-thi-ơ 26:52, Chúa bảo các môn đồ không được dùng gươm. Có mâu thuẫn nào trong hai phần nầy của Kinh thánh không? Làm thế nào người ta có thể giải thích Lu-ca 22 mà nói rằng các môn đồ có hai thanh gươm là đủ. Hãy giải thích giùm tôi cách chi tiết.
-
-Trả lời:
Câu hỏi này là một câu hỏi mà các Cơ Đốc nhân ít hiểu nhất. Chúng ta có thể kiểm tra và điều tra chi tiết. Đoạn văn nơi Chúa Giê-su truyền lệnh cho các môn đồ mua gươm được ghi lại trong Lu-ca 22: 35-38. Đoạn Kinh thánh này có hai nan đề mà trước tiên chúng ta phải giải quyết trước khi chúng ta có thể bắt đầu kiểm tra và điều tra nó. (1) Chúng ta có thể thuộc linh hóa việc giải thích hai thanh gươm này không? (2) Nếu chúng ta không thể thuộc linh hóa nó, vậy Chúa Giê-su có yêu cầu các môn đồ dùng gươm để chiến đấu không?
-
(1) Chúng ta không thể diễn giải hai thanh gươm này theo nghĩa thuộc linh bởi vì, khi Chúa Giê-su truyền lệnh cho các môn đồ chuẩn bị mọi thứ, Ngài không chỉ huy họ chỉ mua gươm. Câu 36 nói: "Song  bây  giờ, kẻ có ví hãy  mang    theo,  bao bị cũng vậy, và kẻ không có gươm hãy bán áo choàng của hắn và mua một cây". Ở đây Chúa truyền lệnh cho họ chuẩn bị ba điều. Nếu thanh gươm biểu thị một cái gì đó, thì ví cũng phải biểu thị một cái gì đó, và túi cũng phải như vậy. Nếu ví là ví và bị là bị, thì gươm cũng phải là gươm. Chúng ta không thể nói rằng hai thanh gươm ngụ ý Tân Ước và Cựu Ước, hoặc nói đến hai tên cướp, hoặc bất kỳ điều gì khác. Một thanh gươm là một thanh gươm; chúng ta không thể giải thích nó theo nghĩa thuộc linh. Thật là bất công nếu mỗi lần chúng ta bắt gặp một câu khó mà chúng ta không hiểu, chúng ta liền cố gắng diễn giải nó theo nghĩa thuộc linh!
-
(2) Nếu thanh gươm là một thanh gươm, thì đó có phải là ý định của Chúa Giê-su yêu cầu họ mua gươm và sử dụng chúng để chiến đấu không? Không. Có ba lý do: (a) Có mười một môn đồ ngoài Giu-đa. Nếu Chúa Giê-su yêu cầu họ giải quyết vấn đề bằng vũ lực, làm thế nào hai thanh gươm có thể đủ cho mười một người? Khi các môn đồ nói rằng có hai thanh gươm, Chúa Giê-su đã dừng lại và không nói gì thêm. Ngài đã không yêu cầu họ mua thêm chín cây nữa, điều đó cho thấy rằng đó không phải là ý định nguyên thủy của Chúa là mua gươm và sử dụng vũ lực. (b) Nếu ý định ban đầu của Chúa Giê-su là sử dụng vũ lực, thì Phi-e-rơ đã làm như vậy rồi; ông đã cố gắng giải quyết đúng vấn đề bằng vũ lực rồi. Tuy nhiên, Chúa Jêsus đã phản đối ông, Ngài nói: “Hãy  tra  gươm của ngươi vào chỗ của nó; vì tất cả những kẻ dùng gươm sẽ chết bởi gươm" (Ma-thi-ơ 26:52). (c) nếu Chúa Giê-su muốn họ dùng vũ lực, khi ấy điều nầy sẽ hoàn toàn trái ngược lời dạy dỗ có chép, “đừng chống cự kẻ ác) (Math. 5:38-44).
