Thứ Bảy, 14 tháng 5, 2016

SỰ SỐNG CẦU NGUYỆN


Trong bất cứ việc gì chúng ta làm đều cần sự tương ứng để thực hiện công việc đó. Thật ra là chỉ sự sống cụ thể mới có thể thực hiện công việc cụ thể. Cầu nguyện không ở ngoài qui luật này. Cầu nguyện là vấn đề vô cùng thuộc linh, thánh khiết và siêu việt; vì vậy, cầu nguyện đòi hỏi một sự sống đặc biệt thậm chí hơn cả những điều khác. Để cầu nguyện cách đúng đắn, chúng ta không chỉ nên quan tâm đến hành vi bên ngoài mà còn phải đi sâu hơn để biết sự sống cầu nguyện bên trong. Khi còn trẻ, tôi đọc nhiều sách về sự cầu nguyện và lúc đó tôi được giúp đỡ. Dần dần, khi tiến thêm vài bước trong Chúa, tôi thấy sự giúp đỡ đó khá nông cạn và không có trọng lượng. Càng ngày tôi càng đến chỗ nhận biết rằng cầu nguyện không phải là vấn đề hành vi ở bên ngoài mà hoàn toàn là điều gì đó ở bên trong. Vì vậy, chúng ta phải biết những điều kiện cần thiết để cầu nguyện đúng đắn. Trong chương 3, chúng ta thấy rằng người cầu nguyện phải đúng đắn và ngay thẳng trước mặt Đức Chúa Trời. Cũng cần quan tâm đến tình trạng bên trong của người cầu nguyện, tức là sự sống cầu nguyện bên trong người đó.

I. SỰ SỐNG NÀY LÀ SỰ SỐNG CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
BÊN TRONG CHÚNG TA
Sau khi được cứu, chúng ta có Đức Chúa Trời sống trong chúng ta làm sự sống. Sự sống này là sự sống cầu nguyện bên trong chúng ta. Chức năng đầu tiên, đặc tính và khả năng của sự sống này là cầu nguyện. Vì vậy, sau khi được cứu, điều mà một Cơ-đốc nhân thích làm nhất là cầu nguyện. Chẳng hạn, con vịt có đặc tính là thích bơi lội trong nước. Nếu anh em thả một gà con và một vịt con xuống nước, lập tức con gà con sẽ bỏ chạy trong khi vịt con sẽ nhanh chóng bơi lội. Điều này xảy ra vì đặc tính thích nước vốn có trong bản chất của con vịt. Cũng vậy, sự sống của Đức Chúa Trời bên trong chúng ta có một đặc tính là thích cầu nguyện. Tất cả tín đồ thật đều thích vậy. Nếu ngưng cầu nguyện ba ngày, họ cảm thấy không ổn ở bên trong. Nếu ngưng cầu nguyện một tuần, họ sẽ cảm thấy thậm chí bên trong tồi tệ hơn. Nếu ngưng cầu nguyện một thời gian dài, họ sẽ cảm thấy như thể mất mát điều gì đó hay có người thân qua đời. Trái lại, hễ khi nào cầu nguyện, họ cảm thấy ổn thỏa bên trong vì đặc tính của sự sống bên trong họ là thích cầu nguyện. Sự sống này không chỉ đòi hỏi phải cầu nguyện mà còn có khả năng cầu nguyện.
Thật ra, chúng ta không thể dạy ai cầu nguyện. Tất cả những gì chúng ta có thể làm là chỉ ra phương cách, vì khả năng thật sự để cầu nguyện tiềm tàng trong sự sống của một Cơ-đốc nhân. Hễ là người được cứu thì bên trong anh em có một sự sống như vậy với một chức năng như vậy. Đúng vậy, chúng ta dạy các anh chị em cầu nguyện; nhưng xin nhớ rằng chúng ta chỉ có thể dạy vì bên trong họ đã có sự sống cùng với một chức năng như vậy rồi. Chẳng hạn, anh em không thể dạy cho một con chó nói. Dù anh em cố gắng khó nhọc đến đâu cũng vô ích, vì bên trong con chó không có khả năng nói. Khả năng này không tìm thấy trong sự sống động vật mà chỉ có trong sự sống con người. Nếu luôn nói chuyện với một người Anh thì tôi tin rằng sau 5 hay 6 tháng, tôi sẽ có thể nói tiếng Anh rất lưu loát. Tuy nhiên, có thể có mèo và chó trong nhà ở với chúng ta nhiều năm mà chúng không thể nói được một câu nào vì chúng không có khả năng đó bên trong. Cũng vậy, dù anh em cố gắng khó nhọc đến đâu để dạy một người chưa được cứu cầu nguyện, người ấy vẫn không thể cầu nguyện, không thích cầu nguyện và bực bội mỗi khi thấy Cơ-đốc nhân cầu nguyện. Họ không hiểu rằng chúng ta sẽ cảm thấy bức rứt không yên nếu không cầu nguyện. Đức Chúa Trời, Đấng mà chúng ta tiếp nhận đã trở nên sự sống bên trong chúng ta và sự sống này có một chức năng; chức năng đó là cầu nguyện. Hễ khi nào chúng ta không hạn chế sự sống này, nhưng để cho sự sống này được tự do và có cơ hội hành động, khi đó sự sống này không chỉ khao khát cầu nguyện mà còn cầu nguyện.
