Hê-bơ-rơ 11:16 (ESV)
Tuy nhiên, chính là họ khao khát một xứ sở tốt hơn, đó là, một xứ sở thuộc thiên. Do đó Đức Chúa Trời không xấu hổ khi được họ gọi là Đức Chúa Trời của họ, vì Ngài đã chuẩn bị cho họ một thành phố.
[ Chữ “heavenly” trong tiếng Anh nên dịch là “thuộc thiên” thì tinh nghĩa và chính xác hơn, để nói lên tình trạng thuộc trời. Nếu dịch chữ đó là “trên trời” hay” thiên thượng”, độc giả dễ bị hiểu lầm là ‘chỗ ở trên trời’, hay ‘vị trí trên trời’. Chúng ta vẫn sống trên mặt đất, nhưng thuộc về trời, vui hưởng tình trạng thuộc về trời, thuộc thiên—LND].
"Họ" trong câu trên đây đề cập đến các Tổ phụ cổ xưa. Những người đã từng mong muốn một "đất nước tốt hơn," cụ thể là, "một xứ sở thuộc thiên". “ Đất nước thuộc thiên” nầy có vẻ “giống như điều Đức Chúa Trời đang chuẩn bị cho họ một thành phố." Lý do mà đất nước hoặc thành phố nầy là “thuộc thiên” không vì cớ nó ở trên trời, nhưng vì Đức Chúa Trời đã chuẩn bị nó theo câu này.
Thành phố này có vẻ là cùng một thành phố theo Hê-bơ-rơ 12:22, nơi đó có tuyên bố (ESV)
Nhưng anh em đã đến núi Si-ôn, và thành phố của Đức Chúa Trời hằng sống, Giê-ru-sa-lem thuộc thiên, và vô số các thiên thần trong sự nhóm họp lễ hội,
Cả các Kitô hữu và các Tổ phụ, những người đặt niềm tin của họ vào Giê-hô-va Ðức Chúa Trời trong thời tiền Kitô giáo, đều mong mỏi có một "đất nước tốt hơn" và một "thành phố" được "chuẩn bị cho họ", cụ thể là, "Giê-ru-sa-lem thuộc thiên."
Một số có thể duy trì ý tưởng rằng "Giê-ru-sa-lem trên trời" thì ở trên trời và các Tổ phụ hồi xưa đang đi đến đó. Tuy nhiên, điều này không có vẻ là cần thiết.
Trong Hê-bơ-rơ 12:22, có vẻ rằng các Kitô hữu, bây giờ, “đã đến núi Si-ôn, và thành phố của Đức Chúa Trời hằng sống, Giê-ru-sa-lem thuộc thiên”. Điều này không có vẻ là một phần thưởng trong tương lai hoặc sự việc đi lên thiên đàng, nhưng là một thực tế hiện nay, trong đó các Kitô hữu có thể tham gia. Thực vậy, điều này dường như là tương tự với những gì Phaolô nói trong Ê-phê-sô 2:4-7,
Nhưng Đức Chúa Trời, thì giàu lòng thương xót, vì tình yêu tuyệt vời của Ngài mà Ngài đã yêu thương chúng ta, làm cho chúng ta sống cùng với Christ, ngay cả khi chúng ta đã chết trong các sự quá phạm, bởi lòng tốt ta không đáng hưởng, bạn đã được cứu-- và Ngài dấy chúng ta lên cùng Ngài và đặt chúng ta cùng ngồi với Ngài trong các nơi trên trời với Christ Giêsu”, mà trong các thời đại sắp đến thể được chứng minh sự giàu có vượt qua lòng tốt không đáng hưởng của Ngài trong sự nhân từ của Ngài đối với chúng ta trong sự hiệp nhất với Christ Giêsu”( bản ESV).
Ở đây trong Ê-phê-sô, các Kitô hữu đã được "dấy lên và ngồi cùng với Christ Giêsu. Vì vậy, một lần nữa, có vẻ các Kitô hữu tiếp cận "Giê-ru-sa-lem thuộc thiên "và được đem lên và ngồi với Christ' là một cái gì đó mà các Kitô hữu kinh nghiệm trong hiện tại. Đây không phải là phần thưởng trong lai thế. Điều này vẫn chưa đến.