-
Chúng tôi đã kết luận rằng (1) thanh gươm là một thanh gươm và (2) mua thanh gươm không nhằm mục đích sử dụng vũ lực. Sau đó, ý định của Chúa Giêsu khi nói những gì Ngài nói là gì? Làm thế nào chúng ta có được sự giải thích thực sự? Để có được sự giải thích thực sự, trước tiên chúng ta phải biết một số điều: (1) Mặc dù thanh gươm mà Chúa Giê-su đã nói là một thanh gươm thực sự, ý định của Ngài không liên quan đến thanh gươm. Nếu Ngài thực sự muốn các môn đệ mua gươm, nhưng họ chỉ có hai thanh gươm, họ có nên mua thêm để có đủ không? (2) Tấm lòng của Chúa Giê-su không chỉ được đặt trên thanh gươm. Những gì Ngài nói là ví, bị và thanh gươm. Thanh gươm chỉ là một trong ba vật. (3) Lúc đó ở xứ Giu-đê có nhiều tên cướp trên đường đi công cộng (Lu-ca 10:30), do đó hầu như mọi người Do Thái đều mang theo một thanh gươm. Thời đó gươm cũng giống như gậy đi bộ ngày nay. (4) Toàn bộ đoạn văn này (Lu-ca 22: 35-38) liên quan đến các sự kiện của đêm đó. Câu 37 dường như không có mối liên hệ nào với phần còn lại của đoạn văn. Nếu chúng ta không hiểu câu 37, thì chắc chắn chúng ta không thể giải thích phần này của Kinh thánh. Để giải thích Kinh Thánh chúng ta nên quan tâm đến bối cảnh của những câu kinh thánh đó.  Chúng ta không thể vô tình xóa một câu mà chúng ta không hiểu, và sau đó tiếp tục giải thích phần còn lại. (5) Chúng ta nên biết bối cảnh đằng sau lời của Chúa Jêsus trong câu 36. Tại sao Chúa Giê-su muốn nói điều này? Chúa Giê-su đã nói điều này khi nào? Chúng ta phải biết những điều này. (6) Chúng ta phải nhớ rằng chúng ta không thể diễn giải phần này của Lời kinh thánh theo nghĩa thuộc linh và thanh gươm không phải để chiến đấu.
-
Câu 35 chép: "Và  Ngài  phán  cùng họ: “Khi Ta đã sai các ngươi đi mà  không mang ví và bao bị và dép, các ngươi đã thiếu thốn gì chăng?” Và họ nói: “Không thiếu gì cả”. Tại đây, Chúa Giê-su đã nhắc nhở họ về cách mà hồi ban đầu Ngài đã sai họ ra đi. Khi họ đi ra ngoài vào thời điểm đó, họ không có ví, không bị và không giày. Nhưng họ cũng không thiếu điều gì cả. Tại sao họ không thiếu thứ gì? Bản ghi chép này được ghi lại trong Lu-ca 9 và Ma-thi-ơ 10. Bản ghi chép của Ma-thi-ơ chi tiết hơn, vì vậy chúng ta hãy đọc nó ở đây. Vào thời điểm đó, Chúa Giê-su đã sai họ đi rao giảng Tin Lành của vương quốc cho nhà Israel.
-
Vào thời điểm đó, Chúa Jêsus đã thể hiện uy quyền của Ngài là Đấng Mê-si-a. Khi các môn đệ đi rao giảng, họ đã rao giảng với mục đích là con người sẽ tiếp nhận Ngài là Đấng Mê-si-a. Người công nhân đáng được thức ăn của anh ta (Ma-thi-ơ 10:10). Do đó, họ không phải tự chuẩn bị phương tiện ăn uống (câu 9) và sẽ không thiếu gì (Lu-ca 22:35). Đây là kết quả trong uy quyền của Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a. Bây giờ thì sao? Chúa Giê-su đã bày tỏ chính mình cho con cái Israel. Nhưng họ không muốn tiếp nhận Ngài. Thay vào đó, họ từ chối Ngài hết lần này đến lần khác. Ngài nên làm gì bây giờ? "VÀ NGƯỜI ĐÃ BỊ ĐẾM (KỂ) VỚI NHỮNG KẺ PHẠM TỘI’(câu 37). Ngài sẽ bị đóng đinh. Con người không chỉ không muốn Ngài là Đấng Mê-si-a, họ còn thề sẽ giết Ngài. Đây là ý nghĩa của câu 37.

