Thứ Sáu, 28 tháng 10, 2016

PHÚC ÂM GIĂNG BÀI 14




NHU CẦU CỦA NGƯỜI BẤT NĂNG – SỰ SỐNG LÀM CHO SỐNG ĐỘNG

Trong bài này chúng ta xem xét đến trường hợp thứ tư – nhu cầu của người bất năng (Gi. 5:1-47). Trường hợp này phơi bày sự hư không của tôn giáo.

I. TÌNH TRẠNG THẤT BẠI CỦA VIỆC GIỮ LUẬT PHÁP TRONG TÔN GIÁO VÀ SỰ ĐẦY ĐỦ CỦA VIỆC
CON BAN CHO SỰ SỐNG
Trường hợp của người bất năng này phơi bày sự bất lực của tôn giáo (5:1-9). Không có tôn giáo nào trên đất tốt hơn Do Thái giáo, vì đó là tôn giáo thật và tiêu biểu được thành lập theo sấm ngôn thánh của Đức Chúa Trời. Do Thái giáo được thành lập theo Lời thần thượng. Tôn giáo này thờ phượng một Đức Chúa Trời chân thật cách đúng đắn, không một tôn giáo nào có thể sánh kịp.


Tuy nhiên, tôn giáo không thuộc về gia tể của Đức Chúa Trời và không thể thực hiện mục đích của Ngài. Đức Chúa Trời không bao giờ dự định có một tôn giáo. Vâng, Ngài thật đã ban cho dân Ngài Lời Thánh của Ngài, là Cựu Ước, và Ngài thật đã chỉ dẫn họ cách tiếp xúc Ngài. Không có gì phải nghi ngờ về điểm ấy. Nhưng Đức Chúa Trời không dự định có một tôn giáo. Tôn giáo do loài người tạo ra, là sản phẩm của tâm trí sa ngã của con người. Đó là phát minh cao nhất của văn hóa loài người. Nhưng theo gia tể của Đức Chúa Trời, tôn giáo là kẻ thù tệ hại nhất của Đức Chúa Trời. Tôn giáo tuyệt đối đối kháng gia tể của Ngài. Tôi xin lặp lại rằng Đức Chúa Trời không có ý định thiết lập một tôn giáo. Ý định của Ngài là ban Lời Thánh cho dân Ngài, bày tỏ cho họ biết Đấng sẽ đến tức Con Đức Chúa Trời là sự cứu rỗi và sự sống của họ để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Đấng sắp đến này sẽ là mọi sự cho họ – sự công chính, sự thánh khiết, sự cứu chuộc và vinh quang. Dân Do Thái không nhận thức như vậy. Thay vào đó, họ lựa chọn các phần mạng lệnh trong Lời Thánh của Đức Chúa Trời và dùng chúng để sáng chế ra các nghi lễ, điều lệ. Họ kết hợp những mạng lệnh, nghi lễ và điều lệ, rồi tạo nên một tôn giáo. Tôn giáo là gì? Định nghĩa tốt nhất của tôn giáo không được tìm thấy trong tự điển Web ster. Tôn giáo là thờ phượng Đức Chúa Trời và cư xử tốt mà không có Đấng Christ. Tôn giáo là sự cố gắng tối đa của anh em để thờ phượng Đức Chúa Trời, cư xử đúng đắn để đẹp lòng Ngài, và làm một con người hoàn hảo – có tất cả mà không có Đấng Christ. Mặc dầu mọi sự có thể tốt lành – anh em thờ phượng Đức Chúa Trời theo điều lệ và cư xử tốt – tất cả đều không có Đấng Christ. Trong Cơ Đốc giáo dường như người ta có Đấng Christ, nhưng phần lớn chỉ là Đấng Christ theo chữ nghĩa. Nếu anh em có Đấng Christ theo chữ nghĩa, đó cũng là tôn giáo. Chúng ta cần phải có Đấng Christ là thực tại. Chỉ khi nào có Đấng Christ là thực tại của mình chúng ta mới ở ngoài tôn giáo.

Khi Chúa Jesus đến, Ngài đến như Đấng đã được tiên tri trong Cựu Ước. Ngài là Đấng đến để trở nên sự cứu rỗi, sự sống, sự công chính, sự thánh khiết, sự cứu chuộc, vinh quang và mọi sự cho dân của Đức Chúa Trời. Nhưng khi Ngài đến, dân Ngài là người Do Thái lại bị tôn giáo của họ chiếm chỗ hoàn toàn. Lòng họ không có chỗ cho Đấng đang đến ấy. Nếu đọc bốn sách Phúc Âm, anh em sẽ thấy nơi nào Chúa đến và nơi nào Ngài có mặt, Ngài đều bị chống đối bởi tôn giáo điển hình, là tôn giáo được thành lập theo Lời Thánh của Đức Chúa Trời. Các nhà tôn giáo theo tôn giáo của mình mà chống đối Đấng sống. Họ nghĩ rằng mình đang chống đối Đấng Christ vì Đức Chúa Trời. Thậm chí họ kết án tử hình Đấng sống để cố gắng bảo vệ Đức Chúa Trời. Theo nhận thức của họ, Jesus phạm thượng khi xưng Ngài là Con Đức Chúa Trời, vì Ngài cho mình bằng Đức Chúa Trời (5:18). Dường như họ nói: “Chúng tôi chỉ có một Đức Chúa Trời và không có Đức Chúa Trời nào khác. Đức Chúa Trời của chúng tôi là Giê-hô-va Ê-lô-him. Chúng tôi không có Đức Chúa Trời mang danh Jesus. Nếu Ông nói mình là Con Đức Chúa Trời, Ông tự cho mình bằng Đức Chúa Trời, và như vậy là phạm thượng, chúng tôi phải xử tử Ông”. Đó là tôn giáo.