Tất nhiên, giống như con người cần tập luyện để phát biểu, thì con người cũng cần tập luyện để cầu nguyện cách đúng đắn. Những lời cầu nguyện sẽ tiến bộ nhanh hơn nếu được hướng dẫn, nhưng đây hoàn toàn là một vấn đề khác. Chúng ta cần thấy rằng chính sự sống của Đức Chúa Trời bên trong chúng ta trở nên sự cầu nguyện của chúng ta. Vì vậy, nếu khao khát trở nên người cầu nguyện, chúng ta phải học tập luôn sống trong Đức Chúa Trời. Càng sống trong Đức Chúa Trời, đặc tính của sự sống này sẽ càng được biểu lộ và chúng ta sẽ càng khao khát cầu nguyện. Sự sống này bên trong chúng ta có một đặc tính làm chúng ta ham muốn cầu nguyện, một khả năng làm chúng ta có thể cầu nguyện và đòi hỏi muốn chúng ta phải sống trong Đức Chúa Trời. Do đó, cầu nguyện là vấn đề của sự sống.
Trong việc giúp đỡ tín đồ mới, chúng ta cần chỉ ra cách mạnh mẽ rằng cầu nguyện không chỉ là một hoạt động bên ngoài mà còn là vấn đề sự sống bên trong. Cầu nguyện xuất phát từ những đặc tính và khả năng của sự sống và sự sống này là chính sự sống của Đức Chúa Trời. Do đó, Đức Chúa Trời đòi hỏi anh em phải luôn luôn sống trong sự sống của Ngài. Hễ khi nào sự tương giao giữa chúng ta và Đức Chúa Trời bị gián đoạn, sự sống này trong anh em sẽ ở trong tình trạng sống dở chết dở; vì vậy, anh em không thích cầu nguyện và hầu như anh em không thể cầu nguyện. Anh em phải phục hồi sự tương giao với Đức Chúa Trời và sống trong Ngài, bởi đó sẽ khiến sự sống bên trong anh em được phục sinh. Vì thế, tự phát anh em có thể chạm đến ý thức cầu nguyện bên trong, có ước muốn và quan tâm đến sự cầu nguyện, và sở hữu khả năng cầu nguyện. Anh em biết nói điều gì, nói như thế nào và cũng biết lời cầu nguyện nào có thể chạm đến ngai của Đức Chúa Trời và đụng đến trung tâm của lòng Ngài. Những người khác không thể dạy anh em, nhưng bên trong anh em biết vì đây là vấn đề của sự sống bên trong. Sự sống ở trong anh em có khả năng làm cho anh em có thể cầu nguyện. Dĩ nhiên, nếu luôn cầu nguyện với những người cầu nguyện đúng đắn, tự động anh em sẽ theo cách cầu nguyện của họ. Cũng vậy, nếu thường ở với người miền Bắc, anh em sẽ nói giọng Bắc; nhưng nếu ở lâu với người miền Nam một thời gian dài, khi đó anh em sẽ nói giọng Nam. Điều này là không thể tránh khỏi.