-
Bây giờ, Ngài sắp làm cho Kinh thánh ứng nghiệm, là chịu đau khổ và mất uy quyền của Đấng Mê-si-a vinh quang. Như vậy, Ngài không còn có thể thực thi quyền bính Mê-si-a của mình để chuẩn bị cho những người được Ngài sai phái  nữa. Mặc dù trước đó họ đã không thiếu thốn, ngay cả khi họ không chuẩn bị cho có ví, túi xách hay giày, nhưng vào thời điểm đó, không thể như vậy được nữa. "Song bây  giờ, kẻ có ví hãy  mang    theo,  bao  bị cũng vậy, và kẻ không có gươm hãy bán áo choàng của hắn và mua một cây" (câu 36). "Bởi vì Ta sẽ bị đóng đinh và bị con người từ chối là Đấng Mê-si-a, nên sự cung cấp và bảo vệ mà các ngươi đã nhận được trước đây vì lý do Ta là Đấng Mê-si-a của các ngươi, bây giờ sẽ bị dừng lại (cách tạm thời). Các ngươi phải tự chuẩn bị cho mình". Đây là những gì Chúa Giêsu có ngụ ý trong ba câu này.
--
Phần đầu tiên của câu 36, “Song bây giờ" là câu rất quan trọng. Câu đó cho chúng ta thấy rằng sau đó thời thế đã thay đổi. "Song bây giờ"- đề cập đến khoảng thời gian đó, từ khi bắt đầu bữa ăn tối đến thời điểm đóng đinh. Trong suốt thời gian này, Chúa Giêsu trên thực tế đã bị thế giới từ chối. Ý định thực sự của Chúa Jêsus khi nói với các môn đồ của Ngài không phải để họ sẽ chú ý đến ví, bị hoặc gươm của họ, mà là họ nên hiểu vị trí của Ngài vào lúc đó và họ nên biết rằng Ngài sẽ sớm bị đóng đinh. Nhưng các môn đệ không hiểu ý của Ngài.

Thay vào đó, họ nghĩ rằng Chúa Giê-su thực sự đang đề cập đến ví, bị và thanh gươm. Suy nghĩ của họ hoàn toàn bị chi phối bởi những thứ vật chất. Ngay cả đến thời điểm này, họ vẫn không có sự hiểu biết thuộc linh. (Xin đọc Giăng 21: 22-23.) Ngoài ra, sâu bên trong họ, họ đã có khuynh hướng sử dụng vũ lực và thực hiện vũ khí của xác thịt. Đây là lý do tại sao họ trả lời với Chúa: “Thưa Chúa, xin xem, đây là 2 thanh gươm”. Và Ngài phán cùng họ: “Ấy là đủ” (Lu-ca 22:38).
Họ nghĩ rằng Chúa thực sự muốn có những thanh gươm! Chúa trả lời: “Ấy là đủ”. Thành ngữ này là gì? “Ấy là đủ” ám chỉ đủ về điều gì? Đầu tiên, nó chắc chắn không đề cập đến hai thanh gươm. Làm thế nào hai thanh gươm có thể đủ cho mười một người?
-
Ý nghĩa của lời Chúa không phải có hai thanh gươm là đủ. Nếu không, khi Phi-e-rơ đã sử dụng một trong hai thanh gươm, tại sao Chúa lại quở trách ông ta? Do đó, "đủ" phải đề cập đến một cái gì đó khác hơn. Chúa Giê-su đã biết rằng các môn đồ của Ngài vẫn không thể tiếp nhận được lời của Ngài; tư tưởng của họ vẫn còn trong sáng tạo cũ. Những gì Ngài đã nói là, "Ấy là đủ” – có nghĩa không cần phải nói gì thêm. Các người không thể hiểu lời của Ta". "Ấy là đủ" ở đây có cùng ý nghĩa với cách diễn đạt của một bản dịch khác là "Đó là tất cả", cặp theo sự dịu dàng hơn và ít lạnh lùng cùng khắc nghiệt hơn. Thật đáng tiếc khi các môn đồ không hiểu gì cả vào ngày hôm đó, giống như cách mọi người cũng không hiểu điều nầy  ngày nay. Các môn đồ không hiểu lời của Chúa. Đó là lý do tại sao sau đó họ hỏi: “Thưa Chúa, chúng tôi có nên đánh bằng thanh gươm chăng?" (câu 49). Ngày nay, những người không hiểu lời của Chúa (Ma-thi-ơ 5: 39—“Đừng chống cự kẻ ác”) nên vẫn dại dột hỏi cùng một câu hỏi như vậy. Trước sự ngạc nhiên của các môn đồ, Chúa đã trả lời: "vì tất cả những kẻ dùng gươm sẽ chết bởi gươm” (Math 26:52). Không nên có "những người lính của Đấng Christ" trên trái đất này!
Châu Quân sưu tầm và tạm dịch- 11-8-2019