Trên nguyên tắc, tình hình hiện nay cũng giống như vậy. Nhiều người theo tôn giáo thờ phượng Đức Chúa Trời, hết sức cố gắng làm hài lòng Ngài, cư xử tốt đẹp và làm cho mình hoàn hảo. Nhưng họ làm mọi điều mà không có Đấng Christ. Loại tôn giáo này luôn luôn chống đối Đấng Christ và những người theo Ngài cách chân thật trong sự sống. Sự chống đối này không được bày tỏ trong Giăng chương 3 hay 4, mà được tìm thấy trong chương 5. Trong trường hợp của người bất năng, sự chống đối ra từ tôn giáo hoàn toàn bị phơi bày. Chương này bày tỏ sự thất bại của tôn giáo điển hình và sự chống đối Đấng Christ của tôn giáo ấy. Về phương diện tiêu cực trong chương này điều chính yếu mà chúng ta cần phải nhìn thấy là sự thất bại, sự hư không và tình trạng chống đối Đấng Christ của tôn giáo điển hình. Ngợi khen Chúa vì về phương diện tích cực, chương này cho chúng ta thấy sự đầy đủ, thỏa đáp của Đấng Christ, tức Con của Đức Chúa Trời, là sự sống để làm cho người ta sống động. Đấng Christ là sự sống thì đã đủ để làm cho chúng ta sống động.

Trường hợp này là một ẩn dụ. Mỗi phương diện của ẩn dụ này cần được ẩn dụ hóa. Suốt nhiều năm tôi đã đọc đi đọc lại chương này. Tôi không hiểu và rất bối rối. Trong khi nghiên cứu Kinh Thánh, tôi quen tìm trọng điểm. Nhưng dầu nghiên cứu chương này nhiều lần, tôi vẫn không thể tìm ra trọng điểm. Chúng ta dễ tìm được trọng điểm trong chương ba, đó là sự tái sinh, và chương bốn cũng vậy, đó là nước sống. Xin anh em cho tôi biết trọng điểm của chương năm là gì? Khi rao giảng phúc âm, tôi thường dùng câu 24 của chương ấy, nhưng tôi vẫn không nắm được trọng điểm của cả chương.

A. Sự Thất Bại Của Việc Giữ Luật Pháp Trong Tôn Giáo
Về mặt tiêu cực, trọng điểm của trường hợp này là bày tỏ sự thiếu hụt của việc giữ luật pháp trong tôn giáo điển hình. Giữ luật pháp là điều chính yếu trong Do Thái giáo. Mỗi một người Do Thái đều tôn trọng luật pháp và tin vào việc giữ luật pháp. Người Do Thái nhận biết rằng ngoài việc giữ luật pháp, họ không có cách nào làm đẹp lòng Đức Chúa Trời, cư xử tốt và làm cho mình hoàn hảo. Bất cứ người Do Thái tiêu biểu nào cũng có thể nói với anh em rằng bên cạnh Đức Chúa Trời, không có điều gì lớn lao và quan trọng cho bằng luật pháp. Đức Chúa Trời là số một và luật pháp số hai. Cho nên giữ luật pháp là mọi sự đối với tôn giáo điển hình ấy.

1. Những Điều Tốt Của Tôn Giáo Điển Hình
Tôn giáo của người Do Thái bao hàm ít nhất bảy điều: thành thánh Giê-ru-sa-lem, đền thờ thánh, tiệc lễ thánh, ngày Sa-bát thánh, các thiên sứ, Môi-se và Lời Thánh. Khi cộng bảy điều này lại với nhau, anh em có Do Thái giáo, tôn giáo của người Do Thái. Những điều này xuất sắc và kỳ diệu. Nếu anh em hỏi tôi có gì trong Do Thái giáo, tôi sẽ nói ít nhất có bảy điều: 1) thành thánh, 2) đền thờ thánh, 3) những buổi tiệc để vui hưởng, 4) những ngày Sa-bát an nghỉ, 5) các thiên sứ đến viếng thăm, 6) Môi-se, người ban luật pháp, và 7) Lời Thánh của Cựu Ước.

Cùng với bảy điều này của Do Thái giáo, cũng có phương tiện chữa lành, vì có hồ chứa nước chữa lành. Ý nghĩa của bức tranh này là phương tiện chữa lành luôn luôn đi đôi với tôn giáo điển hình. Do Thái giáo là tôn giáo điển hình có một điều gì đó có thể chữa lành anh em. Hồ nước tại Giê-ru-sa-lem chỉ về phương tiện chữa lành ở trong tôn giáo điển hình ấy.

