PHẦN GIỚI THIỆU SỰ SỐNG VÀ SỰ XÂY
DỰNG (4)
Trong bài này chúng ta sẽ bàn đến
Giăng chương 1 cách tổng quát, ôn lại vài điểm đã bàn và đề cập đến những điểm
khác mà chúng ta chưa xem xét.
IV. HAI PHẦN CỦA CÕI ĐỜI ĐỜI
VỚI CHIẾC CẦU THỜI GIAN
Giăng chương 1 bày tỏ hai phần của
cõi đời đời. Giăng 1:1 chỉ về cõi đời đời trong quá khứ, vì “ban đầu” ngụ ý cõi
đời đời trong quá khứ. Câu 51 chỉ về cõi đời đời trong tương lai, vì khi Chúa bảo
Na-tha-na-ên rằng ông sẽ thấy trời mở ra và các thiên sứ của Đức Chúa Trời lên
xuống trên Con Loài Người, Ngài không nói về hiện tại, nhưng nói về cõi đời đời
trong tương lai. Nếu đặt hai phần của cõi đời đời lại với nhau, chúng ta có
toàn thể cõi đời đời.
A. Trong Phần Đầu Của Cõi Đời Đời
– Cõi Đời Đời Trong Quá Khứ
Trong cõi đời đời quá khứ, Đấng
Christ, là Lời, ở với Đức Chúa Trời và là Đức Chúa Trời. Trong cõi đời đời quá
khứ Ngài chỉ là Đức Chúa Trời và chỉ có thần tính. Vì Lời chưa nhục hóa, Ngài
không phải là con người và không có nhân tính.
B. Trong Phần Thứ Hai Của Cõi Đời
Đời – Cõi Đời Đời Trong Tương Lai
Trong cõi đời đời tương lai, Đấng
Christ không những là Đức Chúa Trời, mà còn là con người. Không những Ngài là
Con Đức Chúa Trời, mà còn là Con Loài Người. Vì Lời đã nhục hóa trong xác thịt
(c. 14), nên Ngài cũng là một con người, tức Con Loài Người mãi mãi có nhân
tính. Sau khi nhục hóa, Ngài vẫn là Đức Chúa Trời, nhưng là Đức Chúa Trời và
con người. Ngài vẫn là Con của Đức Chúa Trời, nhưng là Con của Đức Chúa Trời và
Con Loài Người. Ngoài tình trạng là Con của Đức Chúa Trời, cho đến đời đời
trong tương lai, Ngài cũng sẽ là Con Loài Người nữa. Trong cõi đời đời quá khứ
Ngài là Đức Chúa Trời, chỉ [có tính chất] thần thượng mà thôi, không có nhân
tính. Tuy nhiên, trong cõi đời đời tương lai Ngài sẽ là Đức Chúa Trời và con
người, Con Đức Chúa Trời và Con Loài Người, vừa thần thượng vừa con người, có
thần tính cũng như có nhân tính. Ngài sẽ có hai bản chất, hai thể yếu, và hai tố
chất – thần tính và nhân tính.
Khi Na-tha-na-ên nói với Chúa:
“Ngài là Con của Đức Chúa Trời; Ngài là Vua Israel” (c. 49), Jesus nói với ông
rằng ông sẽ thấy “thiên sứ của Đức Chúa Trời lên xuống trên Con Loài Người”. Ai
lớn hơn, Con Đức Chúa Trời hay Con Loài Người? Theo lý luận, ai cũng sẽ nói Con
Đức Chúa Trời lớn hơn Con Loài Người nhiều. Tôi xin hỏi anh em, anh em muốn làm
con của Đức Chúa Trời hay con của loài người? Chắc chắn anh em sẽ trả lời anh
em muốn làm con của Đức Chúa Trời. Ai cũng muốn làm con của Đức Chúa Trời. Chắc
chắn đó là điều kỳ diệu đối với Na-tha-na-ên khi nhận biết Jesus, một con người
nhỏ bé ở Na-xa-rét là Con Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, Jesus liền trả lời rằng
Ngài là Con Loài Người. Dầu con người cố gắng làm cho Ngài vĩ đại, Ngài vẫn
thích mình nhỏ bé.
Jesus là Con Đức Chúa Trời hay
Con Loài Người, điều nào quan trọng hơn? Nếu không trả lời cách cẩn thận, anh
em có thể bị vướng vào tà giáo. Trả lời một câu hỏi như vậy thật khó biết bao!
