CON NGƯỜI Ở GIỮA CÁC HỘI THÁNH
Trong Khải Thị chương 1 có tám điểm trọng yếu: khải thị về Đấng Christ, 
chứng cớ của Jesus, Đức Chúa Trời Tam Nhất, lần đến thứ hai của Đấng 
Christ, những người đồng dự phần về hoạn nạn, về vương quốc và về sự 
nhẫn nại trong Jesus, các Hội thánh địa phương, các giá đèn và Con 
Người. Chúng ta đã đề cập đến bảy điểm đầu tiên, trong bài này, chúng ta
 đến với điểm thứ tám là CON NGƯỜI ở giữa các Hội thánh (1:12-20). Trong
 sách này, Đấng Christ trước hết được khải thị là Con Người. Hễ khi nào 
có liên quan đến Hội thánh thì Ngài được khải thị trong bản chất phàm 
nhân của Ngài vì Hội thánh bao gồm những con người. Đầu của Hội thánh 
không những là Con Đức Chúa Trời mà cũng là Con Người. Sự kiện Chúa vẫn 
là CON NGƯỜI sau khi thắng thiên hàm ý rằng Ngài không cởi bỏ bản chất 
phàm nhân của Ngài sau sự phục sinh, và cách Ngài đối xử với chúng ta 
vẫn dựa trên nhân tính của Ngài. Là một người, Ngài đã đạt được mục đích
 là làm chứng cớ của Đức Chúa Trời. Cho nên, là những người trong các 
Hội thánh ngày nay, chúng ta cũng có thể làm chứng cớ của Đức Chúa Trời.
 Chúa chiến thắng với tư cách là con người, và chúng ta cũng có thể 
chiến thắng.
Đấng Christ ngày nay “ở giữa” các Hội thánh. Một mặt, Ngài là Thầy tế lễ
 Thượng phẩm trên các tầng trời đang cầu thay cho các Hội thánh (Hê. 
9:24; 7:25-26; La. 8:34); mặt khác, Ngài đang chuyển động trong các Hội 
thánh để chăm sóc các Hội thánh. Nếu muốn tham dự vào sự chuyển động của
 Ngài và vui hưởng sự chăm sóc của Ngài, chúng ta phải ở trong các Hội 
thánh.
Đang chuyển động trong các Hội thánh để chăm sóc các Hội thánh. Nếu muốn
 tham dự vào sự chuyển động của Ngài và vui hưởng sự hưởng sự chăm sóc 
của Ngài, chúng ta phải ở trong các Hội thánh.
I. TRONG NHÂN TÍNH CỦA NGÀI
Câu 13 chép: “Ở giữa những giá đèn ấy có một Đấng giống như Con Người, 
mặc áo dài đến chân, thắt đai vàng ngang ngực.” Ở đây, Đấng Christ không
 những được mô tả là Thầy tế lễ Thượng phẩm, như được thể hiện bởi áo 
dài của Ngài, mà còn được bày  tỏ là “giống như Con Người.” Ngài vẫn vừa
 thần thượng vừa phàm nhân. Là Thầy tế lễ Thượng phẩm của chúng ta, Ngài
 đang chăm sóc các Hội thánh trong nhân tính của Ngài.
Qua nhiều thế kỉ, một số người mang danh là Cơ Đốc nhân đã dạy rằng Đấng
 Christ không phải là Con Đức Chúa Trời. Thậm chí ngày nay, vẫn còn một 
số người mang danh là Cơ Đốc nhân nhưng không tin Đấng Christ là Con Đức
 Chúa Trời. Phủ nhận Đấng Christ là Con Đức Chúa Trời là tà giáo. Sự dạy
 dỗ như vậy là gian ác, đến từ âm phủ, và chúng ta phải kiên quyết chống
 lại sự dạy dỗ ấy. Ngược lại, một số Cơ Đốc nhân không tin rằng ngày nay
 Đấng Christ vẫn là Con Người. Họ nói rằng Đấng Christ đã trở nên CON 
NGƯỜI bằng cách nhục hóa, nhưng trong sự phục sinh, Ngài đã cởi bỏ nhân 
tính của Ngài. Các Cơ Đốc nhân ấy nghĩ rằng ngày nay Đấng Christ chỉ là 
Con Đức Chúa Trời chứ không còn là CON NGƯỜI nữa. Khoảng 15 năm trước, 
khi tôi chống đối quan điểm này, một số người chống đối tôi nói rằng dạy
 Đấng Christ vẫn còn là CON NGƯỜI là sai lầm. Dù một số Cơ Đốc nhân 
không tin rằng ngày nay Đấng Christ vẫn là Con Người, nhưng chúng ta tin
 như vậy. Theo lời thuần khiết, Chúa Jesus vẫn vừa là Con Đức Chúa Trời 
vừa là Con Người. Chúng ta không thể giải thích đầy đủ điều này vì tâm 
trí chùng ta quá giới hạn. Tuy nhiên, chúng ta tin và chấp nhận sự kiện 
Đấng Christ của chung ta vừa là Con Đức Chúa Trời với thần tính vừa là 
CON NGƯỜI với nhân tính. Trong Ngài, chúng ta có thần tính thật và nhân 
tính đúng đắn.