Nhưng có một điều kiện, đó là anh em phải có sức mạnh để bước đi và hành động. Bất cứ khi nào anh em được ban cho một cơ hội nhận được lợi ích từ tôn giáo ấy, anh em phải có sức mạnh để “làm người đầu tiên” và có khả năng bước đi. Trường hợp này là một dấu hiệu, cho chúng ta thấy đây là tôn giáo điển hình với nhiều điều tốt và thánh có thể chữa lành anh em, nhưng đòi hỏi anh em phải có sức mạnh để bước đi và hành động. Nếu anh em là người thứ hai, anh em sẽ không nhận được lợi ích của tôn giáo tốt đẹp này, vì anh em không phải là “người đầu tiên”.

2. Thực Hành Việc Giữ Luật Pháp
Bây giờ chúng ta hãy xem xét vài phương diện của sự thực hành giữ luật pháp. Cửa chiên (5:2) tượng trưng cho lối vào chuồng chiên của tôn giáo giữ luật pháp (10:1). Tên của ao, Bê-tết-đa, có nghĩa là nhà của sự thương xót, mang ý nghĩa là những người giữ luật pháp nhận thức rằng mình cần sự thương xót của Đức Chúa Trời vì mình bất năng, yếu đuối và khốn cùng, như được trình bày trong La Mã 7:7-24. Các vòm cổng, giống như chuồng chiên, tượng trưng cho nơi ẩn náu của tôn giáo giữ luật pháp, và số năm chỉ về trách nhiệm. Thiên sứ khuấy động nước tượng trưng cho một tác nhân mà qua đó luật pháp vốn không thể ban sự sống được ban bố (Ga. 3:19, 21). Việc khuấy động nước làm cho người ta khỏe mạnh chỉ về việc người ta nỗ lực giữ luật pháp để được hoàn hảo. Bằng cách xem xét những phương diện này, chúng ta có thể thấy tình trạng giữ luật pháp là điều chính yếu trong tôn giáo điển hình.

3. Tình Trạng Bất Năng Của Việc Giữ Luật Pháp
Con người không thể giữ luật pháp. Không ai có thể làm điều đó. Như người ta không thể đi bộ lên các tầng trời thì cũng thế, họ không thể nào giữ nổi luật pháp. La Mã 8:3 nói rằng họ không thể giữ luật pháp vì xác thịt làm cho luật pháp thành ra yếu đuối. Mọi xác thịt đều yếu đuối không thể giữ luật pháp được. Điều đó được trình bày rõ ràng trong trường hợp của người đàn ông bất năng.

Người đàn ông bất năng đã bị bệnh ba mươi tám năm. Ông không thể cử động được. Ông đầy hi vọng khi thấy nước động, nhưng không thể đến đó đúng lúc. Vì bất năng, không thể cử động nên ông không được chữa lành. Cũng vậy, vì bất năng, chúng ta không thể giữ luật pháp. Luật pháp là tốt lành, thánh khiết, và thuộc linh. Luật pháp không có nan đề gì cả; nan đề là ở nơi chúng ta.

Loài người không những bệnh hoạn mà còn chết chóc nữa. Qua 5:25, chúng ta biết theo cái nhìn của Chúa thì một người bất năng là người chết. Làm thế nào một người chết có thể đi được? Muốn bước đi, trước hết ông cần được làm cho sống động. Nếu anh em không thể làm cho một người chết sống lại thì người chết ấy không thể làm gì được. Ga-la-ti 3:21 nói luật pháp không thể ban sự sống. Luật pháp chỉ ra lệnh cho người ta chứ không bao giờ cung ứng sự sống cho họ. Vì thiếu sự sống, người ta không thể giữ luật pháp được. Nếu anh em vẫn còn tôn giáo, vẫn cố giữ luật pháp, tôi xin hỏi anh em một câu. Anh em chết hay sống? Anh em phải thừa nhận rằng mình chết. Vì là người chết, làm sao anh em giữ luật pháp được? Người chết không thể làm gì cả.

Vì sự yếu đuối của xác thịt và vì thiếu sự sống, con người không thể giữ luật pháp được. Dầu có thiên sứ, có nước và dầu nước bị khuấy động, anh em không cách nào làm trọn điều kiện là xuống nước để được chữa lành. Đó là một hình ảnh minh bạch cho chúng ta thấy người bất năng và chết chóc không thể giữ luật pháp. Nơi luật pháp không có hi vọng gì cho con người. Đối với luật pháp, chúng ta là những con người bất năng và vô vọng.

Ngày nay chúng ta có một tôn giáo tốt hơn, thậm chí là tốt nhất. Nhưng anh em có nhận biết tôn giáo tốt nhất ấy đòi hỏi anh em làm gì không? Tôn giáo ấy đòi hỏi anh em bước đi, hành động và “làm người đầu tiên” rồi anh em mới hưởng được lợi ích của tôn giáo ấy. Có lẽ anh em thấy mình quá yếu đuối, không nhận được điều tôn giáo muốn tặng cho mình. Điều này cho thấy anh em ở vị trí của người bất năng – ở dưới năm vòm cổng. Chúng ta giống như những người bất năng nằm ẩn nấp dưới luật pháp.