Chúa vừa là Con Đức Chúa Trời, vừa là Con Loài Người. Nếu Ngài không phải Con Đức
Chúa Trời, không bao giờ Ngài có thể là sự sống của chúng ta. Nếu Ngài không phải
Con Loài Người, không bao giờ Ngài có thể là thể yếu cho sự xây dựng của Đức
Chúa Trời. Con của Đức Chúa Trời là để ban sự sống, và Con Loài Người là để xây
dựng. Kinh Thánh không bao giờ đòi hỏi chúng ta tin rằng Jesus là Con Loài Người
trước khi chúng ta có sự sống. Để có sự sống, chúng ta phải tin rằng Jesus là
Con Đức Chúa Trời. Tất cả chúng ta phải tin Jesus, người Na-xa-rét nhỏ bé, là
Con Đức Chúa Trời. Nếu tin như vậy, chúng ta có sự sống đời đời. Sau khi nhận
lãnh sự sống đời đời, chúng ta phải nhận thức sâu xa hơn rằng Jesus này là Con
Đức Chúa Trời, cũng là Con Loài Người. Thần tính của Ngài là sự sống cho chúng
ta, nhưng nhân tính của Ngài là vì sự xây dựng của Đức Chúa Trời. Sự xây dựng của
Đức Chúa Trời cần nhân tính của Ngài. Chúng ta cần Jesus là Con của Đức Chúa Trời,
nhưng Đức Chúa Trời cần Ngài là Con Loài Người.
Đối với chúng ta, Jesus là Con Đức
Chúa Trời, nhưng đối với Đức Chúa Trời và đối với ma quỉ, tức Sa-tan, thì Jesus
là Con Loài Người. Ma quỉ không sợ Jesus là Con Đức Chúa Trời. Hắn sợ Jesus là
Con Loài Người. Nhiều lần khi Jesus đang đuổi quỉ khỏi người ta, ma quỉ gọi
Ngài là Con Đức Chúa Trời, Jesus truyền chúng phải im lặng (Mat. 8:29; Mác
3:11-12), vì trước mặt chúng Ngài đang hành động như Con Loài Người. Trong đồng
vắng, khi ma quỉ cám dỗ Jesus bằng cách nói rằng: “Nếu Ngài là Con Đức Chúa Trời,
hãy bảo đá này trở nên bánh đi” (Mat. 4:3), Jesus chống lại sự cám dỗ bỏ vị trí
làm Con Loài Người của mình, Ngài nói: “Người ta sống không phải chỉ nhờ bánh
mà thôi” (Mat. 4:4). Jesus duy trì chỗ đứng của mình là một con người. Sa-tan
không sợ Con Đức Chúa Trời; hắn sợ con người. Tại sao Sa-tan sợ con người? Vì
trong gia tể của Ngài, Đức Chúa Trời đã quyết định rằng Sa-tan phải bị con người
đánh bại.
Đức Chúa Trời không có ý định cư
ngụ trong chính Ngài. Thần tính không thể làm nơi ở của Đức Chúa Trời. Trong
gia tể của Đức Chúa Trời, ý định của Ngài là cư ngụ trong nhân tính. Đức Chúa
Trời có ý định đánh bại kẻ thù Ngài, tức Sa-tan, bởi con người và làm cho nhân
tính thành nơi cư ngụ của Ngài. Do đó, cần có nhân tính vừa để đánh bại Sa-tan,
vừa để làm nơi ở của Ngài. Nếu Chúa Jesus chỉ là Con Đức Chúa Trời, Ngài chỉ đủ
điều kiện truyền sự sống vào trong con người. Ngài sẽ không có tố chất để bởi
đó đánh bại kẻ thù hay trở nên nơi ở của Đức Chúa Trời. Ngợi khen Chúa, Ngài là
Con của Đức Chúa Trời để chúng ta có sự sống, và Ngài là Con Loài Người để Đức
Chúa Trời có một nơi ở.
Trong cõi đời đời quá khứ, Đức
Chúa Trời đã có một nơi ở bằng nhân tính không? Chắc chắn câu trả lời là không.
Trong Ê-sai 66:1, Đức Chúa Trời phán: Trời là ngai Ta và đất là bệ chân Ta...
nơi nghỉ ngơi của Ta ở đâu?” Trời được xem là nơi ở của Đức Chúa Trời (Phục.
