Thứ Bảy, 1 tháng 10, 2011

LUONG TAM CUA CAC TIN DO


1Giăng 3:20-21
Sau khi linh cua tín đồ đă được tái sinh, lương tâm anh ta được sinh động. Huyết quí báu của Chúa Jêsus tẩy sạch lương tâm anh để được thanh khiết, nhạy bén và giúp đỡ lương tâm theo Đức Linh là công việc Ngài. Công việc được Đức Linh đổi mới v
à thánh hóa thực hiện trong con người và công việc do lương tâm anh ta thực hiện có liên hệ và liên kết
với nhau. Nếu các tín đồ phải được đầy dẫy Đức Linh, được thánh hóa, cân đo theo ư muốn Đức Chúa Trời , hoàn ṭòan bước theo và bước đi trong Đức Linh , khi ấy họ sẽ chú ý tiếng nói của lương tâm họ. Nếu họ không cho phép lương tâm ḿchiếm chỗ nên có, khi ấy họ sẽ sa vào địa vị bước theo và bước đi trong xác thịt. Xử lư lương tâm cách trung tín là bước thứ nhất của sự thánh hóa. Bước theo và bước đi theo lương tâm là các dấu hiệu của sự thuộc linh thật. Nếu một tín đồ xác thịt không để cho lương tâm ḿnh làm một công việc triệt để, anh ta không có con đường nào để bước vào lănh vực thuộc linh. Thậm chí dầu anh ta và người khác có thể coi anh ta là thuộc linh, sự thuộc linh của anh vẫn không có nền tảng. Nếu tội lỗi và mọi sự mà không theo đúng ư muốn Đức Chúa Trời, bao gồm mọi sự không thích hợp của các thánh đồ, không được xử lư theo tiếng nói của lương tâm, khi ấy nền tảng thuộc linh đă không được thiết lập cách tốt đẹp. Bất luận có nhiều ư tưởng thuộc linh đă được xây dựng lên tới đỉnh được bao nhiêu, chúng sẽ sụp đổ tan tành.

Lương tâm chúng ta làm chứng khi chúng ta hoặc đúng hay không đối với loài người và Đức Chúa Trời, hoặc những ǵ ta làm, suy nghĩ hay nói có được cân đo theo ư muốn của Đức Chúa Trời, và hoặc ta có nổi loạn với Christ hay không. Khi sự sống của cơ đốc nhân đang tiến bộ, lời làm chứng của lương tâm và lời làm chứng của Đức Linh hầu như giống như nhau. Khi lương tâm được Đức Linh cai trị cách hoàn toàn, mổi ngày lương tâm sẽ càng lúc càng sắc bén hơn đến nỗi nó càng lúc càng ḥa hợp hơn với tiếng nói của Đức Linh. Hơn nữa, Đức Linh phát ngôn qua lương tâm. Đây đích xác là những ǵ Phaolô ngụ ư khi ông viết, “lương tâm tôi làm chứng cho tôi trong Đức Thánh Linh” [La 9:1].