Trong 19 thế kỉ qua, đặc biệt là trong 6 thế kỉ đầu tiên, Đấng Christ 
học là một đề tài gây ra tranh luận gay gắt giữa vòng các Cơ Đốc nhân. 
Có những ý kiến khác nhau về Thân vị của Đấng Christ, và các Cơ Đốc nhân
 đã tranh luận về những ý kiến ấy. Chúng ta phải buông bỏ tất cả những 
cái gọi là trường phái thần học. Theo Kinh thánh, chúng ta tin rằng Đấng
 Christ của chúng ta thực sự là Con Đức Chúa Trời và Con Người. Ngài có 
hai bản chất, thần tính và nhân tính.
Khi Đấng Christ đến tiếp xúc với chúng ta trong các Hội thánh, Ngài làm 
điều đó không những trong thần tính mà còn trong nhân tính của Ngài. Anh
 em có thể bào chữa, nghĩ rằng Chúa có thể làm như vậy vì Ngài là Con 
Đức Chúa Trời, còn anh em là con người nên Chúa phải thông cảm với anh 
em. Là Con Đức Chúa Trời, Chúa có đầy khả năng. Nhưng là con người, anh 
em thật đáng thương, và Chúa không nên kết án anh em quá nhiều. Nhưng 
khi Ngài đến với chúng ta như CON NGƯỜI thì anh em không còn bào chữa gì
 nữa. Ngài cũng đã là một con người và đã thực hiện điều đó như một con 
người chứ không phải là Con Đức Chúa Trời. Đừng bào chữa. Nếu anh em bị 
đánh bại và thất bại trong nếp sống Hội thánh thì đừng bào chữa bằng 
cách nói rằng điều đó có thể thông cảm được vì anh em chỉ là con người. 
Con người chính là vật liệu thích hợp cho nếp sống Hội thánh. Cho nên, ở
 giữa các Hội thánh, Đấng Christ bước đi như Con Người. Trong Đa-ni-ên 
chương 3, chúng ta được biết Con Đức Chúa Trời bước đi trong lửa, nhưng 
trong Khải Thị chương 1, chúng ta thấy CON NGƯỜI bước đi ở giữa các Hội 
thánh. Tất cả chúng ta đều phải thờ thượng nên Ngài là một Đấng kì diệu 
như vậy. Vì Ngài vừa thần thượng vừa con người nên Ngài biết trời và 
đất, Đức Chúa Trời và con người. Trong Ngài, chúng ta có thần tính và 
nhân tính. Ngày nay, Chúa vừa ở trên các tầng trời cừa bước đi trên đất 
trong nhân tính của Ngài ở giữa các Hội thánh địa phương.
II. LÀ THẦY TẾ LỄ
Câu 13 chép rằng Đấng Christ “mặc áo dài đến chân”. Áo này là y phục của
 thầy tế lễ (Xuất. 28:33-35), tượng trưng cho sự đầy đủ của các mĩ đức 
thần thượng và các thuộc tính phàm nhân của Đấng Christ ( Ês. 6:1, 3). 
Dù từ liệu thầy tế lễ không được đề cập ở đây, nhưng qua y phục của 
Ngài, chúng ta biết Đấng Christ được mô tả ở đây là Thầy tế lễ Thượng 
phẩm. Ngày nay, Con Người, Jesus Christ, tức Đấng đang bước đi ở giữa 
các Hội thánh, chính là một Thầy tế lễ. Trong ba chức phận: thầy tế lễ, 
tiên tri và nhà vua, chức phận yêu dấu, thân mật, quý báu và đáng yêu 
nhất chính là chức phận tế lễ. Thầy tế lễ này rất yêu dấu và đáng yêu vì
 ông chăm sóc dân sự. Khi Christ bước đi giữa các Hội thánh, Ngài chăm 
sóc các Hội thánh.