4. Người Bệnh Nằm Dưới Nơi Ẩn Náu Là Tình Trạng Giữ Luật Pháp, Trong Chuồng Của Tôn Giáo
Nhiều người bệnh nằm dưới các vòm cổng. Sự kiện này có nghĩa là ở dưới nơi ẩn náu của sự giữ luật pháp, trong chuồng tôn giáo, có nhiều người mù, không thể thấy được, què, không thể đi được, và khô héo, thiếu sự sống. Họ không có niềm vui hay sự bình an, mà chỉ chịu đựng. Người bất năng không có niềm vui, dầu là vào ngày lễ tiệc vui mừng (5:1), ông không có sự an nghỉ, dầu là vào ngày Sa-bát (5:9). Theo cái nhìn của Chúa, người bệnh bất năng và vô vọng ấy là người đã chết.

Có phương tiện chữa lành trong tôn giáo giữ luật pháp, nhưng không ích lợi gì cho người bất năng, vì người ấy không có sức để thỏa đáp những điều kiện của tôn giáo. Việc giữ luật pháp của tôn giáo tùy thuộc vào nỗ lực của con người, việc làm của con người và sự tô điểm của con người. Vì con người bất năng nên việc giữ luật pháp trong tôn giáo trở nên thất bại. Thành thánh, đền thờ thánh, tiệc lễ thánh, ngày Sa-bát thánh, các thiên sứ, Môi-se và Lời Thánh – tất cả đều là những điều tốt đẹp của tôn giáo ấy, nhưng không thể làm gì cho người đàn ông bất năng. Theo cái nhìn của Chúa, ông là một người chết, không những cần sự chữa lành, mà còn cần được làm cho sống lại. Chúa làm [chúng ta] sống động vô điều kiện. Như chúng ta sẽ thấy, người bất năng ấy nghe tiếng Ngài và được sống động. Ý nghĩa của dấu lạ này là khi con người không thể giữ luật pháp trong Do Thái giáo do sự bất năng của mình, thì Con Đức Chúa Trời đến để làm cho người chết được sống động. Luật pháp không thể ban sự sống, nhưng Con Đức Chúa Trời ban sự sống cho người chết (5:21). “Đang khi chúng ta còn yếu đuối” (La. 5:6) thì Ngài đến để làm cho chúng ta sống động.

B. Sự Đầy Đủ Của Việc Con Ban Cho Sự Sống
Chúng ta đã thấy về mặt tiêu cực, trường hợp này phơi bày sự thiếu hụt và hư không của tôn giáo giữ luật pháp. Tôn giáo ấy có rất nhiều điều tốt – thành thánh, đền thờ thánh, các thiên sứ, Lời Thánh, các lễ tiệc thánh, ngày Sa-bát thánh và ao nước, nhưng không điều nào trong những điều tốt lành này giúp được gì cho người chết. Thành thánh không thể giúp đỡ người bất năng; đền thờ thánh cũng không, Lời Thánh, hay ngày thánh cũng không. Dầu đó là ngày lễ tiệc, ông không có niềm vui, dầu đó là ngày Sa-bát, ông không có sự an nghỉ. Không một điều gì có thể giúp đỡ ông. [Tình trạng của] ông là một trường hợp vô vọng và bất năng. Thình lình, có một con người nhỏ bé bước vào tình cảnh ấy. Người đó không phải là thiên sứ trưởng, mà là một con người nhỏ bé mang tên Jesus. Ngài không có vẻ đẹp hay sức thu hút, không ai chú ý đến Ngài. Ngài đi thẳng đến người bệnh. Y như Cha trong cõi đời đời quá khứ đã thấy trước người đàn bà Sa-ma-ri rồi Con đến tìm bà tại giếng Gia-cốp, thì Cha cũng thấy trước người đàn ông bất năng này rồi Con đến với ông đang khi ông nằm bên ao nước. Ngài hỏi ông: “Ngươi muốn được lành không?” Lời này có nghĩa là: “Ngươi có muốn được chữa lành không?” Con người bất năng ấy không biết gì hơn là ao, nước, và thiên sứ khuấy động nước. Ông cũng biết tự mình không có hi vọng hay khả năng gì nên ông giải thích tình trạng của mình cho Chúa Jesus. Khi ấy, Chúa Jesus phán: “Hãy đứng dậy, xách đệm ngươi mà đi”. Người bất năng nghe lời làm cho sống động của Chúa là Đấng sống động, ban sự sống, và ông được chữa lành. Có lẽ chúng ta tưởng rằng ông đứng lên và đi trước khi được chữa lành, nhưng nghĩ như vậy không đúng. Ông được chữa lành trước khi đứng lên, vác đệm mình và bước đi. Hãy lưu ý thứ tự trong câu 9: “Ngay lập tức người ấy được lành, mang đệm mình và bước đi”. “Ngay lập tức người ấy được lành” đi trước “mang đệm mình và bước đi”. Ông được chữa lành trước khi đứng lên. Ông được chữa lành khi nghe tiếng của Con sống động của Đức Chúa Trời. Do nghe lời sống động của Chúa mà ông được làm cho sống động. Trước đây, cái đệm mang người đàn ông bất năng, nhưng bây giờ người đàn ông được làm cho sống động mang đệm của mình.

