NHU CẦU CỦA NGƯỜI VÔ LUÂN – SỰ THỎA
MÃN CỦA SỰ SỐNG (2)
III. CÁCH NHẬN LẤY NƯỚC SỰ SỐNG
Trong Giăng 4:15-26 chúng ta thấy
phương cách nhận lấy nước sống. Nước sống rất tốt, nhưng nếu chúng ta không có
cách nào để lấy, thì nước ấy không có ý nghĩa gì đối với chúng ta. Nếu có một
điều gì đó kỳ diệu, tuyệt hảo trên các từng trời mà chúng ta không thể với tới
được thì ích lợi gì? Nhưng ở đây chúng ta tìm được nước sống và cách nhận lấy
nước sống ấy.
Chúa Jesus là một người giảng đạo
đơn sơ, ngắn gọn, nhưng có hiệu quả. Ngài không giảng một bài, Ngài chỉ trò
chuyện ngắn gọn với người đàn bà Sa-ma-ri. Qua câu chuyện ngắn gọn ấy, bà được
thu hút. Tôi hi vọng rằng tất cả các anh em thanh niên sẽ học được cách giảng
phúc-âm trong Giăng chương bốn. Chương này là một gương mẫu tốt về việc rao giảng
phúc âm. Tất cả chúng ta cần phải học cách nói chuyện với tội nhân.
A. Tội Nhân Xin Nước Sống
Người đàn bà Sa-ma-ri được thu
hút và xin Chúa nước sống. “Người đàn bà lại nói: Thưa Ông, xin cho tôi nước ấy
để tôi không khát, cũng không đi xa đến đây múc nữa” (4:15). Chúa là người giảng
đạo tài tình. Dường như Ngài muốn nói: “Nếu ngươi biết Ta là ai, nếu ngươi biết
sự ban cho của Đức Chúa Trời và nếu ngươi biết nước sống mà Ta ban cho, chắc chắn
ngươi sẽ xin nước ấy”. Người đàn bà ấy bèn xin ngay lập tức. Trong cách nói
chuyện thiếu khôn ngoan của mình, chúng ta càng nói thì càng làm cho họ muốn
lánh xa. Nhưng Chúa Jesus nói rất ngắn gọn và người đàn bà được thu hút, rồi bà
xin nước sống.
B. Cứu Chúa Chỉ Cho Bà Cách Nhận
Lãnh
Nước Sống
1. Ăn Năn Và Xưng Tội Mình – “Những
Người Chồng”
Khi người đàn bà xin Chúa cho bà
nước, Ngài không quở trách bà, bảo bà hãy ăn năn và xưng tội lỗi mình cách triệt
để. Không, Chúa nói nhẹ nhàng và ôn hòa: “Hãy đi, gọi chồng ngươi, rồi trở lại
đây” (4:16). Dường như Chúa muốn nói: “Ta muốn gặp chồng ngươi. Ngươi hỏi Ta về
nước sống, còn Ta hỏi ngươi về chồng ngươi. Chúng ta hãy trao đổi. Ngươi đổi chồng
mình lấy nước sống”. Lời này nhằm mục đích dùng tiểu sử vô đạo đức của bà để chạm
đến lương tâm bà hầu bà ăn năn về tội lỗi mình. “Người đàn bà thưa rằng: Tôi
không có chồng. Jesus lại phán rằng: Ngươi nói: ‘Tôi không có chồng’, là đúng lắm;
vì ngươi đã có năm đời chồng, còn người mà ngươi hiện có chẳng phải là chồng
ngươi; điều đó ngươi đã nói thật vậy” (4:17-18). Người đàn bà này nói dối hay
nói thật? Đó là sự thật, nhưng lại là một lời nói dối. Bà đã nói dối bằng cách
phát biểu một sự thật. Đó là một lời nói dối có sự thật. Đây là bản chất lừa dối
của con người sa ngã. Tuy nhiên, Chúa nhẹ nhàng với bà và không khiển trách bà.
Thậm chí Ngài khen bà: “Ngươi nói: ‘Tôi không có chồng’, là đúng lắm; vì ngươi
đã có năm đời chồng, còn người mà ngươi hiện có chẳng phải là chồng ngươi; điều
đó ngươi đã nói thật vậy”. Người đàn bà nói với Ngài: “Thưa Ông, tôi nhìn thấy
ông là tiên tri”. Lời Chúa làm cho bà sợ hãi. Dường như bà muốn nói: “Ông này
không phải là người Do Thái sao? Ông ta chưa bao giờ sống trong thành phố này.
Làm sao ông ta biết lai lịch của mình? Ai nói với ông ta mình có năm đời chồng
và người mình đang có không phải là chồng mình?” Đó là cách chia sẻ phúc âm. Đừng
nói chuyện bông lông với người ta, nhưng hãy chạm đến lương tâm họ, không phải
để quở trách, mà để phơi bày họ. Nhờ lời khôn ngoan và đầy ân điển của Chúa,
lương tâm người đàn bà được đụng chạm. Cách cung ứng phúc âm đúng đắn là đụng đến
lương tâm người ta.
Nỗi khát khao của người đàn bà
Sa-ma-ri đã lôi kéo bà đến với những điều sai lầm, chẳng hạn như có năm đời chồng
và sống với một người đàn ông không phải chồng mình. Đó là cuộc đời bà thấy
mình đã mắc vào. Bà tìm kiếm những điều thuộc thể để làm cho mình thỏa mãn,
nhưng rồi chỉ tìm thấy sự không thỏa mãn. Sáu người đàn ông tượng trưng cho những
điều thuộc thể và vật chất, là những điều không bao giờ thỏa mãn loài người.
