Thứ Tư, 2 tháng 12, 2015

HAI BÀN THỜ CỦA CHÚA—The Two Altars Of The Lord--


-
Xuất hành-40: 5-6-- cũng hãy để bàn thờ bằng vàng, dùng xông hương trước hòm bảng chứng, rồi xủ tấm màn nơi cửa đền tạm. Cũng hãy để bàn thờ về của lễ thiêu  (bằng đồng) đằng trước cửa đền tạm;
Thi 84:3- Hỡi Đức Giê-hô-va vạn-quân, là Vua tôi và là Đức Chúa Trời tôi,Con chim sẻ đã tìm được một nơi ở, Và chim én tìm được một ổ đặng đẻ con nó,Tức là các bàn thờ của Chúa

Rô 8:36--Vì cớ Ngài chúng tôi bị giết cả ngày;
Chúng tôi bị coi như chiên định để làm thịt."
Exo 40:5 -6- And thou shalt set the altar of gold for the incense before the ark of the testimony, and put the hanging of the door to the tabernacle.
And thou shalt set the altar of the burnt offering before the door of the tabernacle of the tent of the congregation.
Psalm  84:3  Yea, the sparrow hath found an house, and the swallow a nest for herself, where she may lay her young, even thine altars, O LORD of hosts, my King, and my God.
Rom 8:36  As it is written, For thy sake we are killed all the day long; we are accounted as sheep for the slaughter.
-
Có hai bàn thờ: bàn thờ đồng để dâng của lễ, tượng trưng thập tự giá; bàn thờ vàng tượng trưng sự cầu nguyện. Chim sẻ xây tổ trên bàn thờ đồng, là tín đồ chịu đóng đinh hằng ngày để bản ngã mình bị chết đi. Chim én xây tổ, đẻ con và nuôi dưỡng con mình trên bàn thờ bằng vàng, ngụ ý quyền năng của sự cầu nguyện, chức vụ cầu thay có thể bảo an, giữ gìn con cái thuộc linh của chúng ta.
Bạn xây tổ của mình nơi đâu?? Đa số tín đồ không xây tổ trên hai bàn thờ nầy—Đáng tiếc!
-
Bàn thờ đồng sẻ được nơi ở,
Thập tự xưa ta chết chẳng thôi,
Cứ sống mãi trong sự giết chết,
Trong ta sự sống Christ trào sôi.

Bàn thờ vàng én đã xây tổ,
Trưởng dưỡng con bằng lời nguyện cầu,
Chức vụ cầu thay truyền sự sống,
Bảo an các thánh dù nơi đâu.
Minh Khải—02-12-2015