Nếu là người đàn ông bất năng ấy, có lẽ tôi sẽ nói: “Thưa ông, tôi không thể làm điều ấy được. Tôi đã phải nương cậy vào chiếc đệm này ba mươi tám năm nay. Chiếc đệm đã mang tôi suốt thời gian ấy. Sao ông bảo tôi mang nó đi? Tôi không thể làm như điều ông nói”. Đừng bao giờ tranh luận với lời Chúa. Chúng ta chỉ nên nói: “A-men” với bất cứ điều gì Ngài nói và hãy làm theo. Đừng tranh luận hay lý luận. Nếu lý luận, anh em sẽ mất phước hạnh của Ngài. Thật tốt biết bao vì người đàn ông bất năng không những đứng dậy được, mà còn vác đệm mình mà đi. Không những ông được chữa lành, mà còn được làm cho sống động. Theo các câu 24 và 25, việc này đối với ông như một người chết đã vượt khỏi sự chết mà vào sự sống và sống. Theo nguyên tắc đưa ra trong chương 2, đó là sự biến đổi sự chết thành sự sống.

Chúng ta không cần ao và nước của tôn giáo, chúng ta cũng không cần thiên sứ. So sánh với Chúa Jesus, ao nước và thiên sứ thật sự là nghèo nàn. Hễ có Chúa Jesus, chúng ta không cần điều gì khác. Công dụng của thành thánh, đền thờ thánh và thiên sứ thánh là gì? Các buổi lễ tiệc hay những ngày Sa-bát không có ý nghĩa gì đối với chúng ta. Những điều đó không ích lợi gì cho chúng ta. Ấy là Jesus, Đấng làm cho sống động. Tất cả chúng ta phải thấy điều này. Đó là sự sống làm cho sống động. Đó là trọng điểm của trường hợp này về phương diện tích cực.

II. TÔN GIÁO CHỐNG ĐỐI SỰ SỐNG
A. Sự Sống Làm Cho Sống Động, Phá Hủy Lễ Nghi Tôn Giáo
Trong 5:10-16 chúng ta thấy tôn giáo chống đối sự sống. “Người Do Thái bèn nói với kẻ được chữa lành rằng: Nay là ngày sa-bát, ngươi không phép xách đệm mình mà đi” (5:10). Sự sống làm cho sống động, phá hủy lễ nghi tôn giáo. Tôn giáo bị sự sống gây tổn thương và từ đó bắt đầu chống đối sự sống. Ngày Sa-bát là vì con người (Mác 2:27), nên là sự an nghỉ cho con người. Việc giữ luật pháp của tôn giáo không đem sự an nghỉ đến cho người bệnh đã ba mươi tám năm, nhưng sự sống làm cho sống động đã thực hiện điều đó trong một giây. Tuy nhiên, những con người tôn giáo chỉ quan tâm đến nghi thức giữ ngày Sa-bát; họ không quan tâm đến sự an nghỉ của người bệnh. Chúng ta có một sự sống thật lạ lùng! Chúng ta không cần điều gì của tôn giáo. Hễ chúng ta có Jesus, mọi điều của tôn giáo không có ý nghĩa gì cả. Hễ chúng ta có Jesus chúng ta có sự sống. Hãy để tôn giáo và mọi điều của nó ra đi. Những điều ấy không thể ban sự sống cho chúng ta, nhưng Jesus thì có thể. Jesus làm chúng ta sống động. Jesus ban sự sống cho chúng ta. Sự sống đem niềm vui cho chúng ta. Sự sống đem sự an nghỉ cho chúng ta. Sự sống đem cho chúng ta ánh sáng và mọi điều chúng ta cần. Ngợi khen Chúa!

Ý nghĩa thật của trường hợp này là sự khác biệt giữa tôn giáo và Đấng Christ, là sự khác biệt giữa việc giữ luật pháp của tôn giáo và việc Đấng Christ làm cho chúng ta sống động. Giữ luật pháp của tôn giáo là điều tốt, nhưng chúng ta thì yếu đuối. Việc giữ luật pháp của tôn giáo có thể hiệu quả, nhưng chúng ta không thể đáp ứng được những đòi hỏi của nó. Với Đấng Christ không có một đòi hỏi nào, vì khi đến với chúng ta, Ngài nói lời sống động của Ngài để chúng ta có thể nghe được tiếng Ngài. Nếu có một đòi hỏi nào, thì đó chỉ là nghe lời sống động của Ngài. Khi nghe lời sống động của Ngài, chúng ta vượt khỏi sự chết mà vào sự sống. Sự khác biệt trong trường hợp này là tôn giáo thì đòi hỏi, nhưng lời của Đấng Christ làm cho sống động.