Bên cạnh những điều thuộc thể ấy,
bà cũng tìm sự thỏa mãn trong tôn giáo. Dầu là người đơn sơ như vậy, bà cũng rất
sùng đạo. Bà rất yếu đuối, nhưng thật kỳ lạ, bà cũng nói về tôn giáo. Tôn giáo
suông không bao giờ giúp ích cho ai. Hơn nữa, bà có truyền thống, vì giếng
Gia-cốp tượng trưng cho những điều thuộc truyền thống. Bà có gia tài truyền thống
mà bà thừa kế từ các tổ phụ mình. Nhưng không bao lâu, bà khám phá ra sự trống
rỗng trong truyền thống của mình. Vì vậy, người đàn bà Sa-ma-ri này có nhiều điều
thuộc về ba loại – những điều vật chất, những điều tôn giáo và những điều truyền
thống. Ba loại này tượng trưng cho mọi sự chúng ta có thể lấy ra từ đời người.
Trong đời người không có gì khác hơn là những điều vật chất, tôn giáo và truyền
thống. Không một điều nào thuộc vật chất, tôn giáo, truyền thống từng thỏa mãn
con người, vì càng có nhiều điều ấy, họ càng khát, và cơn khát của họ không bao
giờ dứt.
Những ông chồng của người đàn bà
này cũng là một dấu hiệu. Đấng Christ phải là người chồng duy nhất. Trong 2
Cô-rin-tô chương 11, sứ đồ Phao-lô bảo rằng ông đã gả chúng ta cho Đấng Christ.
Nói cách khác, ông đã cho chúng ta đính hôn với Đấng Christ. Đấng Christ là người
chồng thật. Nhưng người đàn bà này có năm đời chồng và một người đàn ông khác nữa.
Lý do bà gian ác và vô luân như vậy là vì bà khao khát. Vì những người chồng của
bà không thể làm cho bà thỏa lòng, nên bà vẫn cứ ở trong tình trạng không thỏa
mãn. Khi người chồng đầu tiên không làm bà thỏa mãn, bà tìm sự thỏa lòng nơi
người chồng thứ hai. Nhưng người chồng thứ hai của bà cũng không làm thỏa mãn sự
khao khát bên trong bà. Rồi bà lấy người chồng thứ ba, nhưng người này cũng
không thể đem đến sự thỏa mãn cho bà; người thứ tư và thứ năm cũng vậy, vì nhu
cầu duy nhất của bà là nước sống. Dầu có uống nước trần gian nơi những người chồng
của mình bao nhiêu chăng nữa, bà vẫn cảm thấy khát khao. Vì vậy Chúa nói với bà
ai uống nước này sẽ lại khát nữa. Ai uống nước thuộc về những điều vật chất,
tôn giáo và truyền thống sẽ lại khát nữa. Chỉ riêng Chúa Jesus có nước sống làm
cho chúng ta hết khát.
Những người chồng của bà tượng
trưng cho điều gì? Họ tượng trưng cho bất cứ những gì khác hơn là Đấng Christ.
Bất cứ điều gì ngoài Đấng Christ cũng có thể trở nên tội lỗi. Nếu chúng ta
nương dựa vào người nào hay điều gì khác hơn Đấng Christ, điều đó có thể là tội
lỗi. Những người chồng của người đàn bà Sa-ma-ri đã trở thành lịch sử cả cuộc đời
tội lỗi của bà. Như chúng ta đã thấy, Chúa đụng đến lịch sử tội lỗi của bà cách
rất khôn ngoan. Ngài không lên án tình trạng tội lỗi của bà là một tội nhân,
cũng không bắt bà ăn năn theo luật pháp và xưng tội mình cách cụ thể như một vài
nhà truyền giáo đã làm. Vì Chúa biết mọi sự, Ngài chỉ chạm vào lương tâm bà bằng
cách bảo bà đem người chồng đến. Qua đó, Chúa đã giúp bà xưng tội và ăn năn.
Vì Lời Chúa đề cập đến người chồng
đã chạm lương tâm bà nên bà liền chuyển câu chuyện sang vấn đề thờ phượng. Bà rất
khéo léo khi làm như vậy. Dầu là một người đàn bà vô luân đến mức ấy, bà vẫn
nói về sự thờ phượng Đức Chúa Trời. Điều này chứng minh tôn giáo là thế nào.
Người ta có thể thảo luận về tôn giáo mà vẫn sống vô đạo đức. Bà không xưng tội,
nhưng chuyển đề tài từ chồng mình sang việc thờ phượng Đức Chúa Trời, bà nói:
“Tổ phụ chúng tôi thờ lạy trên núi này, còn các ông lại nói nơi đáng thờ lạy là
tại Giê-ru-sa-lem”. Việc đổi đề tài này là cả một sự tinh vi của người đàn bà
Sa-ma-ri. Nan đề của bà về vấn đề thờ phượng, cũng giống những câu hỏi trong
8:3-7 và 9:2-3, là vấn đề đúng hay sai, thuộc về cây kiến thức; nhưng Chúa xoay
bà về linh (cc. 21-24), là điều thuộc về cây sự sống (đc. Sáng. 2:9-17). Khi
người đàn bà đổi đề tài từ chồng bà qua sự thờ phượng, Chúa Jesus nắm lấy cơ hội
bày tỏ cho bà phương cách đúng đắn để nhận lãnh nước sống.