Nếu lương tâm ta nói ta không đúng, khi ấy chắc chắn ta sai trật. Nếu lương tâm ta kết tội ta về tội lỗi của ta, ta phải ăn năn ngay. Ta đừng dùng đôi điều ǵ đó để che đậy hay hối lộ lương tâm ta, v́ “nếu ḷng ta cáo trách ḿnh, th́ Đức Chúa Trời lại lớn hơn ḷng ḿnh” [1Giăng 3:20]. Há Đức Chúa Trời không kết tội ta càng hơn sao? Sự quở trách của lương tâm ta nói ta sai trật. Khi ḷng ta kết tội ta, thật rất chắc chắn Đức Chúa Trời sẽ kết tội ta. Đức thánh khiết của Đức Chúa Trời không bao giờ có thể thấp hơn tiêu chuẩn của lương tâm chúng ta.V́ vậy, nếu lương tâm ta bảo ta rằng ta sai trật, khi ấy ta phải sai trật rồi. 
Khi ta sai trật, ta sẽ làm ǵ? Nếu hành động chưa được giao thác, ta nên dừng lại ngay. Nếu đă làm rồi, ta nên ăn năn, thú nhận tội lỗi ḿnh, và cầu xin sự tẩy sạch của huyết quí báu.Thật đáng thương khi tín đồ ngày nay không thực hành điều nầy. Khi lương tâm họ quở trách họ, họ nổ lực hối lộ lương tâm ḿnh, t́m cách làm ḥa dịu luơng tâm để tránh bị quở trách thêm nữa. Dưới t́nh trạng nầy tín đồ luôn luôn dùng hai phương pháp. Thứ nhất là lư luận với lương tâm ḿnh. Anh ta nổ lực giải thích bằng sự lư luận về lư do cho các hành động của anh. Người tín đồ nghĩ rằng nếu các lư do của anh chấp nhận được, khi ấy hành động của anh phải theo đúng ư muốn của Đức Chúa Trời, và lương tâm anh có thể được an nghỉ. Anh ít nhận thức rằng lương tâm giống như trực giác; nó không lư luận. Lương tâm biết ư muốn của Đức Chúa Trời qua trực giác.Nếu một điều ǵ không thực sự là ư muốn của Đức Chúa Trời, lương tâm sẽ lên án điều đó.

Lương tâm chỉ nói thay cho ư muốn Đức Chúa Trời; nó không chăm lo sự lư luận. Người tín đồ không nên làm một điều ǵ đó chỉ v́ cớ điều đó hợp lư. Anh chỉ nên vâng lời ư muốn của Đức Chúa Trời được khải thị trong trực giác của anh. Bất cứ khi nào tín đồ không vâng lời sự thúc giục của trực giác, lương tâm bắt đầu phát ngôn và kết tội anh. Lời giải thích do sự lư luận của tín đồ có thể làm thỏa măn tâm trí của anh nhưng điều đó không đủ để làm thỏa măn lương tâm anh. Nếu một điều ǵ đó mà đă bị lương tâm lên án mà không được cất bỏ, lương tâm sẽ không ngừng kết tội điều đó dầu có bất cứ sự giải thỉch nào. Lúc đầu lương tâm chỉ làm chứng cho điều ǵ sai và điều ǵ đúng. Sau khi sự sống thuộc linh của người tín đồ lớn lên, lương tâm sẽ không chỉ là nhân chứng cho những ǵ đúng hay sai nhưng cũng là nhân chứng cho những ǵ từ Dức Chúa Trời hay là không. V́ vậy, nhiều điều là tốt đẹp theo mắt của loài người sẽ vẫn bị lương tâm lên án nếu chúng không xuất phát từ sự khải thị của Đức Chúa Trời nhưng từ sự thúc đẩy của con người. 