II. SỰ SỐNG NÀY LÀ THÁNH KHIẾT, PHÂN RẼ
Sự cầu nguyện này bên trong chúng ta, vì đó là sự sống của Đức Chúa Trời, phân rẽ khỏi mọi điều không phù hợp với Đức Chúa Trời. Vì vậy, sự sống này đòi hỏi anh em phải phân rẽ khỏi thế giới và yêu cầu anh em gạt bỏ bất cứ điều gì ở ngoài Đức Chúa Trời. Nếu muốn trở thành người cầu nguyện là người có thể cầu nguyện, sẵn sàng cầu nguyện và là người cầu nguyện đúng đắn, anh em phải đồng ý với đòi hỏi của sự sống trong anh em bằng cách gạt bỏ bất cứ điều gì sự sống muốn anh em gạt bỏ. Hễ khi nào không đồng ý với đòi hỏi của sự sống về sự thánh khiết dù chỉ một ít, anh em làm chết sự sống cầu nguyện. Điều đó như thể anh em bóp cổ nó. Đừng bao giờ nghỉ đến chính mình: “Ồ, đó chỉ là một chút thế tục; đó không phải là một tội lớn”. Vấn đề không phải là lớn hay nhỏ mà là sự sống này có đòi hỏi trong anh em hay không. Nếu sự sống đòi anh em phải từ bỏ điều gì đó ra ngoài Đức Chúa Trời thì anh em cần phải làm theo.
Thưa anh chị em, tôi tin rằng anh chị em đã có loại kinh nghiệm này rồi. Đôi khi sự sống thánh khiết này bên trong anh em đòi anh em không được mặc y phục nào đó. Khi sự sống đòi hỏi như vậy, có thể anh em lý luận và nói: “Điều này không có tội và không thành vấn đề nếu tôi mặc nó”. Anh em có thể lý luận, nhưng sự sống cầu nguyện sẽ không nghe anh em. Một khi sự sống cầu nguyện bên trong anh em đòi hỏi anh em về sự thánh khiết, sự sống ấy sẽ không bao giờ nghe bất kỳ lý lẽ nào. Nếu không đồng ý, sau đó anh em không thể cầu nguyện.
Tại sao ngày nay, khi các anh chị em đến với nhau, họ thường không thể mở miệng? Đó là vì tất cả chúng ta có một số nan đề trong việc đồng ý với những đòi hỏi về sự thánh khiết bên trong chúng ta. Nhiều lần các anh chị em, cho dù được anh em khích lệ, vẫn không thể mở miệng trong buổi nhóm. Đó là vì họ đã từ chối những đòi hỏi về sự thánh khiết bên trong họ. Những đòi hỏi về sự thánh khiết không đến từ giáo lý nhưng hoàn toàn đến từ sự sống cầu nguyện bên trong.
Vì vậy, nếu muốn học bài học về sự cầu nguyện, chúng ta phải chú ý đến bất cứ điều gì mà sự sống cầu nguyện bên trong đòi hỏi. Tôi xin nhắc lại, điều mà sự sống này ở bên trong đòi hỏi chúng ta là sự thánh khiết. Sự sống này đòi hỏi chúng ta phải phân rẽ khỏi mọi người, các hoạt động và những điều ở ngoài Đức Chúa Trời. Một điều chắc chắn là anh em càng cầu nguyện với Đức Chúa Trời bởi sự sống này, thì những đòi hỏi của sự sống này bên trong anh em càng trở nên nghiêm nhặt. Nếu luôn sống trong sự cầu nguyện này, anh em không cần nhiều sự dạy dỗ bên ngoài từ con người. Anh em càng cầu nguyện, sự sống này bên trong anh em càng được vận dụng và chức năng phân rẽ của sự sống ngày càng biểu lộ.
Không ai có thể thánh khiết hơn người liên tục cầu nguyện trước mặt Đức Chúa Trời. Người thánh khiết nhất là người cầu nguyện không thôi trước mặt Đức Chúa Trời. Khi người ấy cầu nguyện, sự sống trong người ấy được vận dụng và tự phát sản sinh chức năng thánh hóa. Sự sống này đòi hỏi người ấy phải tự phân rẽ khỏi hoạt động này, hoạt động kia, và khi cầu nguyện thêm, sự sống đòi hỏi người ấy thêm nữa rằng phải gạt bỏ điều này, điều kia. Khi người ấy còn cầu nguyện thêm nữa, sự sống đòi hỏi người ấy hơn nữa rằng phải từ bỏ người này, người kia. Người ấy càng đầu phục những đòi hỏi thánh hóa thì sự sống cầu nguyện trong người ấy càng trở nên sống động và tự phát người ấy ham thích cầu nguyện nhiều hơn. Hơn nữa, khả năng cầu nguyện càng gia tăng thì những lời ngợi khen, cảm tạ, nài xin, cách diễn đạt thậm chí lời phát biểu của người ấy càng trở nên đặc biệt. Bây giờ kỹ thuật cầu nguyện của người ấy trỗi hơn nhiều so với những gì trước đây. Tất cả tình trạng chứng tỏ rằng người ấy vẫn đang đầu phục những đòi hỏi về sự thánh khiết được lập nên bởi sự sống cầu nguyện bên trong người ấy.