2. Tiếp Xúc Đức Chúa Linh
Anh em hãy nghe lời Chúa về vấn đề
thờ phượng. “Jesus phán rằng: Đàn bà kia ơi, hãy tin Ta, giờ đến, các ngươi thờ
lạy Cha chẳng tại trên núi nầy, cũng chẳng tại Giê-ru-sa-lem. Các ngươi thờ lạy
điều các ngươi không biết, chúng ta thờ lạy điều chúng ta biết, vì sự cứu rỗi đến
từ dân Do Thái. Nhưng giờ sắp đến, mà nay đã đến rồi, khi kẻ thờ lạy thật lấy
tâm linh và lẽ thật mà thờ lạy Cha, vì Cha vẫn tìm kiếm người dường ấy để thờ lạy
Ngài. Đức Chúa Trời là Linh, nên ai thờ lạy Ngài thì cần phải lấy tâm linh và lẽ
thật mà thờ lạy” (4:21-24). Lời này được nói ra để dạy dỗ bà về nhu cầu vận dụng
linh tiếp xúc với Đức Chúa Linh. Tiếp xúc Đức Chúa Linh bằng linh mình là uống
nước sống, và uống nước sống là để dâng sự thờ phượng thật lên cho Đức Chúa Trời.
Theo biểu tượng học, cần phải thờ
phượng Đức Chúa Trời (1) tại nơi Đức Chúa Trời lựa chọn để lập chỗ ở của Ngài
(Phục. 12:5, 11, 13-14, 18) và (2) bằng các của lễ (Lê. 1–6). Nơi Đức Chúa Trời
lựa chọn làm chỗ ở của Ngài tượng trưng cho nhân linh, là nơi ở của Đức Chúa Trời
ngày nay (Êph. 2:22, “nơi ở của Đức Chúa Trời trong Linh”). Các của lễ tượng
trưng cho Đấng Christ; Đấng Christ là thành tựu và là thực tại của các của lễ
mà bằng những của lễ ấy người ta thờ phượng Đức Chúa Trời. Vì vậy, khi Chúa chỉ
dẫn bà thờ phượng Đức Chúa Linh trong linh và thực tại, điều đó có nghĩa là bà
cần phải tiếp xúc Đức Chúa Linh trong linh bà thay vì tại một nơi cụ thể nào
đó, và nhờ Đấng Christ thay vì bằng các của lễ, vì bây giờ, từ khi Đấng Christ
là thực tại đã đến (cc. 25, 26) thì mọi hình bóng và biểu tượng đã qua. Chúa
Jesus nói với người đàn bà Sa-ma-ri rằng Đức Chúa Trời là Linh, thờ phượng Đức
Chúa Trời có nghĩa là tiếp xúc với Ngài, và tiếp xúc với Ngài không phải là vấn
đề nơi chốn, nhưng là vấn đề nhân linh.
Khi Ngài nói: “Giờ sắp đến, mà
nay đã đến rồi” câu ấy có nghĩa là thời đại đã thay đổi. Trong quá khứ, theo Luật
pháp Môi-se, Đức Chúa Trời chỉ định rằng dân Ngài thờ phượng Ngài tại một nơi cụ
thể, là nơi Ngài thiết lập chỗ ở của Ngài với danh Ngài (Phục. 12:5). Mọi người
thờ phượng Đức Chúa Trời phải đi đến nơi duy nhất ấy. Đó là một biểu tượng. Bây
giờ thời đại đã thay đổi, và biểu tượng đã ứng nghiệm. Nói theo biểu tượng, nơi
thờ phượng không còn là một nơi nữa, mà là nhân linh, là nơi Đức Chúa Trời sẽ lập
nơi ở của Ngài và danh Ngài. Đâu là nơi duy nhất để dân Đức Chúa Trời thờ phượng
Ngài ngày nay? Đó là nhân linh của chúng ta. Theo Ê-phê-sô 2:22, nơi ở của Đức
Chúa Trời là nhân linh của chúng ta.
Vì sao trong những thời cổ xưa, Đức
Chúa Trời chỉ định rằng dân Ngài phải thờ phượng Ngài tại một nơi? Ấy là vì mục
đích giữ sự hiệp nhất. Đức Chúa Trời không bao giờ cho phép dân Ngài thờ phượng
Ngài tại một nơi nào khác hơn nơi Ngài đã lựa chọn. Nếu ai thờ phượng Ngài tại
một nơi khác, thì sự hiệp nhất giữa vòng dân Ngài đã bị tổn hại. Ngày nay chúng
ta có thể giữ sự hiệp nhất ở đâu? Ở trong nhân linh mình. Tất cả chúng ta đều
khác nhau trong tâm trí, sự hiểu biết, sự dạy dỗ, giáo lý, và quan niệm của
mình. Thậm chí tôi không tin rằng có một cặp vợ chồng nào suy nghĩ hoàn toàn giống
nhau. Mọi người đều có những quan niệm khác nhau. Anh em có quan niệm của mình
và tôi cũng vậy. Anh em có đường lối của anh em và tôi có đường lối của tôi.
Anh em có cái nhìn của anh em và tôi có cái nhìn của tôi. Làm thế nào chúng ta
hiệp nhất theo quan niệm, đường lối, và cái nhìn khác nhau? Chúng ta cần phải
quên hết và đến với linh mình. Khi tất cả chúng ta quay qua linh mình, chúng ta
là một. Vậy, hãy học tập đừng bao giờ tranh luận với người khác về giáo lý,
nhưng hãy luôn luôn hướng họ về linh họ. Tất cả chúng ta cần được nhắc nhở rằng
mình có một linh trong đó Đức Chúa Trời cư ngụ. Linh của chúng ta là nơi thờ phượng
Đức Chúa Trời, tức là nơi tiếp xúc Ngài. Khi nào chúng ta thờ phượng Đức Chúa
Trời trong linh mình, có nghĩa là chúng ta uống Đức Chúa Trời như nước sống.