B. Tôn Giáo Cố Gắng Dập Tắt Sự Sống
Tôn giáo giữ luật pháp ấy không thể ban sự sống cho người bất năng. Khi Đấng Christ làm cho người này sống động bằng sự sống, thì tôn giáo bắt bớ Ngài, cố gắng dập tắt sự sống, vì Ngài làm điều đó vào ngày Sa-bát (5:16). Tôn giáo ấy chỉ quan tâm đến việc giữ ngày Sa-bát, hi sinh cả sự an nghỉ của con người bất năng. Nhưng Đấng Christ hi sinh việc giữ ngày Sa-bát để quan tâm đến sự an nghỉ của người ấy. Điều này chắc chắn làm tổn thương tôn giáo. Trên nguyên tắc, tình trạng của tôn giáo ngày nay cũng giống như vậy. Những con người tôn giáo vẫn quan tâm đến nghi thức tôn giáo của họ, hi sinh những vấn đề sự sống của con người. Nhưng Chúa thì vẫn y nguyên, Ngài hi sinh mọi nghi thức tôn giáo để chăm sóc những vấn đề thuộc về sự sống của con người với bất cứ giá nào. Đó là lý do vì sao chúng ta là những người được Đấng Christ làm cho sống động đang bị những người bám chặt nghi thức tôn giáo chống đối và bắt bớ.

III. CON BÌNH ĐẲNG VỚI CHA TRONG VIỆC BAN SỰ SỐNG VÀ THI HÀNH SỰ XÉT ĐOÁN
A. Con Bình Đẳng Với Cha
Những người Do Thái nặng tinh thần tôn giáo bắt bớ Jesus vì Ngài làm việc để khiến người bất năng sống động vào ngày Sa-bát của họ. Jesus trả lời với họ: “Cha Ta đang làm việc cho đến bây giờ và Ta cũng đang làm việc”. Theo quan niệm tôn giáo của mình, họ đang nghỉ ngơi để giữ ngày Sa-bát. Nhưng họ không biết rằng hễ còn những tội nhân đáng thương chưa được cứu, thì Cha và Con sẽ không nghỉ ngơi. Trong khi họ nghỉ ngơi để giữ ngày Sa-bát của mình, Cha và Con vẫn đang làm việc để tội nhân nhận được sự sống và an nghỉ. Lời này không những gây tổn thương cho người Do Thái nặng tinh thần tôn giáo, mà còn làm cho họ xem Jesus là phạm thượng vì theo quan niệm của họ, không những Ngài “phạm ngày Sa-bát thôi, mà lại vì Ngài gọi Đức Chúa Trời là Cha mình, tự cho mình là bình đẳng với Đức Chúa Trời” (5:18). Theo sự suy xét của họ, nói như vậy là phạm thượng với Đức Chúa Trời. Nhưng Đấng “phạm thượng” này lại làm cho người bất năng sống lại. Sự sống động của người đó làm chứng rằng Ngài bình đẳng với Đức Chúa Trời trong việc ban sự sống cho người ta.

B. Cả Cha Và Con Đều Đang Làm Việc Để Cứu Chuộc Và Xây Dựng
Mặc dầu công tác sáng tạo của Đức Chúa Trời đã hoàn tất (Sáng. 2:1-3), Cha và Con vẫn đang làm việc để cứu chuộc và xây dựng (Gi. 5:17, 19-20). Người Do Thái nặng tinh thần tôn giáo giữ ngày Sa-bát của sự sáng tạo. Họ không biết rằng vì sự sa ngã của loài người, phần còn lại của ngày Sa-bát ấy đã bị phá hỏng. Họ không biết Cha và Con vẫn đang làm việc để cứu chuộc loài người sa ngã, nhằm hoàn thành mục đích nguyên thủy của Đức Chúa Trời là xây dựng nơi ở đời đời của Đức Chúa Trời. Điều Đức Chúa Trời đã làm là cõi sáng tạo cũ. Điều Cha và Con đang làm là cõi sáng tạo mới qua sự cứu chuộc cho sự xây dựng của Đức Chúa Trời. Công tác này bao hàm việc ban sự sống của Con, như đã được bày tỏ trong trường hợp này. Trong vấn đề trên, Cha và Con là một. Bất cứ điều gì Cha muốn làm trong việc ban sự sống, thì Con đều làm theo.