Chẳng hạn, nhiều người thích đi xem phim. Điều này giống như con bọ quấy rối con cái Đức Chúa Trời. Thật rất khó để tống khứ nó, vì một cách vô thức, nó cứ trở lại không biết bao nhiêu lần. Những anh chị em đi xem phim phải thừa nhận rằng họ không thể cầu nguyện trong lúc xem phim hay sau khi từ rạp hát trở về. Họ không thể cầu nguyện vì họ không đầu phục chính mình trước đòi hỏi về sự thánh khiết. Trong khi còn đang có ý định, ước muốn và dự định đi xem phim, sự sống cầu nguyện bên trong họ đã yêu cầu họ đừng đi rồi. Tuy nhiên, họ vẫn cứng lòng nói: “Chúng tôi không quan tâm; chúng tôi sẽ đi xem phim cho dù điều này làm chúng tôi ở trong tối tăm. Sau cuốn phim này, chúng tôi lại sẽ tương giao với Chúa”. Vì vậy, trong khi đi tới rạp hát, điều gì đó bên trong cứ quấy rầy họ. Sau khi xem phim trở về, họ không thể cầu nguyện một thời gian dài. Tại sao lại như vậy? Lý do duy nhất là họ đã từ chối những đòi hỏi về sự thánh khiết bên trong và bởi đó làm tổn thương sự sống cầu nguyện.
Trái lại, chúng ta hãy xem một người khác, sau khi được cứu, cũng ước muốn xem phim. Tuy nhiên, trong khi đang trên đường đến rạp hát, anh cảm thấy bứt rứt, và lập tức sẵn sàng quan tâm đến cảm xúc bứt rứt ấy. Đồng ý với đòi hỏi này về sự thánh hóa, người ấy nói với Chúa: “Chúa ơi, con sẽ không đi nữa và con từ bỏ điều này bằng cách tin cậy Ngài”. Tức thì, trong người ấy có một ước muốn cầu nguyện. Người ấy có thể cầu nguyện cho Hội Thánh, cho những người thân bạn bè mình. Tức thì người ấy có gánh nặng cầu nguyện bên trong.
Cho nên, chúng ta phải thấy rõ rằng sự sống của Đức Chúa Trời trong mỗi người cầu nguyện là thánh khiết và phân rẽ. Sự sống ấy khước từ bất cứ điều gì không tương ứng với bản chất thần thượng. Sự sống này đòi hỏi người ấy phải tương thích hoàn toàn với bản chất của Đức Chúa Trời. Sự sống này không tranh luận cũng không nghe những lý lẽ. Nếu một người không quan tâm đến đòi hỏi của sự sống cầu nguyện bên trong mình, người ấy đang làm sự sống đó chết và không thể cầu nguyện. Trái lại, ngay lúc người ấy đồng ý với những đòi hỏi của sự sống, tức thì sự sống cầu nguyện được kích hoạt.
III. SỰ SỐNG NÀY TUYỆT ĐỐI GHÉT TỘI LỖI
Vì sự sống cầu nguyện bên trong chúng ta cũng là sự sống ghét tội nên người nào muốn học cách cầu nguyện cũng phải triệt để xử lý các tội phạm. Sự sống này bên trong con người có đặc tính ghét tội và cũng có khả năng làm cho con người xử lý các tội phạm. Nếu anh em bị ô uế bởi các tội phạm dù chỉ một chút hay yêu mến thế giới một chút, lập tức bên trong anh em có cảm nhận rằng anh em không tương ứng với đặc tính của sự sống này. Không chỉ các tội phạm và thế giới mà ngay cả một chút kiêu ngạo, chỉ trích, xem thường người khác, nội hướng, khoe mình hay có ý tự phụ cũng sẽ làm anh em không thể cầu nguyện. Bất cứ sự không lương thiện, thất tín, bất chính hay bất công nào cũng sẽ dập tắt sự cầu nguyện.