26:15; 1 Vua. 8:49; Thi. 33:13-14; Ês. 63:15); nhưng Đức Chúa Trời phán: “Nơi
nghỉ ngơi của Ta ở đâu?” Nơi nghỉ ngơi của Đức Chúa Trời là loài người mà Ngài
có được (Ês. 57:15; 66:2). Ngày nay Đức Chúa Trời ở trên các từng trời, nhưng
các từng trời sẽ không phải nơi ở của Ngài cho đến đời đời trong trời mới và đất
mới. Trong trời mới đất mới, nơi ở đời đời của Đức Chúa Trời sẽ là
Giê-ru-sa-lem Mới, bao gồm tất cả những thánh đồ được cứu chuộc của Ngài, sẽ từ
trời xuống (Khải. 21:1-3). Điều gì sẽ là nơi ở đời đời của Đức Chúa Trời? Nhân
tính được tái sinh, biến đổi, nâng cao và xây dựng cuối cùng sẽ thành ra nơi ở
của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời sẽ không cư ngụ với nhân tính thiên nhiên,
nhưng với nhân tính được tái sinh, biến đổi, nâng cao, và xây dựng. Nhân tính ấy
được tái sinh, biến đổi, liên kết và xây dựng với nhau bởi sự sống thần thượng.
Sự sống thần thượng sẽ nâng cao nhân tính của chúng ta đến tiêu chuẩn mà chúng
ta sẽ thành ra nơi cư ngụ của Đức Chúa Trời.
Giăng chương 1 bày tỏ Đấng Christ
vừa là Con của Đức Chúa Trời vừa là Con Loài Người. Ngài là Con của Đức Chúa Trời
để truyền Đức Chúa Trời vào trong chúng ta làm sự sống của chúng ta, và Ngài là
Con Loài Người để làm thể yếu cho sự xây dựng nhà Đức Chúa Trời. Trong cõi đời
đời quá khứ không có nhân tính và không có nơi cư ngụ cho Đức Chúa Trời. Trong
cõi đời đời tương lai sẽ có nhân tính và Đức Chúa Trời sẽ có một nơi cư ngụ.
C. Trên Chiếc Cầu Thời Gian
Giăng chương 1 bày tỏ hai phần của
cõi đời đời. Làm thế nào Đức Chúa Trời, là Đấng không có nhân tính trong cõi đời
đời quá khứ, có thể có nhân tính trong cõi đời đời tương lai làm nơi ở của
Ngài? Điều này sẽ không xảy ra trong chốc lát. Giữa hai phần của cõi đời đời
này là chiếc cầu thời gian. Trong cõi đời đời quá khứ, Đức Chúa Trời lập kế hoạch
và dự định, nhưng Ngài không làm gì cả. Trong cõi đời đời tương lai, Ngài cũng
sẽ không làm gì cả, vì lúc ấy mọi sự đã thành tựu rồi. Trong cõi đời đời tương
lai, Ngài chỉ vui hưởng công tác đã hoàn tất của mình. Trong cõi đời đời quá khứ,
Ngài hoạch định và trong cõi đời đời tương lai Ngài sẽ vui hưởng. Mọi điều Ngài
cần hoàn tất thì Ngài hoàn tất trên chiếc cầu thời gian. Đức Chúa Trời đang lái
chiếc xe hơi gia tể Ngài đi từ phần thứ nhất của cõi đời đời, băng qua cầu thời
gian, vào trong phần cuối của cõi đời đời. Bằng cách lái xe băng qua chiếc cầu
thời gian, mọi công tác cần thiết được hoàn tất. Một khi Đức Chúa Trời đã đi từ
cõi đời đời quá khứ, băng qua cầu thời gian, vào trong cõi đời đời tương lai,
Ngài sẽ tuyên bố “Xong rồi!” Trong cõi đời đời tương lai Đức Chúa Trời sẽ vui hưởng
công tác đã hoàn tất của mình. Chiếc cầu thời gian dài bao lâu? Có thể trên dưới
sáu ngàn năm. Trên chiếc cầu thời gian này, Đức Chúa Trời hoàn tất năm điều.
Chúng ta cần lần lượt xem xét từng điểm ấy, bắt đầu với sự sáng tạo.