III. KHÔNG CÔNG TÁC BẰNG SỨC LỰC MÀ CHĂM SÓC
CÁC HỘI THÁNH BẰNG TÌNH YÊU
Câu 13 cũng nói rằng Đấng Christ là CON NGƯỜI “thắt đai vàng ngang 
ngực”. Anh em có bao giờ thấy ai thắt đai ngang ngực chưa? Điểm này đầy ý
 nghĩa. Các thầy tế lễ trong Cựu Ước thắt đai ngang lưng để thi hành 
chức vụ (Xuất. 28:4). Trong Đa-ni-ên 10:5, Đấng Christ cũng thắt đai 
bằng vàng ròng ngang lưng. Nhưng ở đây, Đấng Christ là Thầy tế lễ Thượng
 phẩm của chúng ta “thắt đai ngang ngực”. Ngực tượng trưng cho tình yêu.
 Thắt đai ngang lưng là được làm cho mạnh mẽ để làm việc, trong khi 
“thắt đai ngang ngực” tượng trung cho sự chăm sóc trong tình yêu. Công 
tác của Đấng Christ trong việc sản sinh các Hội thánh đã được hoàn tất. 
Bây giờ Ngài không còn cần thắt đai ngang lưng để làm việc nữa. Điều 
Ngài đang làm bây giờ giữa các Hội thánh là chăm sóc các Hội thánh trong
 tình yêu. Điều ấy đòi hỏi Ngài phải được “thắt đai vàng ngang ngực”. 
“Đai vàng” chỉ về sức lực thần thượng. Đấng Christ hiện đang chăm sóc 
các Hội thánh cách thần thượng, chuyển động giữa các Hội thánh trong 
nhân tính của Ngài, và chăm sóc các Hội thánh bằng sức mạnh thần thượng 
của Ngài. Thật là một sự chăm sóc đầy yêu thương mà Ngài dành cho các 
Hội thánh của Ngài ngày nay!
IV. CỔ XƯA
Câu 14 chép: “Đầu và tóc người trắng như long chiên trắng, như tuyết”. 
Tóc trắng chỉ về tuổi cao (Gióp 15:10). Tóc đen dùng để mô tả Chúa trong
 Nhã Ca 5:11, tượng trưng cho sức lực dẻo dai và dài bền, nhưng tóc 
trắng mà Ngài được mô tả ở đây tượng trưng cho tính cổ xưa của Ngài.
Tuy Đấng Christ cổ xưa, nhưng Ngài không già nua. Trong chương này, 
chúng ta thấy đầu và tóc của Ngài trắng như lông chiên, như tuyết. Lông 
chiên trắng ra từ bản chất của sự sống, còn tuyết trắng thì từ trời rơi 
xuống. Lông chiên không được nhuộm trắng mà bẩm sinh có màu trắng, và 
màu trắng của nó ra từ bản chất. Lông chiên trắng là màu sắc của bản 
chất Đấng Christ. Tính chất cổ xưa của Ngài ra từ bản chất của Ngài. 
Tuyết có màu trắng vì nó từ trời rơi xuống và không có chút bụi đất hay 
vết dơ nào. Vì thế, lông chiên trắng được đề cập ở đây và trong Đa-ni-ên
 7: 9 cho thấy rằng tính chất cổ xưa của Đấng Christ ra từ bản chất của 
Ngài, không phải do Ngài trở nên già nua, trong khi tuyết trắng cho thấy
 rằng tính chất cổ xưa của Ngài mang tính thuộc trời, không thuộc đất.