Ngoài cầu nguyện thì không một điều gì khiến một người bị xử lý trước mặt Đức Chúa Trời cách nghiệm nhặt nhiều như vậy. Người cầu nguyện đúng đắn luôn luôn bị xử lý trước mặt Đức Chúa Trời mỗi khi cầu nguyện. Một số người học bài học nghiêm khắc như vậy thường thấy rằng trong 20 phút cầu nguyện, thì hết 15 phút dành  cho việc bị Đức Chúa Trời xử lý, trong khi chỉ 5 phút còn lại dùng để cầu xin Đức Chúa Trời. Tiếc thay, những người khác không thích như vậy. Họ luôn phớt lờ những đòi hỏi và sự lên án của sự sống ở bên trong. Họ đến trước Đức Chúa Trời cách rất khinh suất và không được xử lý, họ mở miệng cầu nguyện ngay. Lời cầu nguyện như vậy chỉ đánh gió, không thật và không sẵn sàng được Đức Chúa Trời đáp lời.
Nếu anh em không xử lý các tội phạm cách đúng đắn, chúng sẽ tạo ra một khoảng cách giữa anh em và Đức Chúa Trời. Các tội phạm càng nhiều, khoảng cách này càng lớn, làm anh em không thể cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Vì vậy, để loại bỏ khoảng cách này, trước hết anh em cần xử lý các tội phạm. Trong lời cầu nguyện, anh em cần xưng tội, từng tội một theo cảm nhận bên trong của sự sống. Với mỗi tội được xưng nhận, anh em tiến tới một bước. Sau khi xưng nhận mọi tội cách triệt để, khoảng cách này biến mất và khi mở miệng cầu nguyện, chắc chắn anh em có thể chạm được Đức Chúa Trời. Lời của anh em không đánh gió mà đúng ra, từng lời đều có thể chạm đến Đức Chúa Trời.
Tại đây, đức tin của sự cầu nguyện cũng phát sinh. Hễ khi nào đến trước mặt Đức Chúa Trời để cầu nguyện, sự sống trong anh em ghét các tội phạm và có ý thức về chúng. Anh em phải xưng nhận chúng từng tội một theo những gì mà sự sống ấy lên án. Rồi sự sống này sẽ giải phóng anh em bên trong và biện chính anh em. Bây giờ anh em là người ở trước mặt Đức Chúa Trời, không có khoảng cách hay chướng ngại giữa anh em và Ngài. Lúc này, vì không có sự lên án hay lỗ hổng trong lương tâm anh em nên từng lời cầu nguyện đều thấu đến Đức Chúa Trời. Sau khi cầu nguyện như vậy, tự phát anh em có sự bảo đảm và có thể tin rằng Đức Chúa Trời đã nghe lời cầu nguyện của anh em.
Nếu để các tội phạm còn đó rồi cầu nguyện mà không xử lý chúng, chắc chắn sẽ có một khoảng cách giữa anh em và Đức Chúa Trời và chắc chắn lương tâm sẽ lên án anh em. Nếu có một lỗ hổng hay sự rò rỉ trong lương tâm, anh em khó mà có được đức tin sau khi cầu nguyện. Nếu lương tâm người nào có lỗ hổng thì đức tin của người ấy sẽ bị rò rỉ. Nói cách khác, một người mà lương tâm không thuần khiết hay bị rò rỉ thì không dễ gì có đức tin. Dù có thể cầu nguyện, nhưng người ấy không có sự bảo đảm vì lời cầu nguyện của người ấy không bám chặt Đức Chúa Trời. Xin nhớ rằng để biết chắc lời cầu nguyện của anh em chạm đến Đức Chúa Trời thì anh em phải xử lý các tội phạm theo những đòi hỏi xuất phát từ bản chất ghét tội ở trong anh em. Đây là một nguyên tắc lớn trong Kinh Thánh.
Hãy xem câu chuyện về người đàn bà Sa-ma-ri trong Giăng chương 4. Khi nhận thấy Chúa Jesus có nước sống để làm thỏa cơn khát của mình, bà liền xin Ngài rằng: “Thưa ông, xin cho tôi nước ấy”. Bà muốn nước sống. Nhưng Chúa Jesus đáp lời bằng cách đụng đến vấn đề tội lỗi của bà. Chúa phán: “Hãy đi, gọi chồng ngươi, rồi trở lại đây”. Hễ khi nào đến trước mặt Đức Chúa Trời để cầu nguyện, Chúa sẽ đụng đến vấn đề tội lỗi của chúng ta. Hơn nữa, Ngài sẽ đụng đến bất cứ nhược điểm nào của chúng ta trong những ý định, động cơ, hành động và thái độ của chúng ta.