1. Sự Sáng Tạo
Câu 3 chép: “Mọi vật đã hiện hữu
nhờ Ngài, và ngoài Ngài, không một vật nào đã hiện hữu mà được hiện hữu”. Sự
sáng tạo làm cho mọi vật hiện hữu. Ý nghĩa của sự sáng tạo là gọi những điều
không hiện hữu như là hiện hữu (La. 4:17). Mục đích của sự sáng tạo là sinh ra
một bình chứa để tiếp nhận Đức Chúa Trời làm sự sống. Anh em hãy xem xét những
yếu tố trong sự sáng tạo: các từng trời, trái đất, hàng tỉ những điều vật chất,
và con người. Điều gì là yếu tố quan trọng nhất trong sự sáng tạo? Không có điều
gì quan trọng hơn con người. Con người là nhân vật rất quan trọng. Theo Kinh
Thánh, các từng trời là vì trái đất, trái đất là vì con người (Xa. 12:1). Mọi sự
đều vì con người. Khoáng sản, sự sống thực vật, sự sống động vật đều dành cho
con người. Không khí, mưa nắng cung ứng cho sự sống thực vật; sự sống thực vật
là vì sự sống động vật, và cả sự sống thực vật lẫn sự sống động vật đều dành
cho con người. Mọi loài sống động trên đất đều vì con người. Con người, mà mọi
sự đều vì họ, thì [sống] vì Đức Chúa Trời, tiếp nhận Đức Chúa Trời và hoàn
thành mục đích của Ngài. Có một linh trong con người, đó chính là cơ quan tiếp
nhận Đức Chúa Trời. Bởi sự sáng tạo của Ngài, Đức Chúa Trời tạo ra các từng trời
cho trái đất, trái đất cho con người, và con người có một linh làm cơ quan tiếp
nhận để tiếp nhận Đức Chúa Trời làm sự sống mình.
Con người là trung tâm của vũ trụ.
Con người, trung tâm của vũ trụ, có miệng để ăn và để kêu cầu. Ăn là sinh hoạt
hằng ngày quan trọng nhất của chúng ta. Cho dầu bận rộn đến đâu, hằng ngày người
ta vẫn dành thì giờ để ăn. Hầu hết người nào cũng ăn mỗi ngày vài lần. Đừng cảm
thấy xấu hổ khi nói rằng hằng ngày sinh hoạt quan trọng nhất của anh em là ăn.
Tôi là một người ăn khỏe. Tôi ăn thức ăn vật chất lẫn thức ăn thuộc linh, tức
là Đấng Christ. Tôi ăn Chúa bằng cách kêu cầu: “Ô, Chúa Jesus”. Ăn Chúa là việc
quan trọng. Mọi Cơ Đốc nhân im lặng đều đang chết đói. Tôi đã là một Cơ Đốc
nhân câm nín, im lặng như vậy nhiều năm, và tôi suýt chết. Nhưng hôm nay tôi là
một Cơ Đốc nhân đang ăn. Tôi ăn bằng cách kêu cầu danh Chúa. Đức Chúa Trời tạo
dựng chúng ta có một linh và một miệng để chúng ta có thể nhận Ngài làm sự sống
của mình.
Anh em có bao giờ cảm tạ Đức Chúa
Trời về sự sáng tạo của Ngài không? Anh em nên nói: “Ô Đức Chúa Trời, Đấng Tạo
Hóa của con. Con cảm ơn Ngài đã tạo dựng các từng trời, trái đất và mọi sự
trong đó. Con cảm ơn Ngài vì đã tạo dựng con. Chúa ơi, con cảm ơn Ngài vì đã tạo
nên con có linh và có miệng”. Nhiều Cơ Đốc nhân chưa bao giờ cảm tạ Chúa vì đã
tạo dựng họ có linh và có miệng.
La Mã 8:16 cho thấy tầm quan trọng
của linh chúng ta, và La Mã 10:9-10 cho thấy tầm quan trọng của miệng chúng ta.
Sự xưng công chính liên quan đến tấm lòng chúng ta, và sự cứu rỗi liên quan đến
miệng chúng ta. Dầu nhiều Cơ Đốc nhân nói rằng có lòng tin là đủ rồi, La Mã
chương 10 làm sáng tỏ rằng chúng ta cũng cần có miệng nữa. Chúng ta cần tin bằng
tấm lòng và kêu cầu Chúa bằng miệng mình. Càng nói: “Ô Chúa Jesus”, anh em càng
được cứu rỗi. Vì sao anh em yếu đuối như vậy? Vì anh em không kêu cầu danh Chúa
Jesus. Nếu kêu cầu Ngài, anh em sẽ được ban năng lực. Nhiều Cơ Đốc nhân chỉ biết
nói về sự yếu đuối của mình như thế nào. Họ không nhận thức rằng lý do mình yếu
đuối như vậy là vì họ không dùng môi và lưỡi để xưng nhận danh Chúa. “Mọi lưỡi
sẽ xưng nhận Jesus Christ là Chúa” (Phil. 2:11). Nếu mọi Cơ Đốc nhân đều kêu cầu:
“Chúa Jesus” liên tục, Sa-tan sẽ lập tức bị ném vào hồ lửa. Ha-lê-lu-gia về
linh và miệng chúng ta! Chúng ta có linh bên trong và miệng bên ngoài. Linh
chúng ta, miệng chúng ta và toàn bản thể chúng ta ra từ sự sáng tạo của Đức
Chúa Trời. Ô, chúng ta cần thờ phượng Đức Chúa Trời về sự sáng tạo của Ngài.