Khi anh em ca ngợi Đức Chúa Trời bằng linh mình, ngay lập tức anh em được uống.
Nếu từ linh mình anh em nói: “Ngợi khen Đức Chúa Trời! Ô Cha ơi, con thờ phượng
Ngài”, thì anh em đang uống nước sống.
Chúa cũng nói rằng bây giờ là lúc
những người thờ phượng thật thờ phượng Đức Chúa Trời không những trong linh
mình, mà cũng trong thực tại nữa. Các Cơ Đốc nhân ngày nay khó có thể hiểu điều
này. Tuy nhiên, nếu xem xét biểu tượng, chúng ta sẽ hiểu Chúa đang nói về điều
gì. Trong các thời cổ xưa, Đức Chúa Trời định rằng dân Ngài thờ phượng tại nơi
Ngài qui định và bằng các của lễ. Dân chúng không thể thờ phượng Đức Chúa Trời
tại nơi nào họ lựa chọn và họ không thể thờ phượng Đức Chúa Trời mà không có của
lễ. Họ cần các của lễ vì tình trạng tội lỗi của mình. Khi đến tiếp xúc với Đức
Chúa Trời, họ phải dâng nhiều loại của lễ – của lễ chuộc sự mắc lỗi, của lễ chuộc
tội, của lễ bình an, của lễ chay, của lễ thiêu, của lễ dâng giơ lên, của lễ đưa
qua đưa lại. Mọi của lễ đều là biểu tượng về những phương diện khác nhau của Đấng
Christ. Đấng Christ là của lễ chuộc sự mắc lỗi thật sự của chúng ta. Ngài cũng
là của lễ chuộc tội, của lễ chay, của lễ bình an, và của lễ thiêu thật của
chúng ta. Ngày nay, thay vì thờ phượng Đức Chúa Trời tại một nơi cụ thể, chúng
ta nên thờ phượng Ngài trong linh mình. Hơn nữa, thay vì nhờ các của lễ, chúng
ta nên thờ phượng Ngài với Đấng Christ là thực tại của mọi của lễ.
Bây giờ đã đến thời điểm, hay thời
đại mà chúng ta cần phải thờ phượng Đức Chúa Trời trong linh mình là nơi chốn
duy nhất với Đấng Christ là thực tại. Làm thế nào chúng ta thực hiện điều đó?
Làm thế nào chúng ta áp dụng vấn đề thờ phượng Cha trong linh mình? Giả sử vài
anh em đến với nhau để thờ phượng Đức Chúa Trời, nhưng họ không vận dụng linh
mình. Thay vào đó họ vận dụng tâm trí. Họ bắt đầu thảo luận về vấn đề thờ phượng
Đức Chúa Trời và chẳng mấy chốc chia rẽ nhau vì những ý kiến đối chọi của mình.
Họ không vui với nhau và chia tay nhau. Điều những anh em này cần phải làm là vận
dụng linh, ngợi khen Chúa, kêu cầu danh Ngài, và nhìn xem những gì Ngài sẽ làm.
Họ không nên vận dụng tâm trí bằng cách nói chuyện. Họ cần phải vận dụng linh
mình bằng cách kêu cầu Chúa.
Làm thế nào chúng ta áp dụng điểm
thứ hai, là thờ phượng Đức Chúa Trời bằng chính Đấng Christ? Phương cách truyền
thống là đề nghị hát một thánh ca, và sau khi hát thánh ca ấy thì dâng một lời
cầu nguyện lên Cha trên trời. Đó là phương cách truyền thống của tôn giáo. Tuy
nhiên, khi nhóm nhau để thờ phượng, chúng ta phải vận dụng linh mình. Nếu chúng
ta làm như vậy, Thánh Linh là Đấng cư ngụ trong linh chúng ta sẽ có cơ hội chuyển
động. Ngài có thể chuyển động trong một anh em, cho anh em ấy có gánh nặng dâng
lên một lời chứng sống động về Đấng Christ. Sau đó anh em ấy sẽ làm chứng kinh
nghiệm sống động của mình về Đấng Christ. Khi làm như vậy, anh ấy dâng Đấng
Christ lên như một của lễ. Khi anh em làm chứng về kinh nghiệm của mình về Đấng
Christ, thì theo mắt Đức Chúa Trời, đó là dâng Đấng Christ lên cho Đức Chúa Trời.
Cuối cùng, của lễ ấy sẽ trở thành thức ăn cho anh em làm chứng và cho mọi người
đang cùng thờ phượng. Đó không phải là cách thờ phượng Đức Chúa Trời theo truyền
thống; đó là cách thờ phượng Đức Chúa Trời trong linh, với Đấng Christ mà mình
kinh nghiệm dâng lên cho Đức Chúa Trời để Ngài thỏa lòng và là thức ăn cho tất
cả những người thờ phượng khác. Đó là sự thờ phượng Đức Chúa Trời thật sự.
