Lê Văn Thái
(1890-1994(?)
Mục sư Lê Văn Thái là một nhà lãnh đạo  nổi bật của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam trong một giai đoạn nhiễu nhương  hơn hết của tình hình chánh trị ở đất nước này.
Ông Lê Văn Thái sanh năm 1890, tại làng  Văn La, huyện Phú Lộc, tỉnh Quảng Bình. Ông xuất thân trong một gia  đình có tiếng tăm và khá giả. Sau đó ông và gia đình di chuyển vào cố đô  Huế, rồi định cư hẳn ở Đà Nẵng. Vì thành kiến chính trị và sự căm thù  đối với thực dân Pháp, thời bấy giờ đang là đế quốc xâm lược nước Việt  Nam, nên ông Thái sớm chẳng có thiện cảm gì đối với các Giáo sĩ người Mỹ  và Tây phương cả. Thanh niên Thái đã có lần lấy đá để ném vào Giáo sĩ  E. P. Irwin, khi ông này đến giảng Tin Lành tại Đà Nẵng năm 1913. Nhưng  sau cùng Đức Chúa Trời đã chinh phục con người cứng cỏi đó. Ông Thái trở  lại tin thờ Chúa sau một thời gian tìm hiểu và bắt bẻ, tranh luận khá  gay gắt với các nhà truyền giáo cũng như với ông Mục sư ở địa phương ông  thời bấy giờ.  
Mùa xuân năm 1919, tại nhà thờ Hải Châu  (Đà Nẵng) ông Thái đã đi đến chỗ quyết định ăn năn và trở lại thuận  phục Chúa. Và ngày 4-7-1920 ông chịu Thánh lễ Báp-têm bởi Giáo sĩ I. R.  Stebins hành lễ ở bờ biển Đà Nẵng. Rồi ông Thái được Chúa kêu gọi dâng  mình hầu việc Ngài. Ông lập gia đình với cô Công Tôn Nữ Tú Oanh năm  1924, và sau đó là chức vụ đầu hết ở Hội An (Faifo). Năm 1926, ông Thái  đổi đến Hội Thánh Mỹ Tho. Đến tháng 4 năm 1928, ông đã hoàn tất chương  trình tốt nghiệp của Trường Thánh Kinh Đà Nẵng. Với tư cách là Truyền  Đạo thực thụ của Giáo hội Tin Lành, ông Thái khởi mở chức vụ mình ở  thành phố Hà Nội từ tháng 8 năm 1928. Ông được chính thức tấn phong Mục  sư ngày 28-11-1928.  
Tháng 6 năm 1929, Mục sư Thái được cử  làm phái viên của Hạt Trung Bắc. Tháng 5 năm 1931, tại Hội Đồng Tổng  Liên Hội lần thứ 9, Mục sư Thái đắc cử Chủ Nhiệm Bắc Hạt, và được biệt  riêng để chuyên lo truyền giảng Tin Lành lưu động cho toàn miền Bắc và  mở mang các Hội Thánh mới. Đến giữa năm 1935 Mục sư Thái lại trở về quản  nhiệm Hội Thánh Hà Nội kiêm luôn công tác lưu hành và Chủ Nhiệm Giáo  Hạt Bắc. Trong kỳ hành chức tại đây, Đức Chúa Trời đã dùng một trận mưa  dầm kéo dài để giải cứu tôi tớ Ngài thoát khỏi một vụ mưu sát vì thành  kiến mê tín ở làng Hạ mồ. Cũng năm đó, Mục sư Thái nhuốm phải bệnh lao  vì làm việc quá sức, nhưng Chúa cũng đã thương xót cứu chữa tôi tớ Ngài  cách diệu kỳ, đến nỗi viên bác sĩ người Pháp lúc ấy là Peterson đã phải  ngạc nhiên khi tái rọi điện cho Mục sư và thấy chỗ đau đã lành!  
Năm 1940, Mục sư Thái đã chia sớt được  gánh nặng ở Chi hội Hà Nội cho một vị Mục sư khác, và ông có nhiều thì  giờ để dành cho công việc Giáo hạt và rao giảng Tin Lành lưu động. Trong  thời gian này công việc Chúa, qua chức vụ của Mục sư Thái có nhiều tiến  bộ thấy rõ. Ngoài Hà Nội ra, các tỉnh khác cũng đón nhận Tin Tức Phước  Lành rộng rãi hơn, như Nam Định, Thái Bình, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương,  Kiến An, Hà Đông, Sơn Tây,... Tại kỳ Hội Đồng toàn quốc lần thứ 9,  tháng 8 năm 1942 Mục sư Thái đắc cử chức vụ Hội Trưởng Giáo hội Tin Lành  Việt Nam kiêm Chủ nhiệm Bắc Hạt. Đức Chúa Trời thật đã bổ sức, thêm ơn  cho đầy tớ Ngài, nên ông có thể chu toàn trách nhiệm một cách tốt đẹp;  vì chức nhiệm bấy giờ ngoài Hội Thánh bản xứ, ông còn phải lo kiêm cả  Cambodge và Laos nữa.  