C. Con Của Đức Chúa Trời Ban Sự Sống
Cho Người Chết
Con ban sự sống cho người chết. Câu 21 chép: “Vì như Cha khiến kẻ chết dậy, làm cho được sống động thể nào, thì Con cũng làm cho kẻ mình muốn được sống động thể ấy”. Trong câu 24 chúng ta thấy ai nghe lời Con và tin Đấng sai Ngài thì có sự sống đời đời và đã vượt khỏi sự chết mà vào sự sống. Câu 25 chép: “Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các ngươi, giờ sắp đến, mà nay đã đến rồi, kẻ chết sẽ nghe tiếng của Con Đức Chúa Trời, và kẻ nghe ấy sẽ được sống”. Người chết được đề cập trong câu này không phải là những người chôn trong mồ mả, mà là những người chết đang sống. Họ không chết về mặt thuộc thể, nhưng theo Ê-phê-sô 2:1-5 và Cô-lô-se 2:13, họ đã chết trong linh mình. Theo cái nhìn của Chúa, mọi người sống trên đất đều chết trong linh. Nhóm chữ: “Giờ sắp đến, mà nay đã đến rồi”, chỉ về chính giờ Chúa nói những lời ấy. Nhiều người lúc ấy nghe lời sống động của Ngài và kết quả là được làm cho sống động. Như vậy, “sẽ được sống” trong câu này có nghĩa là sẽ được sống động trong linh. Đó không phải là sự phục sinh trong thân thể vật lý như đã được đề cập trong câu 28 và 29. Suốt hai mươi thế kỷ, từ khi Chúa phán những lời này đến nay, hàng ngàn và hàng ngàn người đã nghe tiếng sống động của Con Đức Chúa Trời và được sự sống làm cho sống động. Chúng ta cũng đã nghe lời sống động của Chúa và đã được làm cho sống động. Chúng ta cũng là những người bất năng ở dưới năm vòm cổng, vì chúng ta mù, què, và khô héo. Tóm lại, chúng ta đã chết. Rồi Chúa đến để thăm viếng chúng ta, chúng ta nghe được lời sống động của phúc âm, và lời ấy làm cho chúng ta sống động và sống lại. Chúng ta thật sự đã vượt khỏi sự chết và bước vào sự sống.

Trong vấn đề sự sống, Con giống như Cha. “Vì như Cha có sự sống trong mình, thì cũng đã ban cho Con có sự sống trong mình vậy” (5:26). Cả Cha lẫn Con đều có sự sống trong chính mình. Cho nên Con có thể và thật làm cho người ta sống động bằng sự sống mà Cha ao ước. Trong việc sự sống làm cho sống động, Con thật làm một với Cha.

D. Con Loài Người Thi Hành Sự Phán Xét Trên Những Người Vô Tín
Con Loài Người sẽ thi hành sự phán xét trên mọi người vô tín (5:22-23, 27, 30). Là Con Đức Chúa Trời (5:25), Chúa có thể ban sự sống (5:21), và là Con Loài Người, Ngài có thể thi hành sự phán xét (5:27). Vì Ngài là một con người, Ngài hoàn toàn đủ điều kiện để phán xét loài người. Công-vụ 17:31 nói rằng Đức Chúa Trời sẽ phán xét thế giới“nhờ Người Ngài đã lập”. La Mã 2:16 chép: “Đức Chúa Trời bởi Jesus Christ sẽ xét đoán sự kín nhiệm của người ta”. 2 Ti-mô-thê 4:1 chép: “Christ Jesus, là Đấng sẽ xét đoán kẻ sống và kẻ chết”. Cha “ban cho Con quyền bính thi hành sự xét đoán, vì Con là Con Loài Người” (5:27). Cha giao mọi sự phán xét cho Con “để ai nấy đều tôn trọng Con, cũng như tôn trọng Cha vậy” (5:22-23). Con sẽ phán xét cách công bình theo ý muốn của Cha (5:30). Ngài hiệp một với Cha trong vấn đề sự sống làm cho sống động. Ngài cũng hiệp một với Cha trong vấn đề phán xét.

E. Hai Loại Phục Sinh
Xin chúng ta đọc các câu 28 và 29. “Chớ lấy điều đó làm lạ, vì giờ đến mọi người ở trong mồ mả đều nghe tiếng Ngài và ra khỏi, ai đã làm thiện, thì sống lại để được sự sống, ai đã làm ác, thì sống lại để chịu định tội”. Tất cả những người đã chết về mặt thuộc thể, đã được chôn trong mồ mả đều sẽ sống lại. Xin lưu ý sự khác biệt giữa hai câu này và câu 25. Trong câu 25, người chết sẽ nghe tiếng Ngài, nhưng trong câu 28 mọi người trong mồ mả đều sẽ nghe tiếng Ngài. Những người ở trong mồ mả thì khác với những người chết. Câu 25 chỉ về những người chết đang sống trên đất; câu 28 chỉ về những người chết chôn trong lòng đất. Những người chôn trong mồ mả sẽ được sống lại khi Chúa đến lần thứ hai.

Ngoài sự phục sinh trong linh mà chúng ta thấy trong câu 25, câu 29 phân biệt hai loại phục sinh về mặt thuộc thể. Sự phục sinh trong linh nghĩa là linh chúng ta được làm cho sống động. Đây cũng là tái sinh trong linh chúng ta. Sự tái sinh trong linh chúng ta là sự phục sinh do Chúa Jesus thực hiện bằng sự sống thần thượng, là chính Ngài. Hơn nữa, có hai loại phục sinh về mặt thuộc thể. Sự “phục sinh của sự sống” là sự phục sinh của những tín đồ được cứu trước thời đại một ngàn năm (Khải. 20:4, 6; 1 Cô. 15:23, 52; 1 Tê. 4:16). Các tín đồ qua đời sẽ sống lại để vui hưởng sự sống đời đời khi Chúa Jesus trở lại. Như vậy, sự kiện ấy được gọi là sự phục sinh của sự sống. Khi Chúa Jesus trở lại, mọi tín đồ qua đời sẽ được sống lại và được cất lên với những tín đồ còn sống lên không trung (1 Tê. 4:17). Sau đó các tín đồ đắc thắng sẽ trị vì với Chúa như các vua suốt một ngàn năm. “Sự phục sinh của sự phán xét” chỉ về sự phục sinh của người vô tín sau một ngàn năm (Khải. 20:5, 12). Mọi người vô tín đã chết sẽ được làm cho sống lại sau một ngàn năm để chịu phán xét tại Ngai Trắng Lớn (Khải. 20:11-15). Vì vậy, sự kiện đó được gọi là sự phục sinh của sự phán xét. Tín đồ chúng ta sẽ vui hưởng và tham dự sự phục sinh của sự sống, nhưng người vô tín sẽ chịu đựng sự phán xét diệt vong đời đời vào ngày phục sinh của sự phán xét.