Cách thứ hai trong đó người tín đồ t́m cách làm ḥa dịu lương tâm ḿnh khi anh ta nổ lực làm nhiều điều khác để an ủi lương tâm. Về một mặt, anh không muốn vâng lời tiếng nói của lương tâm và bước theo sự hướng dẫn của nó để làm vui ḷng Đức Chúa Trời; về mặt khác, anh sợ lương tâm kết án v́ cớ sự kết án đó làm anh cảm thấy khó chịu không thoải mái. V́ lư do nầy, anh lập kế hoạch làm nhiều điều tốt. Anh cố sức dùng các điều tốt thay thế ư muốn của Đức Chúa Trời. Anh không vâng lời Đức Chúa Trời, nhưng anh giải thích rằng những ǵ anh đă làm th́ cũng tốt như những ǵ Đức Chúa Trời đă chỉ đạo. Thậm chí nó c̣n tốt hơn, cao quí hơn, rộng lớn hơn trong phạm vi, cao hơn trong sự qui hàng, giàu có hơn trong cách sử dụng, và sâu nhiệm hơn trong ảnh hưởng , hơn sự chỉ đạo của Đức Chúa Trời. Người tín đồ nghĩ rằng thậm chí loại công việc tốt lành nầy c̣n tốt hơn nữa. Tuy nhiên, bất luận anh ta làm điều ǵ và dân chúng có đánh giá ra sao, trước mắt Đức Chúa Trời , không có giá trị thuộc linh ǵ cả. Đây không phải là sự việc có mỡ nhiều đến bao nhiêu hay có nhiều của lễ thiêu như thế nào, nhưng sự việc là chúng ta có sự vâng lời đối với Đức Chúa Trời nhiều như thế nào. Nếu Đức Chúa Trời khải thị trong linh rằng điều ǵ đó nên được cất bỏ, th́ bất luận chủ tâm của ta có tốt đến đâu, ḅ và chiên có mập béo đến thế nào, vàng và bạc anh em có giá trị đến đâu, mọi điều nầy cũng không chuyển đổi được ḷng của Đức Chúa Trời. Phải vâng lời tiếng nói của lương tâm. Nếu không , bất luận công việc anh em có tốt đến đâu, Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ hài ḷng. Thậm chí các của lễ có dâng lên nhiều lần hơn mệnh lệnh của Đức Chúa Trời, chúng không làm cho tiếng nói của lương tâm im lặng. Lương tâm chỉ đ̣i hỏi sự vâng lời của chúng ta; nó không đ̣i hỏi ta hầu việc Đức Chúa Trời theo cách phi thường.

Vì vậy, ta đừng tự lừa dối chính ḿnh thêm nữa. Nếu ta muốn bước đi trong Đức Linh, ta phải lắng nghe sự dẫn dắt của lương tâm.
Đừng chạy trốn khỏi sự quở trách ở bề trong! Thật ra, hăy lắng nghe cách cẩn thận. Nếu ta muốn liên tục bước đi trong Đức Linh, ta cần hạ ḿnh va thuận phục lắng nghe sự khiển trách của lương tâm. Người tín đồ không nên xưng tội cách lướt qua, nghĩ rằng các lỗi lầm anh quá nhiều không thể liệt kê ra. Sự xưng tội không rơ ràng sẽ không cho lương tâm có cơ hôi làm một công việc triệt để. Người tín đồ nên để cho Đức Thánh Linh khải thị cho anh qua lương tâm mọi tội lỗi của anh, từng điều một. Anh nên hạ ḿnh, yên lặng, và vâng phục, cho phép lương tâm quở trách và lên án anh về mọi tội lỗi của anh , từng điều một. Anh nên chấp nhận sự khiển trách của lương tâm và sẵn sàng làm giảm bớt mọi điều mà chống nghịch Đức Chúa Trời, theo đúng tư tưởng của Đức Thánh Linh. Anh em có dám để cho lương tâm thanh tra đời sống anh em chăng? Anh em có dám để cho lương tâm bảo cho anh em t́nh trạng thật của cả cuộc đời anh em chăng? Anh em có dám để cho lương tâm phơi bày ra trước mặt anh em, nếp sống và cách cư xử của anh em từng chi tiết một theo đúng tư tưởng của Đức Chúa Trời chăng? Anh em có sẵn sàng để cho lương tâm vận hành trên mọi tội lỗi của anh em chăng? Nếu anh em không dám và không sẵn sàng, nếu anh em đầy dẫy các nỗi sợ hăi và có dành chỗ riêng ở bên trong, khi ấy anh em vẫn c̣n nhiều điều hơn nữa trong đời sống anh em mà cần được lên án và đặt trên thập tự giá; anh em chưa vâng lời. Điều nầy bày tỏ rằng trong nhiều sự việc, anh em đă không vâng lời Đức Chúa Trời cách hoàn toàn; anh em đă không bước đi trong sự ḥa hợp hoàn toàn với Đức Linh. Điều nầy cũng bày tỏ rằng không có sự tương giao thông suốt giữa anh em và Đức Chúa Trời của anh em; vẫn có nhiều chướng ngại ở giữa.
Do đó, anh em không thể thưa cùng Đức Chúa Trời, “không có chướng ngại vật giữa Ngài và con”.