Thưa anh chị em, khi Chúa đụng đến những nhược điểm của mình, chúng ta có sẵn sàng tiếp nhận sự sửa sai của Ngài không? Đây là một nan đề lớn. Hãy lấy một ví dụ về một anh em kia rõ ràng là đã xúc phạm vợ mình. Khi anh cầu nguyện, sự sống-ghét-tội cho anh một cảm nhận rằng anh không chỉ phải xưng tội mình trước mặt Đức Chúa Trời mà còn phải xin vợ tha lỗi. Là một người kiêu ngạo, anh sẽ không xin vợ tha lỗi và hậu quả là vì không muốn xử lý vấn đề này nên anh không thể cầu nguyện được nữa. Tình trạng này cứ như vậy trong một thời gian dài cho đến một ngày kia Đức Chúa Trời thúc ép anh đến nỗi anh phải đến trước vợ, hạ mình nói: “Anh đã sai trật trong vấn đề đó vào hôm đó, hãy tha lỗi cho anh”. Thật lạ lùng, khi anh xưng nhận như vậy, sự sống bên trong anh lập tức giải phóng anh và anh lại có thể cầu nguyện.
Đây là một ví dụ khác. Giả sử trong buổi nhóm Bàn Chúa, anh em ghét lời cầu nguyện của một anh em nọ và bởi đó khi trở về nhà, anh em không thể cầu nguyện được. Để cầu nguyện, trước hết anh em phải xưng nhận tội này. Lúc đó, anh em phải đi theo cảm nhận lên án đó trong anh em và nói với Chúa: “Chúa ơi, tại Bàn của Chúa con đã xem thường lời cầu nguyện của anh em đó. Xin tha thứ con”. Anh em phải xưng nhận tội mình nếu không anh em sẽ không thể cầu nguyện và sẽ luôn cảm thấy có một khoảng cách giữa anh em và Đức Chúa Trời. Nếu không xưng nhận các tội phạm của mình thì những lời cầu nguyện của anh em không thể chạm đến Đức Chúa Trời. Tất cả những nguyên tắc này đều liên hệ đến sự sống bên trong chúng ta.
Vì vậy, cách tốt nhất để khiến một người ghét tội, lên án tội, khước từ tội và lìa xa tội là người ấy đến trước mặt Đức Chúa Trời trong sự cầu nguyện. Nếu anh em không cầu nguyện dù chỉ một lần trong ba ngày thì việc anh em kể mình chết hằng ngày là vô ích; các tội phạm vẫn còn trên anh em và anh em không thể đắc thắng chúng. Nhưng nếu thường xuyên đến trước mặt Đức Chúa Trời để cầu nguyện và xử lý các tội phạm theo cảm nhận bề trong của sự sống, cuối cùng anh em sẽ thoát tội lỗi, bản thể bề trong của anh em sẽ được kích hoạt và anh em sẽ yêu thích cầu nguyện và có thể cầu nguyện vì sự sống cầu nguyện là sự sống ghét tội.
IV. SỰ SỐNG NÀY YÊU THÍCH SỰ SÁNG
Chúng ta biết rằng sự cong quẹo và xảo quyệt là những yếu tố của sự tối tăm; trong khi sự tốt lành; công chính, chân thật, chánh trực là những đặc điểm của sự sáng. Chắc chắn chúng ta ở trong tối tăm nếu có sự cong quẹo hay xảo quyệt trong động cơ, cách sống, hành động và cuộc trò chuyện của mình. Đôi khi, không có những tình trạng này, nhưng có một loại tối tăm khác, loại tối tăm này là chính sự tối tăm. Một số người ở trong sự tối tăm bởi vì cong quẹo, xảo quyệt hay kiêu ngạo; một số khác ở trong sự tối tăm chỉ bởi sự tối tăm bên trong và không có sự sáng. Có thể đó là người cư xử rất tốt, không có chút xảo quyệt nhưng ngay thẳng, chân thật, ngây thơ, không khoe khoang và khiêm nhường. Người ấy không có lỗi lầm gì, dầu vậy, người ấy tối tăm ở bên trong, không có sự sáng. Xin nhớ rằng bất cứ hình thức tối tăm nào đều có thể làm anh em không thể cầu nguyện. Một người không thể cầu nguyện hễ khi nào người ấy tối tăm ở bên trong.