Chúng ta nợ Ngài món nợ cảm tạ vì đã tạo dựng chúng ta. Thậm chí tại bàn Chúa,
chúng ta cần cảm tạ Chúa về sự sáng tạo của Ngài. Sự sáng tạo là điều đầu tiên
trên chiếc cầu thời gian.
2. Sự Nhục hóa
a. Để Đem Đức Chúa Trời Vào Trong
Cõi Sáng Tạo Của Ngài – Con Người
Yếu tố thứ hai là sự nhục hóa. Nếu
không có sự sáng tạo, Đức Chúa Trời không cách nào nhục hóa. Sự sáng tạo chuẩn
bị con đường và cho Ngài có phương tiện để nhục hóa. Sự sáng tạo làm cho mọi sự
hiện hữu, và sự nhục hóa đem Đức Chúa Trời vào cõi sáng tạo của Ngài. Sau khi tạo
nên A-đam, Đức Chúa Trời chờ đợi gần bốn ngàn năm rồi Ngài mới nhục hóa. Một
ngày kia, Ngài nhục hóa và trên đất có con người nhỏ bé Jesus với Đức Chúa Trời
bên trong Ngài. Đức Chúa Trời được đưa vào trong con người ấy. Đó là phép lạ vĩ
đại hơn hết. Bởi sự nhục hóa, Đức Chúa Trời được đưa vào trong nhân loại và trở
nên một với con người. Thần tính và nhân tính trở nên một đơn vị.
Giữa cõi đời đời quá khứ và cõi đời
đời tương lai là một khoảng trống, với thời gian là chiếc cầu bắc ngang qua đó.
Trên chiếc cầu gọi là thời gian này, Đấng Christ là Lời của Đức Chúa Trời, là Đấng
mà mọi sự nhờ Ngài được tạo dựng nên, đã nhục hóa làm người. Sự sáng tạo là biến
cố đầu tiên trên chiếc cầu thời gian, và sự nhục hóa là biến cố thứ hai. Sự
sáng tạo có nghĩa là những gì không hiện hữu đã được làm cho hiện hữu nhờ Lời.
Trước sự sáng tạo, không có gì hiện hữu cả, nhưng bởi sự sáng tạo của Đấng
Christ, mọi sự trở nên hiện hữu. Sự nhục hóa là Đức Chúa Trời đến trong cõi
sáng tạo của Ngài. Dầu mọi sự được Đức Chúa Trời tạo dựng đều hoàn hảo và tốt
lành, nhưng không có gì trong cõi sáng tạo liên kết với Đức Chúa Trời. Sự sáng
tạo chỉ là bước chuẩn bị cho sự nhục hóa. Trước hết Đức Chúa Trời đem mọi vật
thọ tạo đến chỗ hiện hữu để về sau Ngài có thể trở nên một với cõi thọ tạo của
Ngài. Đó là lý do vì sao Đức Chúa Trời tạo nên các từng trời, trái đất và con
người là trung tâm của vũ trụ. Kế hoạch của Đức Chúa Trời là chuẩn bị cõi sáng
tạo để Ngài có thể liên kết chính mình với cõi ấy. “Lời đã trở nên xác thịt”
nghĩa là Đức Chúa Trời liên kết chính mình với cõi sáng tạo của Ngài bằng sự nhục
hóa của Ngài. Trong sự nhục hóa, xác thịt mà Đức Chúa Trời mặc lấy đã trở nên đền
tạm của Ngài (1:14). Đền tạm này là sự xây dựng của Đức Chúa Trời trên một qui
mô nhỏ; đó là tiểu mô hình của Giê-ru-sa-lem Mới, là đền tạm của Đức Chúa Trời
trong cõi đời đời (Khải. 21:2-3). Bởi sự sáng tạo, Đức Chúa Trời đã làm cho mọi
sự trong vũ trụ được hiện hữu; bởi sự nhục hóa, Ngài hòa lẫn chính Ngài với con
người, là trung tâm sự sáng tạo của Ngài. Mục đích của Đức Chúa Trời trong sự
sáng tạo và nhục hóa là thực hiện ước muốn của Ngài về việc hòa lẫn chính Ngài
với nhân tính, và làm cho nhân tính thành chỗ ở sống động cho Ngài. Ngài không
thỏa mãn với trời làm nơi ở của Ngài. Ngài ao ước xây một nơi ở sống động trên
đất với những con dân sống động. Do đó, Ngài đã tạo nên con người là trung tâm
sự sáng tạo của Ngài và hòa lẫn chính Ngài với con người bởi sự nhục hóa để
Ngài có thể làm cho con người thành nơi ở sống động của Ngài trong vũ trụ.