Khái niệm nầy về chuẩn bị một cái gì đó cho những điều khác cũng có mặt trong các bài viết khác trong Tân Ước. John 14:2-4,
“Trong nhà Cha của Ta có rất nhiều phòng. Nếu không phải như vậy, Ta đã nói với bạn rằng Ta đi để chuẩn bị một nơi dành cho bạn? Và nếu Ta đi và chuẩn bị một nơi cho bạn rồi, Ta sẽ trở lại và sẽ tiếp bạn đến cùng bản thân Ta, hầu Ta đang ở đâu bạn cũng có thể ở đó.Và bạn biết cách nào để Ta đi đâu”.
Chỗ này là nơi Chúa Giêsu đã phải "đi”, mà theo thơ Hê-bơ-rơ, thì tín đồ hiểu sai là “thiên đường” cách chung nhưng là nơi chí thánh cách đặc biệt. Ngài phải đi 'chuẩn bị' điều gì? Thời gian duy nhất mà chữ ‘chuẩn bị 'được dùng trong Kinh Thánh là về một phần thưởng lai thế trong tương lai, được tìm thấy trong sách Ma-thi-ơ, 5-7...v.vv..
So sánh với Khải Huyền 21:2,
Tôi cũng đã thấy thành thánh, Giê-ru-sa-lem mới, từ trên trời đi xuống, từ Đức Chúa Trời và chuẩn bị như là một cô dâu trang điểm cho chồng mình.
"Thành phố thánh, Giê-ru-sa-lem mới" đã được "chuẩn bị như là một cô dâu" cho Chiên Con. Ngôn ngữ theo phép ẩn dụ nầy được sử dụng để mô tả dân của Đức Chúa Trời, đồng nhất, xác định họ là "thành phố", "Giê-ru-sa-lem mới." Thật vậy, họ là đền thờ, là Vương quốc của Đức Chúa Trời, mà ‘xuống từ trời’ đến trái đất. Nơi chí thánh của Đức Chúa Trời hoặc sự hiện diện cá nhân của Ngài xuống trái đất. Trong cách này là cách làm thế nào Ngài sẽ "cư trú với loài người." (Khải 21: 3)
Nhưng thành phố này hay dân của Đức Chúa Trời được mô tả bằng ngôn ngữ về ngôi đền ẩn dụ, không phải ở trên trời. Không chỉ Khải Thị 21 nói một cách rõ ràng rằng nó nó từ trời xuống, nhưng hãy xem xét Khải thị 20: 9,
Và chúng tiến lên khắp chiều rộng của trái đất và bao quanh trại của những người thánh và thành phố thân yêu. Nhưng lửa xuống từ trên trời rơi xuống và thiêu nuốt chúng.
Những kẻ thù của Đức Chúa Trời " tiến khắp mặt đất," không phải trên trời, để "bao vây các trại của những người thánh." (=thành phố yêu quý). Lưu ý là lửa “từ trời rơi xuống "để nuốt những kẻ thù của Chúa. Điều này cũng cho thấy rằng thành phố không ở trên trời.
Tất cả dân của Đức Chúa Trời sẽ được ở trong thành phố này, hãy xem xét Khải Huyền 22:12-15,
“ Kìa Ta đến mau chóng, đem tiền công theo để trả cho mỗi người tùy công việc của họ. Ta là An-pha và Ô mê ga, Đầu Tiên Và Sau chót, Ban đầu và Cuối cùng. Phước cho kẻ giặt áo mình, hầu được quyền đến nơi cây sự sống, và bởi các cửa cổng mà vào trong thành. Còn ở ngoài thành thì có loài chó, thuật sĩ, kẻ gian dâm, kẻ giết người, kẻ thờ hình tượng, cùng hết thảy những kẻ ưa mến nói dối và làm dối”.
Theo những bản văn này, những người ở bên ngoài thành phố "là những con chó và những người thực hành thuyết duy linh (spiritism)" như là "những kẻ tà dâm", và “những kẻ sát nhân”. Cho nên, một người hoặc ở trong thành phố hoặc là ở bên ngoài thành đó.
Theo những bản văn này, những người ở bên ngoài thành phố "là những con chó và những người thực hành thuyết duy linh (spiritism)" như là "những kẻ tà dâm", và “những kẻ sát nhân”. Cho nên, một người hoặc ở trong thành phố hoặc là ở bên ngoài thành đó.
Có phải những người không trung thành với Giê-hô-va Đức Chúa Trời và Giêsu Kitô, đều ở bên ngoài các bức tường thành phố và chờ đợi hồ lửa chăng? Không một cơ đốc nhân nào ở bên ngoài Giê-ru-sa-lem mới, vì chỉ có những người chưa được cứu mà thôi.
I. M.