Nguyện Chúa ghi khắc trong chúng
ta thế nào là sự thờ phượng đúng đắn. Sự thờ phượng đúng đắn là liên tục uống
nước sống. Đức Chúa Linh là nước sống, và cơ quan để chúng ta uống nước sống là
nhân linh của mình. Khi nào chúng ta vận dụng nhân linh mình để tiếp xúc Đức
Chúa Trời, là Linh hằng sống, khi ấy chúng ta uống Ngài là nước sống trong Con
Ngài, là Jesus Christ.
3. Tin Rằng Jesus Là Đấng Christ
Để Có Sự Sống Đời Đời
Bây giờ chúng ta đến phương diện
sau cùng của phương cách nhận lấy nước sống, tức là tin rằng Jesus là Đấng
Christ. Khi người đàn bà Sa-ma-ri nghe Chúa trả lời câu hỏi của mình về sự thờ
phượng, bà vẫn cố gắng quay sang một đề tài khác, bà nói: “Tôi biết rằng
Mê-si-a (gọi là Christ) phải đến; khi Ngài đến rồi, sẽ truyền lại mọi điều cho
chúng ta” (4:25). Dường như bà muốn nói: “Ông nói với tôi nhiều điều quá, nhưng
chúng tôi đang chờ đợi Đấng Mê-si-a đến. Khi Ngài đến, Ngài sẽ bày tỏ mọi điều”.
Thật là một lời bào chữa! Sau đó Chúa trả lời bà: “Ta, người đang nói với ngươi
đây, là Đấng đó” (4:26). Nhờ lời này, Jesus dắt bà đến chỗ tin rằng Ngài là Đấng
Christ để bà được sự sống đời đời (20:31). Chúng ta thấy từ câu 29 bà đã tin. Mặc
dầu người đàn bà Sa-ma-ri tìm mọi cách thoát khỏi Chúa, nhưng trong sự khôn
ngoan của Ngài, Chúa đã bắt lấy bà. Đừng bao giờ tìm cách thoát khỏi bàn tay
Chúa. Người đàn bà Sa-ma-ri được thuyết phục, tin vào Ngài, và nhận được nước sống.
Có một sự thay đổi lớn lao trong đời sống bà. Bà là người vô luân như vậy mà vẫn
ở dưới ảnh hưởng của truyền thống tôn giáo, chú ý đến phải hay trái, đây hay
đó, cách này hay cách kia. Bà hoàn toàn ở trong tình trạng chết. Tuy nhiên,
Chúa đụng đến bà và xoay bà từ chết qua sống. Hiển nhiên bà ở dưới cây kiến thức,
nhưng Chúa xoay bà về cây sự sống. Ngài thay đổi bà từ sự chết qua sự sống đời
đời.
Chúa khải thị cho người đàn bà
Sa-ma-ri biết sự thỏa mãn thật của đời người là chính Chúa. Chúa bày tỏ cho bà
ba phương diện về chính Ngài: Ngài là món quà, là Đấng Ban Cho và là phương
cách nhận lãnh món quà. Chúa đã đề cập ít nhất ba điều về chính Ngài. Trong câu
10 Ngài nói: “Ví bằng ngươi biết sự ban tứ của Đức Chúa Trời”, bày tỏ rằng sự
ban cho của Đức Chúa Trời là chính Chúa, tức là sự sống đời đời. Ngài cũng bảo
bà: “thì ngươi chắc đã xin Người, và Người chắc đã cho ngươi nước sống”, bày tỏ
chính Chúa là Đấng Ban Cho. Cuối cùng, khi đọc cẩn thận, chúng ta sẽ khám phá rằng
cách người đàn bà nhận được sự ban cho ấy là tiếp xúc hay uống chính Đấng Ban
Cho.
IV. LỜI CHỨNG SỐNG ĐỘNG VỚI MỘT
MÙA GẶT KỲ DIỆU
A. Tội Nhân Ấy Tin, Được Thỏa
Mãn, Từ Bỏ Những Gì Đã Chiếm Ngự Lòng Mình, Và Làm Chứng
Sau khi nghe rằng Chúa Jesus là Đấng
Christ đã đến, bà bèn tin. Có một sự thay đổi lớn lao trong đời sống bà. Bà bỏ
bình nước lại, đi vào thành, và làm chứng cách sống động cho dân chúng. Lời chứng
này đã đem đến một mùa gặt kỳ diệu (4:28-42).
Theo quan niệm thiên nhiên của
chúng ta, phải mất thì giờ để giúp cho một người được cứu. Chúng ta cần phải bỏ
quan niệm này. Người ta có thể được thay đổi trong giây lát. Chúa có thể biến đổi
người ta cách nhanh chóng như vậy vì Ngài gọi những điều không có như có rồi, y
như Ngài đã làm trong sự sáng tạo. Không cần yếu tố thời gian. Theo quan niệm của
chúng ta, tội nhân cần thời gian để suy xét, tin và hoán cải. Quan niệm này
ngăn trở và làm cho việc rao giảng phúc âm của chúng ta yếu đi. Chúng ta cần phải
có đức tin, tin rằng trong khi mình nói chuyện với người ta, Chúa đang hành động
một cách đắc thắng. Người đàn bà Sa-ma-ri đã hoán cải trong giây lát. Trong quá
khứ chúng tôi đã thấy nhiều người hoán cải như vậy, vượt quá đức tin của chúng
tôi. Cách Chúa xoay người ta lại là ở trong Linh, theo phương cách của sự sống,
không theo phương cách giáo dục. Việc giáo dục cần thời gian. Việc dạy dỗ người
ta đòi hỏi thì giờ. Nhưng khi Chúa tái sinh người ta, Ngài làm cho họ trở nên tạo
vật mới và gọi những điều không có như đã có. Chúng ta cần phải có đức tin đắc
thắng này mỗi khi nói chuyện với tội nhân. Trong khi nói chuyện với họ, chúng
ta cần vận dụng linh mình để tin rằng Chúa đang hành động trong họ. Tự phát một
điều gì đó sẽ xảy ra trong họ, và họ sẽ đổi từ chết qua sống. Mặc dầu người đàn
bà Sa-ma-ri rất vô luân, thấp kém và chìm sâu trong tội, bà đã được hoán cải
trong khoảnh khắc. Cả cuộc đời bà thay đổi. Bà đến gặp người ta và nói: “Hãy đến
xem một người đã tỏ cho tôi mọi việc tôi đã làm. Ấy có phải là Đấng Christ
chăng?” (4:29). Điều này cho thấy bà tin Chúa Jesus là Đấng Christ và nhờ tin
như vậy bà nhận được nước sống và được thỏa mãn. Bà chắc chắn rằng Jesus là Đấng
Christ, và Linh đã đến trong bà.