Đức Chúa Trời đã xức dầu và sử dụng Mục  sư Thái, bởi vậy Ngài đã ban cho ông đặc quyền, ân tứ để được tôn kính,  trọng vọng trước các cấp chính quyền Bắc cũng như Nam Việt Nam thời đó.  Năm 1945, Phái Đoàn Giáo hội Tin Lành do Mục sư Thái dẫn đầu, đã đến  hội kiến Chủ Tịch Hồ Chí Minh tại Bắc Bộ Phủ sau khi Việt Nam tuyên bố  độc lập. Sau một cuộc hành trình giữa Cách Mạng mùa thu lịch sử, năm  1945, Chúa đã giữ gìn ông trong một chuyến công tác dài ngày và trở về  nhà được bình an. Rồi tại miền Nam Việt Nam, Mục sư Thái cũng gặp gỡ các  cấp lãnh đạo có tầm cỡ của Việt Minh lúc ấy như ông Tôn Đức Thắng, Trần  Văn Giàu, Phạm Văn Bạch, Hoàng Quốc Việt. Mục sư Thái cũng có cơ hội  gặp gỡ, trò chuyện và làm chứng về Chúa cho hai nhà chí sĩ cách mạng lão  thành là Phan Bội Châu và Huỳnh Thúc Kháng ở cố đô Huế năm 1947.  
Năm 1945, với tư cách là người đứng đầu  Giáo hội Tin lành, Mục sư Thái đã nắm vững Lời Thánh Kinh và sự soi  sáng của Chúa Thánh Linh để dập tắt ngọn lửa "Chúa tái lâm giả tạo" do  ông Trần Như Tuân khởi xướng. Đây là một đòn khá nặng về tà giáo mà ma  quỉ đã đốn ngã nhiều cấp giáo phẩm cũng như các tín hữu chưa đi sâu sát  với Lời Chúa.  
Năm 1954, sau hiệp định Geneve, Mục sư  Thái cùng các tôi tớ Chúa khác vào phục vụ Chúa ở miền Nam Việt Nam. Và  cũng ở trong cương vị Hội Trưởng, ông đã đứng đầu một phái đoàn yết kiến  Tổng thống Ngô Đình Diệm năm 1956 để thảo luận và can thiệp về việc  truyền giáo của Hội Thánh chung đang gặp trở ngại trên các miền Cao  nguyên Việt Nam.  
Năm 1953, Mục sư Thái đứng ra thành lập  Cô Nhi Viện Tin Lành và Trường Trung Tiểu Học Bết-lê-hem ở Hòn chồng  Nha trang. Việc nuôi trẻ mồ côi này hoạt động được 22 năm (1953-1975).  
Từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1957. Mục sư  Thái được mời sang Hoa Kỳ để làm diễn giả chính cho kỳ Hội Đồng Thường  Niên của Hội Truyền Giáo Liên Minh Cơ Đốc (CMA) ở New York.  
Một đặc điểm rất đáng đề bạt nơi cụ Mục  sư Lê Văn Thái mà chúng tôi chẳng thể nào bỏ qua được, đó là tinh thần  cầu tiến và tự học của cụ. Về phương diện này thì xin nhường lời thực  chứng của ông Lạc Giao, như sau: "Tôi đã từng chú ý và khâm phục ý chí  tự học của cụ từ lâu. Cụ coi việc cụ mua sách để vào tủ, cần thiết không  kém cụ bà mua các thức ăn mỗi ngày... Tôi còn nhớ vào khoảng năm  1930-1931 tôi thường lui tới thăm viếng cụ, khi ấy cụ đang làm Mục sư ở  Hà Nội... Hồi đó mỗi khi chúng tôi gặp nhau là thường ra phố chơi. Tôi  thấy cụ là người rất ham đọc sách và sưu tầm sách quý. Cụ mua ngay cuốn  tư tưởng của Lão Tử. Khi cụ cầm sách về nhà cụ bà chìa tay hỏi tiền cụ  để mua thức ăn; cụ cười khì giơ cao cuốn sách lên, nói với cụ bà bằng  một giọng lúng túng: "Hết tiền rồi, đã mua sách đây này!". Bởi vậy, cụ  Mục sư Lê Văn Thái cũng đã bỏ công biên soạn các sách như: Bóng mát giữa  sa mạc, Những bước thuộc linh, Châu ngọc Thi Thiên, Danh ngôn Đông  Tây,... Nhất là quyển Hồi Ký rất dồi dào tư liệu lịch sử có tựa là "Bốn  mươi sáu năm trong chức vụ". Việc cụ trở thành một tác giả trong Hội  Thánh Việt Nam thì không ai lấy làm lạ như lời chứng của ông Lạc Giao  ghi ở trên.  
Sau 18 năm giữ chức vụ Hội trưởng Giáo  hội Tin Lành Việt Nam, cụ Mục sư Thái đã chấm dứt nhiệm vụ này vào năm  1960 tại Hội Đồng Toàn quốc ở Vĩnh Long. Đến năm 1968, cụ chính thức về  hưu, giao chức giám đốc Cô Nhi Viện lại cho Mục sư Trần Văn Đệ. Thật ra  các chức dịch nặng nề với bề dày thành tích vẻ vang mà Đức Chúa Trời đã  kêu gọi, lựa chọn và gia thêm ân tứ, năng lực cho Mục sư Thái... Thế hệ  sau không khi nào quên được gương sống và tinh thần hầu việc Chúa, kiên  trì phấn đấu, hướng theo một mục đích cao thượng. Lòng nhiệt thành đó  mãi mãi sẽ là nguồn cổ vũ và khích lệ chúng ta.  
Tư liệu về cuối đời của cụ Mục sư Thái  tôi chưa được cầm trong tay. Nhưng điều tôi biết chắc, hiện giờ cụ đang  hưởng vĩnh phúc với Thiên Phụ và hàng nghìn trùng thánh đồ trên Nước  Chúa, là Đấng mà cụ đã hết tâm tin thờ, phụng sự trên 60 năm.  
(TNPA)