b. Để Giải Bày Đức Chúa Trời
Sự nhục hóa không những đem Đức
Chúa Trời vào trong cõi thọ tạo của Ngài, mà còn giải bày Đức Chúa Trời cho con
người trong Lời, trong sự sống, trong ánh sáng, trong ân điển, và trong lẽ thật.
Trong sự nhục hóa, Lời, tức Đấng Christ là Đức Chúa Trời, đã trở nên xác thịt.
Lời là Đức Chúa Trời được bày tỏ, giải thích và định nghĩa để con người có thể
hiểu Đức Chúa Trời. Sự sống là Đức Chúa Trời được truyền dẫn để con người có thể
tiếp nhận Ngài. Ánh sáng là Đức Chúa Trời chiếu soi để con người được soi sáng
hầu hiểu được Ngài. Ân điển là Đức Chúa Trời được vui hưởng bởi con người để
con người có thể dự phần sự phong phú của Ngài. Lẽ thật là Đức Chúa Trời được
con người nhận thức để con người có thể sở hữu Ngài làm thực tại. Nói cách tổng
quát, qua năm điều này Đức Chúa Trời được giải bày cách đầy trọn cho con người
để con người có thể nhận lấy Ngài và vui hưởng Ngài là mọi sự.
3. Sự Cứu Chuộc
Yếu tố thứ ba trên chiếc cầu thời
gian là sự cứu chuộc. Sau khi sống trên đất ba mươi ba năm rưỡi, Chúa lên thập
tự giá như Chiên Con của Đức Chúa Trời. Chiên Con của Đức Chúa Trời là vì sự cứu
chuộc. Qua sự cứu chuộc, Chúa phục hồi loài người sa ngã và phân rẽ họ khỏi tội.
Nhờ phương tiện là sự cứu chuộc, Đức Chúa Trời không những cất bỏ tội, mà còn kết
liễu toàn bộ cõi thọ tạo cũ. Chính Jesus là Đấng bị đóng đinh trên thập tự giá
đã đem cõi sáng tạo cũ theo Ngài vào mồ mả. Khi Ngài được làm cho sống lại từ
cõi chết, Ngài bỏ cõi sáng tạo cũ trong mồ mả và ra khỏi đó trong sự phục sinh
mà làm đầu của cõi sáng tạo mới.
4. Sự Xức Dầu
Sự xức dầu theo sau sự cứu chuộc.
Sự xức dầu đến bởi chim bồ câu, là Linh, tức là sự tiếp tục của Chiên Con.
Chiên Con đã cất tội đi và kết thúc cõi sáng tạo cũ, còn chim bồ câu, là Linh,
đã đến để tái sinh, truyền sự sống, biến đổi, liên kết và xây dựng. Chim bồ
câu, là Linh, tái sinh con người thọ tạo, biến đổi con người thiên nhiên, và liên
kết con người đã biến đổi. Chúng ta có thể thuộc một trong ba tình trạng này.
Chúng ta có thể là con người thọ tạo cần được tái sinh.
Chúng ta có thể là con người được
tái sinh vẫn còn khá thiên nhiên và cần được biến đổi. Chúng ta có thể là người
đã được biến đổi nhưng còn cách biệt và sống cá nhân, cần được liên kết với người
khác. Nếu đã được biến đổi cách đúng đắn, chúng ta sẽ muốn được liên kết với những
người khác. Cho nên trước hết, chúng ta cần được tái sinh; thứ hai, chúng ta cần
được biến đổi; và thứ ba, chúng ta cần được liên kết để xây dựng. Chim bồ câu,
tức Linh, tái sinh, biến đổi và liên kết chúng ta. Chúng ta đều ở dưới sự xức dầu
của bồ câu, là Linh. Dầu có thể chúng ta không nhận thức hay không hiểu biết điều
đó, Chúa vẫn đang hành động để biến đổi chúng ta.