Bức tranh trong Giăng chương 4
cũng bày tỏ cho chúng ta rằng sau khi tiếp xúc với Đấng Christ, bà từ bỏ tất cả.
Bà bỏ giếng và bỏ bình nước lại. Bà bỏ mọi sự và đi vào thành phố để nói cho
người ta về Đấng Christ, có nghĩa là một khi đã tiếp xúc với Đấng Christ, bà bỏ
mọi sự để chỉ có Đấng Christ là sự thỏa mãn của mình. Khi bà nói với dân chúng
trong thành phố: “Đó không phải là Đấng Christ sao?” bà nhận biết Ngài là Đấng
Christ. Theo mắt Đức Chúa Trời, bà có Đấng Christ rồi và đang đem Đấng Christ đến
với dân chúng. Thật là một lời làm chứng kỳ diệu! Chỉ khi tiếp xúc với Đấng
Christ, nhận biết Đấng Christ và tiếp nhận Đấng Christ chúng ta mới thỏa mãn.
Khi ấy tự phát chúng ta sẽ từ bỏ mọi điều gì khác hơn Ngài.
Tôi không bao giờ có thể quên sự
kiện xảy ra năm 1937 khi tôi đến thủ đô Trung Quốc để nhóm họp vài đêm. Sau buổi
nhóm cuối cùng, người vợ trẻ của một người đàn ông trí thức nói với tôi: “Ông
Lee à, sự giảng dạy của ông ảnh hưởng trên tôi rất nhiều, tôi muốn tin vào Đấng
Christ. Nhưng tôi có một nan đề. Tôi rất thích đi đến các rạp hát và xem nhạc kịch.
Nếu trở thành Cơ Đốc nhân, tôi sẵn sàng từ bỏ mọi thói quen xấu của mình. Nhưng
có một điều tôi không thể từ bỏ – đó là kịch và nhạc kịch. Tôi không thể từ bỏ
điều ấy. Tôi nên làm gì?” Bà tỏ ra rất thành khẩn. Tôi ngại nói với bà rằng Cơ
Đốc nhân mà đi xem nhạc kịch Trung Quốc là điều không đúng, vì như vậy bà sẽ từ
chối không muốn làm Cơ Đốc nhân nữa. Dĩ nhiên tôi không thể nói với bà rằng bà
có thể trở nên Cơ Đốc nhân mà vẫn đi đến các rạp hát. Tôi cầu nguyện để Chúa ban
cho mình sự khôn ngoan. Cuối cùng, tôi nói: “Giả sử đứa con nhỏ của bà thích
con dao nguy hiểm mà nó đang cầm trong tay. Cách tốt nhất để lấy con dao ấy khỏi
tay nó là gì?” Bà đáp: “Điều đó dễ thôi, nếu ông rải thật nhiều kẹo trên sàn
nhà chung quanh nó.” Tôi hỏi làm như vậy sẽ giúp ích như thế nào, và bà trả lời:
“Đứa bé sẽ bỏ con dao để lấy kẹo. Nếu hai tay nó không đầy kẹo, thì cho dù ông
bảo nó bỏ con dao xuống, nó cũng sẽ không chịu buông ra đâu”. Tôi khen bà đã trả
lời khôn ngoan và nói: “Bà có thấy một khi bà tiếp nhận Đấng Christ thì chính
điều đó sẽ xảy đến cho bà không?” Ngay lập tức, bà sáng tỏ và được cứu trong
đêm ấy.
Anh em có biết tại sao người ta
đang khao khát nhiều điều ngoài Đấng Christ không? Đơn giản là vì họ không thỏa
mãn với Đấng Christ. Nếu họ thỏa mãn với Ngài, họ sẽ quên mọi điều khác. Giếng
nước và bình nước rất có ý nghĩa đối với người đàn bà Sa-ma-ri, nhưng sau khi
nhận biết Đấng Christ, tự nhiên bà từ bỏ những điều mình yêu mến và đến với người
khác làm chứng rằng bây giờ Đấng Christ là sự sống làm bà được thỏa mãn. Anh em
có sự thỏa mãn trong cuộc sống làm người của mình không? Anh em thỏa mãn với điều
gì – với Đấng Christ, hay với những điều vật chất, tôn giáo, và truyền thống?
Chúng ta chỉ có thể thỏa mãn với Đấng Christ và không thể thỏa mãn với bất cứ
điều gì khác. Nếu định giúp đỡ những người khác, trước hết chúng ta phải thỏa
mãn với Đấng Christ rồi mới có thể đem Đấng Christ là sự thỏa mãn đến với họ.