IV. LỜI CHỨNG BỐN PHƯƠNG DIỆN CỦA CON
Trong 5:31-47 chúng ta thấy chứng cớ bốn phương diện của Con; lời chứng của Giăng Báp-tít (cc. 32-35); lời chứng của công tác của Con (c. 36); lời chứng của Cha (cc. 37-38); và lời chứng của Lời Thánh (cc. 39-47). Có bốn lời chứng này mà vẫn không có chính Đấng Christ là điều có thể xảy ra. Đã có lần người Do Thái vui mừng về Giăng Báp-tít, nhưng họ không nhận biết rằng ông chỉ là nhân chứng của Đấng Christ. Lời chứng của Giăng Báp-tít là để dẫn họ đến với Đấng Christ. Người Do Thái cũng thấy các việc làm của Đấng Christ, nhưng họ không muốn đến với Ngài. Họ thấy các dấu lạ, phép lạ, và việc kỳ diệu của Ngài, nhưng họ không muốn nhìn nhận Ngài là ai và đến với Ngài. Cha làm chứng về Con, nhưng họ không để lời Cha ở trong mình, vì họ không tin Con là Đấng Cha đã sai đến. Thậm chí họ còn tra xem Lời Thánh là Lời làm chứng về Ngài, nhưng họ không đến với Ngài để được sự sống đời đời.

“Tra xem Lời Thánh” có thể tách biệt với việc “đến cùng Ta”. Các chuyên gia tôn giáo Do Thái tra xem Lời Thánh, nhưng không muốn đến cùng Chúa. Hai điều này phải đi chung với nhau. Vì Lời Thánh làm chứng về Chúa, chúng ta không nên tách rời lời ấy khỏi Ngài. Chúng ta có thể tiếp xúc với Lời Thánh mà không tiếp xúc với Chúa. Chỉ một mình Chúa mới có thể ban sự sống. Chúng ta đừng bao giờ tách rời Lời Thánh khỏi chính Chúa. Mỗi khi tra xem Lời, chúng ta phải đến với chính Chúa. Chúng ta cần phải làm cho việc dò xem Lời và chạm đến Chúa trở nên một. Mỗi khi học Kinh Thánh, chúng ta cần phải mở linh mình cho Chúa. Đang khi mắt đọc lời và tâm trí hiểu lời, chúng ta cần dùng linh để tiếp xúc với Chúa qua Lời Thánh. Khi ấy không những tâm trí chúng ta hiểu biết chữ nghĩa trên giấy trắng mực đen, mà linh chúng ta cũng nhận được sự sống nữa.

Mọi dấu lạ, biểu hiện, và ân tứ chỉ là những chứng nhân nhờ đó chúng ta có thể tiếp xúc với Đấng Christ. Nan đề là ngày nay người ta có chứng cớ, nhưng không tiếp xúc với chính Chúa. Người ta có thể có dấu lạ, các biểu hiện, ân tứ và kiến thức về Lời Thánh, nhưng không đến tiếp xúc với chính Chúa. Chỉ có chính Chúa mới ban sự sống cho anh em. Không phải dấu lạ, ân tứ hay thậm chí Lời Thánh, mà là chính Chúa làm cho anh em sống động và truyền sự sống vào trong anh em.

Một lần nữa, tôi muốn nhấn mạnh điểm này, ấy là sứ đồ Giăng bày tỏ mọi trường hợp ấy để nêu lên tình trạng thật của con người và bày tỏ Đấng Christ là nguồn cung ứng sự sống của chúng ta. Trong trường hợp thứ nhất, chúng ta là những người tốt; trong trường hợp thứ hai, chúng ta là những tội nhân; trong trường hợp thứ ba, chúng ta là những người đang chết; trong trường hợp thứ tư, chúng ta là những người bất năng. Trong trường hợp đầu, Chúa là sự sống tái sinh của chúng ta; trong trường hợp thứ hai, Ngài là sự sống làm thỏa mãn; thứ ba, Ngài là sự sống chữa lành; và thứ tư, Ngài là sự sống làm cho chúng ta sống động. Nhờ hiểu bốn trường hợp này, chúng ta có thể nhận thức mình đang ở đâu và mình là ai, và chúng ta có thể biết Chúa ở đâu và Ngài là ai. Rồi chúng ta sẽ biết mình cần gì và Chúa sẽ cung ứng gì cho mình.
--