Tôi hoàn toàn tin chắc rằng tất cả
dân của Chúa cuối cùng đều sẽ được biến đổi. Không sớm thì muộn, tất cả chúng
ta đều sẽ được biến đổi. Sự biến đổi không tùy thuộc nơi chúng ta; mà tùy thuộc
nơi Ngài. Ngài đã lựa chọn chúng ta và định trước cho chúng ta, chúng ta không
thể thoát khỏi tay Ngài. Nếu cố gắng trốn thoát, chúng ta chỉ phí phạm thì giờ
của mình và gây rắc rối cho Ngài chút ít. Thậm chí đừng nói rằng mình làm cho
Ngài bị chậm trễ, vì đối với Ngài một ngàn năm như một ngày. Kiên nhẫn với anh
em là việc dễ dàng đối với Ngài. Cuối cùng, mỗi một anh chị em đều sẽ được biến
đổi. Khi vào Giê-ru-sa-lem Mới, chúng ta sẽ thấy mọi người đều là bích ngọc, là
đá quí (Khải. 21:11).
Chúa đang thật sự làm công tác biến
đổi trong chúng ta. Ngài không phải là một con chim ưng to lớn, nhưng là bồ câu
nhỏ bé – là Linh ban sự sống (1 Cô. 15:45). Chim bồ câu này là sự nối tiếp của
Chiên Con nhỏ bé. Vì Chiên Con đã chết trên thập tự giá, bây giờ đến phiên chim
bồ câu công tác trong sự phục sinh. Hằng ngày, bồ câu nhỏ bé là Linh ban sự sống
phán bên trong anh em, khiển trách anh em và chạm đến lòng hay lương tâm anh
em. Thường thì khi anh em đang ở trong một cửa hàng bách hóa, chim bồ câu quấy
rối bên trong anh em. Đừng mong đợi một kinh nghiệm lớn lao hay một sự thay đổi
đột ngột. Hãy mong đợi chim bồ câu nhỏ bé chuyển động và hành động trong anh em
luôn luôn. Chúng ta đã vướng vào một tiến trình mà không cách nào thoát ra được.
Đó là một sự vướng mắc liên tục và vĩnh viễn. Theo một ý nghĩa nào đó, chúng ta
có sự an nghỉ bên trong; theo một ý nghĩa khác, chim bồ câu nhỏ bé quấy rối
chúng ta thường xuyên. Sự hành động bên trong của chim bồ câu nhỏ bé này là sự
xức dầu.
Tất cả chúng ta đều đang ở trong
tiến trình biến đổi. Tôi đã quan sát thấy một số anh chị em từng kinh nghiệm một
sự thay đổi đáng kể do công tác biến đổi của chim bồ câu. Nếu anh em nói mình
không thích nếp sống Hội thánh và quyết định lìa bỏ nếp sống ấy, anh em sẽ thấy
mình không thể trốn thoát công tác biến đổi của chim bồ câu ngự bên trong. Nếu
muốn thật sự được an nghỉ, anh em nên cư xử đàng hoàng như một “cậu bé ngoan
ngoãn” trong nếp sống Hội thánh. Nếu không đàng hoàng, mà lại là một “cậu bé hư
hỏng”, anh em sẽ phải chịu khổ. Nhưng sự chịu khổ ấy sẽ giúp anh em được biến đổi.
Ai có thể thoát khỏi con đường của Chúa? Một khi đã được bắt lấy, chúng ta
không thể trốn thoát. Có lẽ chúng ta nói “Tôi không thích”, nhưng Ngài nói: “Ta
rất ưa thích con. Con không thích Ta, nhưng Ta ưa thích con. Con càng không
thích Ta, Ta càng ưa thích con”. Chúng ta sẽ làm gì? Chúng ta sẽ nói gì? Chúng
ta không nên làm gì cả mà chỉ nên nói: “Ô Chúa Jesus”. Một khi đã được Chúa bắt
lấy cho nếp sống Hội thánh, anh em đã “mắc câu” để được biến đổi, và anh em
không cách nào trốn thoát. Có lẽ anh em không thích, nhưng anh em làm gì được?
Anh em sẽ đi đâu? Không có chỗ nào để mà đi. Đó là phần đã định cho anh em. Đức
Chúa Trời đã định sẵn cho chúng ta được biến đổi vì sự xây dựng của Ngài.
5. Sự Xây Dựng
Sau sự sáng tạo, sự nhục hóa, sự
cứu chuộc, và sự xức dầu, chúng ta có sự xây dựng. Sự xây dựng này là vì nhà của
Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đang xây nơi ở cho chính Ngài, và Ngài đang dùng
những người được biến đổi làm những viên đá (1:42). Ngợi khen Chúa vì chúng ta
không những đang trải qua công tác biến đổi, mà còn đang ở trong tiến trình xây
dựng. Điều Đức Chúa Trời cần không phải là thật nhiều đá, mà là một ngôi nhà.