Có thể anh em suy xét: “Đúng là sự xảo quyệt, cong quẹo và kiêu ngạo có thể làm chúng ta tối tăm ở bên trong, nhưng làm thế nào chúng ta có thể ở trong tối tăm khi không có lỗi lầm gì?”. Toàn bộ sự tối tăm là do nan đề nào đó, nhưng có thể có một loại tối tăm ngay cả khi không có lỗi lầm nào về đạo đức. Thực ra nói cách thuộc linh, loại tối tăm này cũng có nan đề nào đó ngấm ngầm. Tại sao có sự tối tăm trong con người? Chủ yếu vì con người cứ mãi đóng kín và có màn che ở bên trong. Đôi khi anh em gặp một anh em hay chị em là người cư xử tốt, khiêm nhường và thương yêu như bản thể của người ấy không mở ra. Người ấy không mở ra với Đức Chúa Trời cũng không mở ra với các Chi Thể của Thân Thể. Người ấy đóng kín với Đức Chúa Trời cũng như với con người. Không chỉ thế, người ấy cũng là người khước từ ánh sáng một cách rõ ràng. Khi ánh sáng chiếu đến, người ấy không quan tâm, thậm chí còn dùng lời bào chữa để khước từ ánh sáng. Vì là người đóng kín và khước từ ánh sáng nên dầu là người tốt nhưng người ấy vẫn còn ở trong tối tăm.
Một điều chắc chắn là dù một người ở trong bất cứ loại tối tăm nào, loại tối tăm ấy sẽ luôn làm cho người đó không thể cầu nguyện. Những người cong quẹo hay kiêu ngạo chắc chắn không thể cầu nguyện. Cũng vậy, người nào khép kín với Đức Chúa Trời cũng như với con người và những người khước từ ánh sáng, chắc chắn sẽ không vui hưởng sự cầu nguyện. Vì sự sống cầu nguyện trong chúng ta là sự sống yêu thích sự sáng. Càng mở chính mình ra với Đức Chúa Trời cũng như với tất cả anh chị em, chúng ta càng nhận được ánh sáng và để cho ánh sáng điều chỉnh chúng ta. Khi cứ ở trong ánh sáng như vậy, bên trong chúng ta sẽ có sự khao khát mãnh liệt cầu nguyện.
Tôi đã gặp một số anh chị em là những người thực sựz khiêm nhường, nhu mì, thương yêu, chân thật và ngay thẳng; dầu vậy, họ không thích cầu nguyện. Họ thích lo những việc vặt cũng như dùng nỗ lực mình để làm những việc nào đó cho anh em, nhưng khi anh em đề cập đến sự cầu nguyện, lập tức họ không thích. Họ thực sự đáng yêu, nhưng tiếc thay, họ không thích cầu nguyện. Một khi đối diện với tình trạng này, anh em cần biết rằng họ là những người vẫn còn trong tối tăm. Sự tối tăm của họ không phải do kiêu ngạo, xảo quyệt, cong quẹo hay ghen ghét; đúng ra, đó là vì họ không mở chính mình ra, họ khước từ ánh sáng và dùng lời bào chữa để xua đuổi ánh sáng. Vì vậy, họ không thích cầu nguyện. Sự sống cầu nguyện trong chúng ta yêu thích sự sáng, càng ở trong sự sáng, sự sống trong chúng ta càng yêu thích cầu nguyện-đây là qui luật.