Chỉ khi nào thỏa mãn với Đấng Christ, chúng ta mới có thể cho người khác biết
cách tiếp nhận Ngài và tiếp xúc với Ngài. Người đàn bà Sa-ma-ri không đem giáo
lý về Đấng Christ đến với dân mình, nhưng trước hết bà đã nhận được Đấng Christ
rồi đem Đấng Christ đến với họ.
B. Cứu Chúa Thỏa Mãn Với Ý Muốn Của
Đức Chúa Trời Trong Khi Làm Thỏa Mãn Tội Nhân
Trong trường hợp của người đàn bà
Sa-ma-ri, chúng ta thấy hình ảnh một tội nhân khao khát và Đấng Christ đói
khát. Cả hai đều mệt mỏi vì đã đi bộ đường xa đến giếng ấy. Do đó, Chúa Jesus
và người đàn bà rất thông cảm nhau. Cả hai đều khát nước và mệt mỏi, nhưng Chúa
lại còn đói nữa. Chúa đói nên Ngài sai các môn đồ đi mua thức ăn. Ngài cũng
khát nên Ngài xin bà nước uống. Tuy nhiên, chúng ta lưu ý thấy điều lạ lùng là
cả hai người đều không ăn uống gì cả, nhưng cả hai đều thỏa mãn. Tội nhân được
cứu thỏa lòng với Cứu Chúa, và Cứu Chúa thỏa lòng với tội nhân được cứu. Chúng
ta biết điều này qua sự việc bà bỏ giếng và bình nước của mình, chạy vào thành
phố nói về Đấng Christ. Bà thỏa lòng đến nỗi người ta đến xem đó có phải là Đấng
Christ không. Chúng ta biết Chúa Jesus thỏa lòng vì Ngài nói với các môn đồ khi
họ đem thức ăn về và mời Ngài ăn: “Ta có thức ăn để ăn mà các ngươi không biết”
(4:32). Khi các môn đồ hỏi nhau xem có ai đem thức ăn cho Ngài ăn không, thì
Ngài nói với họ: “Thức ăn của Ta tức là làm theo ý chỉ của Đấng đã sai Ta và
làm trọn công việc Ngài” (4:34). Thức ăn của Chúa là làm theo ý muốn của Đấng
đã sai Ngài, điều này có nghĩa thức ăn của Ngài là cứu và làm thỏa mãn tội
nhân. Tội nhân chúng ta là sự thỏa mãn cho Cứu Chúa. Cơn đói của anh em có
nghĩa là Chúa đang đói, cơn khát của anh em có nghĩa là Chúa đang khát. Nhưng
khi anh em thỏa mãn, Chúa cũng thỏa mãn. Hễ còn những tội nhân khát khao trên đất,
thì trên trời Chúa cũng khát khao. Khi các tội nhân thỏa mãn, Cứu Chúa cũng thỏa
mãn. Chúa đã đến Sa-ma-ri với một mục đích, ấy là để tìm tội nhân ấy và làm cho
bà thỏa lòng. Khi làm như vậy, Ngài thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời. Thực hiện
ý muốn của Đức Chúa Trời là thức ăn và sự thỏa lòng của Ngài.
C. Mùa Gặt Lạ Lùng Được Thu Hoạch
Trong câu 35 Chúa nói: “Các ngươi
há chẳng nói rằng: ‘Còn bốn tháng nữa thì tới mùa gặt’, sao? Nầy, Ta nói với
các ngươi, hãy ngước mắt lên và ngắm xem đồng ruộng, đã vàng sẵn cho mùa gặt rồi”.
Chúa bảo các môn đồ ruộng đã chín vàng rồi. Vậy họ phải đi gặt mùa màng. Ngày
nay nguyên tắc này vẫn đúng. Chúng ta đừng bao giờ nói chưa đến lúc rao giảng
phúc-âm. Nếu nhìn ra cánh đồng, chúng ta sẽ thấy một số người nào đó đang thật
sự khao khát Đấng Christ. Vì vậy, chúng ta phải đem Đấng Christ đến với họ và
đem họ đến với Đấng Christ. Đó là cách gặt họ cho Ngài.
Trong câu 36 Chúa nói: “Con gặt
lãnh tiền công, thâu hoa lợi cho sự sống đời đời”. Nhóm chữ “cho sự sống đời đời”
này trong tiếng Hi Lạp thì cũng giống y như nhóm chữ “cho đến sự sống đời đời”
trong câu 14. Chúa dùng nhóm chữ này hai lần trong chương này. Lần thứ nhất
Ngài nói nếu chúng ta nhận Ngài, Ngài sẽ là suối hay mạch trong chúng ta, phun
lên cho đến sự sống đời đời (4:14). Đấng Christ sẽ là giếng nước hay mạch nước,
phun lên cho đến sự sống đời đời. Lần thứ hai Ngài dùng nhóm chữ này là khi
Ngài giục giã các môn đồ đi ra thâu hoạch mùa màng để thâu hoa lợi cho đến sự sống
đời đời. Nói cách khác, sau khi được cứu và thỏa mãn với Đấng Christ, anh em phải
đem người ta đến với Ngài cho đến sự sống đời đời. Trước hết anh em phải tiếp
nhận Đấng Christ cho đến sự sống đời đời cho chính mình; sau đó anh em phải đem
người khác đến tiếp nhận Ngài cho đến sự sống đời đời. Có một Đấng Christ để
anh em tiếp nhận như một mạch nước bên trong anh em phun trào lên cho đến sự sống
đời đời, và có một vụ mùa để anh em gặt như hoa lợi cho đến sự sống đời đời.