Cho đến đời đời, Đức Chúa Trời cần một ngôi nhà được xây dựng, một Bê-tên, làm
nơi ở cho Ngài. Để Chúa có thể trở lại, Ngài cần dân Israel được chuẩn bị và Hội
thánh được xây dựng. Hãy nhìn dân Israel: họ hầu như đã sẵn sàng. Nhưng Israel
cần Hội thánh tương xứng với họ. Dầu Israel hầu như đã sẵn sàng, Hội thánh chưa
chuẩn bị xong. Chúa không quan tâm đến số đông. Thậm chí nếu chỉ có một số ít
đã hoàn toàn trải qua một tiến trình, được dầm thấm, được biến đổi, và được xây
dựng bởi Ngài và bằng chính Ngài, thì đủ rồi. Tôi không nói điều này cách khinh
suất đâu. Chúa sẽ không đến theo quan niệm thiên nhiên của chúng ta. Những người
tôn giáo không hiểu sự đến lần đầu của Ngài và họ cũng sẽ không hiểu sự đến lần
thứ hai của Ngài. Đừng theo cách hiểu biết của tôn giáo về sự tái lâm của Chúa.
Anh em phải đi con đường sự sống. Nếu anh em ở trên con đường sự sống, thì sẽ
biết cách Ngài đến. Đó sẽ là cách “lén lút”. Kinh Thánh cho biết Chúa sẽ đến
như một tên trộm (Khải. 3:3; 16:15). Ngài sẽ không đến như một người khách gõ cửa
nhà anh em đâu. Ngài sẽ đến theo cách lén lút của một tên trộm. Anh em có thể hụt
mất Ngài. Nếu tự giữ mình trong con đường sự sống, anh em sẽ thấy Chúa đến cách
ẩn giấu. Ngài sẽ đến cách huyền nhiệm, cách của sự sống. Ngợi khen Ngài vì
chúng ta đang ở trên con đường kín giấu của sự sống.
Sự tái lâm của Chúa cần một công
trình xây dựng vững chắc của những người tìm kiếm Ngài. Sự xây dựng này sẽ là một
bàn đạp, một vị trí đầu cầu, để Ngài chiếm trái đất, và sẽ là nơi ở chung cho cả
Đức Chúa Trời lẫn loài người. Đó sẽ là sự hòa lẫn mãi mãi của thần tính với
nhân tính, và của nhân tính với thần tính. Đấng Christ từng chỉ là thần thượng.
Để làm Con Loài Người, Ngài phải có sự sống loài người và bản chất loài người.
Chúng ta là loài người, nhưng chúng ta được sinh bởi Đức Chúa Trời để trở nên
con cái Đức Chúa Trời (1:12-13). Để được làm con cái Đức Chúa Trời, chúng ta phải
có sự sống thần thượng và bản chất thần thượng. Cuối cùng Ngài là Đấng thần thượng,
có sự sống loài người và bản chất loài người, còn chúng ta là những con người,
có sự sống thần thượng và bản chất thần thượng. Như vậy, Ngài và chúng ta,
chúng ta và Ngài, sẽ giống y như nhau. Đó là sự hòa lẫn của thần tính với nhân
tính, và đó là nơi ở chung của kiến ốc Đức Chúa Trời. Kiến ốc này sẽ là sự hoàn
thành sau cùng không những của giấc mơ Gia-cốp, mà còn của kế hoạch đời đời của
Đức Chúa Trời. Điều đó sẽ chấm dứt chiếc cầu thời gian và đưa cõi đời đời tương
lai phước hạnh đến. Chúng ta phải vì kiến ốc ấy và phải là kiến ốc ấy!
Sau khi cả năm điều này đã xảy
ra, chúng ta sẽ bước vào cõi đời đời tương lai với Chúa. Khi ấy, Ngài sẽ vừa là
Con Đức Chúa Trời vừa là Con Loài Người. Là Con Đức Chúa Trời, Ngài sẽ là sự sống
cho chúng ta, và là Con Loài Người, Ngài sẽ là nơi ở cho Đức Chúa Trời. Chúng
ta sẽ liên kết và hòa lẫn với Ngài, và chúng ta sẽ vui hưởng cõi đời đời với
Ngài mãi mãi. Na-tha-na-ên và tất cả chúng ta cùng với Ngài, sẽ thấy trời mở ra
và các thiên sứ của Đức Chúa Trời lên xuống trên Con Loài Người. Đó là khải thị
được tìm thấy trong Giăng chương 1.