Chấp nhận sự quở trách của lương tâm, cách không điều kiện và không dành lại chút chi, sẵn sàng và tuyệt đối theo sự khải thị của lương tâm bày tỏ hoặc các sinh tế của chúng ta dâng lên Đức Chúa Trời có trọn vẹn hay không, hoặc chúng ta có ghét các tội lỗi hay không, và hoặc chúng ta có khát vọng chân thật làm theo ư muốn của Đức Chúa Trời hay không. Nhiều lúc ta muốn vâng lời Đức Chúa Trời; ta muốn bước đi trong Đức Linh; ta muốn làm người làm vui ḷng ĐứcChúa Trời. Bây giờ là thời kư trắc nghiệm sự sẵn sàng nầy, để thấy nó giả hay thật, hoàn ṭan hay khuyết điểm. Nếu ta vẫn c̣n vướng vào các tội lỗi ḿnh và không được cắt bỏ khỏi chúng cách hoàn toàn, tôi sợ rằng mọi sự thuộc linh của chúng ta đều không thiết thực. Nếu một tín đồ không thể theo lương tâm cách đầy trọn, anh ta không bước đi theo Đức Linh ǵ cả. Trước khi một người chấp nhận quyền bính của lương tâm, ngoài linh của trí tưởng tương thúc đẩy anh, Đức Linh thiết thực luôn luôn nài xin anh lắng nghe lương tâm. Nếu người tín đồ bị kết tội ở bên trong và không để cho chính ḿnh đựơc xét xử trước ánh sáng của Đức Chúa Trời bằng cách ăn năn và có sự xử lư triệt để, sự sống thuộc linh của anh không thể có được tiến bộ nào. Anh em co thể nói hoặc sự dâng ḿnh và công việc của người tín đồ có thiết thực hay không bằng cách quan sát hoặc anh ta có vâng lời Chúa cách đầy trọn hay không—vâng lời mệnh lệnh của Chúa và sự khiển trách của Chúa. 

Sau khi tín đồ cho phép lương tâm ḿnh khởi sự thi hành chức năng theo lối nầy, anh không nên dừng lại ở đó. Sau khi một tội lỗi đă được xử lư, anh nên tiến tới xử lư các tội lỗi khác. Anh nên tiến lên từng bước một đến khi mọi tội lỗi của anh đều được xử lư cách rơ ràng. Nếu một tín đồ trung tín xử lư các tội lỗi của anh, và trung tín theo sát lương tâm của anh, ánh sáng thuộc thiên sẽ chiếu vào anh càng lúc càng sáng tỏ hơn. Anh sẽ khám phá cáctội lơi mà anh đă bỏ qua trướcđây. Ngày qua ngày anh sẽ càng sáng tỏ hơn về luật do Đức Thánh Linh viết trong ḷng anh, anh sẽ có khả năng đọc và nhận biết nó. Do đó, người tín đồ sẽ biết sự thánh khiết, sự công nghĩa, sự thuần khiết, và sự chính trực là ǵ. Trước đây anh nhầm lẫn về các điều nầy, nhưng bây giờ chúng được in sâu trên ḷng anh. Đây là sự giúp đỡ lớn lao cho trực giác. Nó sẽ làm gia tăng sự sắc bén khi biết trực giác của Đức thánh Linh. Ví vậy, đang khi lương tâm người tín đồ đang quở trách anh ta, anh ta nên thưa cùng Đức Chúa Trời, “con sẵn sàng vâng ḷi”. Anh nên để cho Christ làm Chúa của đời sống anh một lần nữa! Anh nên sẵn sàng để được dạy dỗ và tin cậy sự dạy dỗ của Đức Thánh Linh. Nếu người tín đồ trung tín theo sát lương tâm, ĐứcThánh Linh sẽ đến và giúp đỡ anh. 