V. SỰ SỐNG NÀY VỐN CÓ LUẬT CẦU NGUYỆN
Bên trong mỗi loại sự sống có nhiều luật. Với sự sống vật lý của chúng ta cũng vậy. Tiêu hóa là một luật và sự trao đổi chất là một luật khác. Luật là gì? Luật là một khả năng tự nhiên không đòi hỏi anh em phải kiểm soát nó bằng cách vận dụng ý chí. Chẳng hạn, khi chúng ta ăn thức ăn thì tự phát dạ dày sẽ tiêu hóa nó. Đây là luật tiêu hóa. Không cần sự giúp đỡ nào, một số yếu tố tự động sẽ bị đào thải khỏi cơ thể trong khi những yếu tố khác sẽ được thêm vào trong chúng ta. Đây là luật trao đổi chất. Khi anh em vẫy vẫy cái gì trước mắt ai đó, tự nhiên người ấy sẽ chớp mắt. Đây cũng là một luật. Khi ăn thứ gì đắng, lập tức anh em nhổ ra; khi nếm chất gì ngọt, anh em nuốt vào. Đây là luật. Cũng vậy, trong sự sống cầu nguyện của chúng ta cũng có luật cầu nguyện. Sự sống này chứa một khả năng tự nhiên như vậy mà không cần chúng ta thúc giục, sự sống này tự phát muốn cầu nguyện.
Tuy nhiên, xin nhớ rằng mặc dù nó là một luật nhưng luật này có thể bị con người phá hỏng giống như luật tiêu hóa và luật trao đổi chất có thể bị con người phá hỏng. Tất cả chúng ta đều biết rằng khi bất kỳ luật thuộc thể nào bị phá hỏng, hậu quả là bệnh tật. Hễ khi nào cơ thể bị bệnh thì có nghĩa là một luật hay nhiều luật của cơ thể đã bị vi phạm. Cũng vậy, nếu anh em không đáp ứng với đòi hỏi về sự thánh khiết là điều xuất phát từ sự sống này bên trong anh em, đây là bệnh làm cản trở luật cầu nguyện. Nếu anh em không xử lý các tội phạm theo ý thức của sự sống hay từ chối không lìa khỏi sự tối tăm, điều này cũng làm bế tắc luật cầu nguyện. Nói cách khác, điều đó có nghĩa là anh em bị bệnh. Vì vậy, với những anh chị em mà hiếm khi mở miệng cầu nguyện thì không nghi ngờ gì, họ đã bị bệnh trong sự sống cầu nguyện. Nếu học tập sống trong Đức Chúa Trời, đáp ứng với đòi hỏi thánh khiết của Ngài, bước theo cảm nhận về sự lên án của Ngài, và xử lý bất cứ sự tối tăm nào thì anh em sẽ khám phá rằng sự sống cầu nguyện trong anh em là lành mạnh và bình thường và luật cầu nguyện liên tục hành động trong anh em. Cho nên tự phát anh em có thể cầu nguyện cũng như vui hưởng sự cầu nguyện.
Bên trong mỗi người đều có luật tiêu hóa tự động tiêu hóa thức ăn đã được đem vào. Nếu tới giờ ăn mà một người không ăn thì sẽ có cảm giác trống rỗng và đói. Nếu anh em không cảm thấy đói sau hai ngày nhịn ăn thì luật tiêu hóa trong anh em có lẽ đã bị hư. Cũng có một luật cầu nguyện vốn có trong sự sống của Cơ-đốc nhân đòi hỏi anh em phải cầu nguyện đều đặn. Loại người nào không thể cầu nguyện? Chắc chắn là những người mà luật cầu nguyện trong họ đã bị hư. Có thể là họ đã không đáp ứng với đòi hỏi về sự thánh khiết, không bước theo ý thức về sự thánh khiết bên trong hay không khước từ sự tối tăm mà sự sống bên trong ghét. Sự sống này tuyệt đối thánh khiết nên đòi hỏi anh em phải thánh khiết. Sự sống này cũng hoàn toàn ghét tội; vì vậy, sự sống này nhiều lần cho anh em cảm nhận ghét tội. Hơn nữa, sự sống này hoàn toàn yêu thích sự sáng nên lúc nào cũng đòi hỏi anh em phải lìa bỏ sự tối tăm. Nếu không sẵn sàng đáp ứng đòi hỏi về sự thánh khiết, nếu phớt lờ ý thức ghét tội hay từ chối đòi hỏi của sự sáng, lập tức sự sống cầu nguyện của anh em gặp rắc rối. Nếu anh em sẵn lòng xử lý những điều này; lập tức sự sống cầu nguyện bên trong anh em được sống lại. Hơn nữa, có một luật trong sự sống này sẽ hành động trong anh em và làm anh em cầu nguyện. Anh em sẽ có thể cầu nguyện cũng như vui hưởng sự cầu nguyện, và bất cứ điều gì anh em cầu nguyện đều sẽ chạm đến Đức Chúa Trời. Đây là những khả năng vốn có trong sự sống cầu nguyện