Người đàn bà Sa-ma-ri đã làm y theo hai điều này. Một mặt, bà nhận được Đấng
Christ như mạch nước bên trong cho đến sự sống đời đời, mặt khác bà đi vào cánh
đồng mùa gặt để thâu hoạch dân của mình như hoa lợi cho đến sự sống đời đời.
Trong các câu 36 và 37 Chúa đề cập
đến việc gieo giống. Ở đây ai gieo? Giăng Báp-tít không đi đến Sa-ma-ri. Một số
người nghĩ rằng có vài môn đồ của Giăng hay của Chúa Jesus đã đến Sa-ma-ri và
giảng phúc âm trước đó, nhưng tôi không tin. Có thể chúng ta tin rằng hạt giống
đã được gieo ra bởi Cựu Ước. Người Sa-ma-ri quen thuộc với năm sách đầu của Cựu
Ước. Do đó, họ đi đến chỗ biết Đức Chúa Trời và cũng biết chút ít về Đấng
Mê-si-a, là Đấng Christ, dầu họ không biết rõ hay thấu suốt. Người Sa-ma-ri
không giống như người ngoại. Qua Cựu Ước họ nhận được chút ít kiến thức về Đức
Chúa Trời và về Đấng Christ. Tôi tin rằng đó là hạt giống. Vâng, ấy là Linh đắc
thắng của Chúa đã hành động trên người đàn bà Sa-ma-ri. Tuy nhiên nếu bà giống
như người ngoại, không biết chút gì về Kinh Thánh, tôi không nghĩ công tác được
thực hiện trong bà cách đắc thắng và nhanh chóng như vậy. Chúa Jesus không phải
nói gì về Đức Chúa Trời cho đến khi bà mở lời nói trước. Bà bắt đầu câu chuyện
về Đức Chúa Trời và Đấng Christ. Chúa Jesus không nói: “Bà ơi, bà có tin rằng
có một Đức Chúa Trời không? Bà có biết Đấng Christ không?” Chúa chỉ xin bà cho
Ngài uống nước. Khi bà trách Ngài vì xin nước của một người đàn bà Sa-ma-ri,
Ngài nói với bà về sự ban cho của Đức Chúa Trời. Qua lời Chúa nói, chúng ta có
thể thấy bà đã biết chút ít về Đức Chúa Trời và Đấng Christ. Đó là kết quả sự
hành động của năm sách đầu tiên trong Cựu Ước mà họ đã có sẵn. Vì vậy, trước
khi Chúa Jesus và các môn đồ Ngài đến, nhiều người đã được chuẩn bị sẵn.
Điều này cũng đúng tại Mỹ. Hạt giống
đã được gieo khắp đất nước này. Chúng ta phải nhận biết rằng mùa màng đã thật
chín, sẵn sàng cho việc gặt hái. Nhiều người đã được các chức vụ khác và những
đầy tớ của Chúa đã được chuẩn bị sẵn trong nhiều năm qua. Lòng và linh của nhiều
người đã được chuẩn bị để tiếp xúc và nhận lãnh Đấng Christ làm sự thỏa lòng của
mình, nhưng họ không biết cách thức. Tại Mỹ, ngay cả những người vô tín và vô
thần cũng biết chút ít về Đức Chúa Trời và về Đấng Christ. Thậm chí họ đã từng
nghe về sự cứu rỗi. Điều chúng ta cần làm là thâu hoạch những gì đã được gieo.
Người đàn bà Sa-ma-ri không mang giáo lý về Đấng Christ mà đến với dân mình;
trước hết bà nhận được Ngài, rồi mới đem Ngài đến với họ.
Câu 39 chép: “Có nhiều người
Sa-ma-ri ở thành đó tin Ngài, vì cớ lời người đàn bà đã làm chứng”. Qua chứng cớ
sống động của người đàn bà Sa-ma-ri, thêm nhiều tội nhân được đem đến với Chúa.
Khi tiếp xúc với Chúa, họ đều tin và tiếp nhận Ngài làm Cứu Chúa mình. Đó là một
mùa gặt kỳ diệu qua chứng cớ sống động của bà.
Tóm lại, chúng ta có thể thấy hai
trường hợp đầu trình bày rõ ràng về hai điểm riêng biệt. Trường hợp đầu tiên
cho thấy Đấng Christ đem sự sống thần thượng đến cho chúng ta qua sự tái sinh
hay sự sinh lại; trường hợp thứ hai cho thấy Đấng Christ đem sự thỏa mãn đến
cho chúng ta. Kinh nghiệm của chúng ta có thể khẳng định hai khía cạnh này. Khi
mới tiếp nhận Đấng Christ, chúng ta được sinh lại hay tái sinh bằng sự sống thần
thượng. Sau đó chúng ta được thỏa mãn với nước sống. Hai trường hợp này là dấu
hiệu chỉ về hai phương diện khác nhau của Đấng Christ là sự sống của chúng ta.
Chúng ta đừng đọc Phúc Âm như những câu chuyện về các phép lạ. Chúng ta phải đọc
những lời tường thuật này như những lời tuyên bố theo nghĩa bóng và khám phá ý
nghĩa thuộc linh của các dấu hiệu đó. Khi ấy chúng ta sẽ tìm thấy các nguyên tắc
thuộc linh sống động về Đấng Christ, tức Đấng là sự sống và sự thỏa mãn cho
loài người.
-