Lương tâm là cửa sổ của linh người tín đồ. Ánh sáng thuộc thiên tỏa sáng qua cửa sổ nầy, làm cho linh người tín đồ và toàn bản thể đầy dẫy ánh sáng. Cũng vậy, toàn bản thể và linh của người tín đồ trông chờ ánh sáng thuộc thiên từ cửa sổ nầy. Mọi lần tư tuởng, lời nói, và cách cư xử của ta sai trật và sự không thích hợp trong lối cư xử của các thánh đồ, sự sáng thuộc thiên chiếu vào qua lương tâm vạch trần các lỗi lầm của ta và kết án các tội lổi của ta. Nếu ta để cho lương tâm làm công việc của nó, vâng lới nó, và xử lư các tội lỗi đă bị lên án, nhiều sự sáng thuộc thiên sẽ chiếu soi trong lần sau. Nếu ta không thú nhận các lỗi lầm của ḿnh hay xử lư các tội lỗi, vết bẩn các tội lỗi sẽ c̣n lại, và lương tâm sẽ bị nhơ bẩn [Tít 1:15] v́ cớ ta không theo sát sự dạy dỗ của ánh sáng Đức Chúa Trời. Theo cách nầy một tội lỗi chồng chất trên tội lỗi khác, một vết sẹo thêm vào vết sẹo khác, và mỗi một ngày cửa sổ thuộclinh sẽ càng lúc càng tối tăm hơn. Càng lúc nó càng cứng rắn hơn khó cho ánh sáng chiếu vào , đến khi người tín đồ mất hết mọi cảm giác hối tiếc trong hành động cứ phạm tội tùy tiện. Lương tâm anh bị đàn áp, và các tội lỗi làm tê cóng trực giác của anh. Người tín đồ càng thuộc linh, lương tâm anh càng sắc bén. Chắc chắn không có tín đồ nào quá mức thuộc linh đến nỗi anh không cần thú nhận tội lỗi. Nếu lương tâm đần độn, hay thậm chí tồi tệ, vô cảm giác, khi ấy con người đă sa ngă thuộc linh rồi. Có tri thức lớn lao, làm việc vất vả, một t́nh cảm hào hứng, và một ư muốn vững vàng cũng sẽ không thể thay thế sự bén nhạy của lương tâm. Nếu người tín đồ không chú ư lương tâm ḿnh và chỉ theo đuổi sự chấn hưng tâm trí và t́nh cảm của ḿnh, anh đang suy đồi trong lối đi thuộc linh của ḿnh.

Mức độ làm thỏa măn lương tâm có thể được gia tăng hay giảm hạ. Nếu một tín đồ dành chỗ cho lương tâm ḿnh hoạt động, cửa sổ thuộc linh của anh sẽ càng trở nên sáng sủa hơn. Nếu người tín đồ không quan tâm đến tiếng nói của lương tâm ḿnh, nhưng dùng các lư luận và các công việc khác tbay thế sự đ̣i hỏi của lương tâm như đă đề cập ở trên, lương tâm sẽ cứ nói hoài. Nhưng sau khi các nổ lực được lặp lại mà không kết quả, lương tâm sẽ ngừng nói năng. Tiếng nói sẽ càng lúc càng trở nên yếu đi trong mỗi một lần nổ lực cải thiện cho đến khi cuối cùng sẽ không c̣n sự nói năng nào. Mỗi một lần người tín đồ coi thường tiếng nói của lương tâm ḿnh, sự sống thuộc linh của anh bị tổn thương. Nếu người tín đồ để cho sự sống thuộc linh của ḿnh bị tổn thương nhiều lần, sớm hay muộn anh sẽ sa ngă vào vị trí hoàn toàn sống trong xác thịt. Ḷng căm ghét các tội lỗi và khát vọng đắc thắng, là đặc điểm trước đây của tấm ḷng người tín đồ nầy, sẽ không c̣n nữa. Nếu ta không hướng mặt ḿnh về phía có sự quở trách của lương tâm, ta sẽ không biết lắng nghe tiếng nói của lương tâm là quan trọng như thế nào đang khi bước đi trong Đức Linh. WN.