V. NHỮNG CON MẮT CANH CHỪNG, QUAN SÁT, DÒ XÉT,
PHÁN XÉT VÀ TRUYỀN DẪN
Trong câu 14, chúng ta thấy mắt Ngài như ngọn lửa. Trong Nhã Ca 5:12, 
mắt của Đấng Christ giống như mắt bồ câu. Đó là để biểu lộ tình yêu của 
Ngài. Ở đây, “mắt Ngài như ngọn lửa”. Đó là để Ngài quan sát và dò xét 
khi Ngài phán xét bằng cách soi sáng. Trong sách này, mắt Ngài không 
phải là hai mà là bảy (5:6). Số 7 là con số trọn vẹn trong sự chuyển 
động của Đức Chúa Trời. Do đó, mắt Ngài trong sách này là vì sự vận hành
 của Đức Chúa Trời. Bảy mắt của Ngài là “bảy ngọn đèn bằng lửa cháy 
trước ngai, tức là bảy Linh của Đức Chúa Trời” (4:5; đc. Đa. 10:6). “Lửa
 cháy” tương đương với “ngọn lửa” và cũng để quan sát và dò xét. Bảy 
Linh của Đức Chúa Trời được sai đi khắp đất cũng vì sự chuyển động của 
Đức Chúa Trời trên đất. Vì thế, mắt của Đấng Christ trong sách này là 
bày Linh của Đức Chúa Trời vì sự chuyển động và vận hành của Đức Chúa 
Trời trên đất ngày nay.
Mắt của Đấng Christ là để canh chừng, quan sát, dò xét, phán xét bằng 
cách soi sáng và truyền dẫn. Chúng ta phải kinh nghiệm tất cả những 
phương diện khác nhau ấy về mắt Ngài, đặc biệt là phương diện truyền 
dẫn. Mắt Ngài truyền cho chúng ta tất cả những gì Ngài là. Mắt truyền 
dẫn của Ngài là ngọn lửa luôn luôn cháy. Điều này có thể được chứng minh
 bằng kinh nghiệm của chúng ta. Đừng vận dụng tâm trí anh em để hiểu 
điều này hãy xét lại kinh nghiệm bản thân. Từ ngày chúng ta được cứu, 
mắt của Đấng Christ như ngọn lửa bốc cháy, soi sáng chúng ta và truyền 
chính Ngài vào chúng ta. Mắt Ngài cũng dức dấy chúng ta để trở nên nóng 
cháy. Sau khi Christ nhìn chúng ta, chúng ta không bao giờ có thể nguội 
lạnh như trước đây. Bằng cách nhìn chúng ta, Ngài đốt cháy và khuấy động
 chúng ta trong Chúa. Nhiều lần Chúa đến với chúng ta bằng ánh mắt đâm 
thấu. Có lẽ khi chúng ta đang cố che giấu điều gì đó với vợ mình thì 
Chúa đến với bảy mắt chiếu sáng, đâm thấu vào bản thể chúng ta và phơi 
bày tình trạng thật của chúng ta. Tôi có loại kinh nghiệm này hàng  trăm
 lần. Khi tôi đang tranh cãi với những người khác, nhất là với những 
người thân của mình, thì ánh mắt chiếu sáng của Đấng Christ chiếu trên 
tôi, và tôi không thể nào tiếp tục nói được. Sự chiếu sáng của Ngài ngăn
 miệng tôi lại.
Sách Khải Thị là một sách có tính phán xét. Lửa là vì sự phán xét thần 
thượng (1 Cô. 3:13; Hê. 6:8; 10:27). “Đức Chúa Trời chúng ta là đám lửa 
hay thiêu đốt” (Hê. 12:29). Ngai của Ngài giống như ngọn lửa và các bánh
 xe của ngai thì như lửa đang cháy, và một dòng lửa bốc cháy tuôn ra từ 
trước mặt Ngài (Đa. 7:9-10). Tất cả những điều này là để phán xét. Ý 
nghĩa chính của mắt Chúa như ngọn lửa là vì sự phán xét của Ngài 
(2:18-28; 19:11-12). Khi Ngài đến chiếm hữu trái đất bằng cách phán xét,
 thậm chí chân Ngài cũng sẽ giống như những trụ lửa (10:1).
VI. CHÂN ĐƯỢC THỬ NGHIỆM VÀ CHIẾU SÁNG
Câu 15 chép: “Chân người giống như đồng sáng đã luyện trong lò”. Chân 
chỉ về bước đi. Theo hình bóng, đồng tượng trưng cho sự phán xét thần 
thượng (Xuất. 27:1-6). Khi Đấng Christ ở trên đất, cách ăn ở hằng ngày 
của Ngài đã được thử nghiệm và kiểm nghiệm. Vì bước đi của Ngài đã được 
thử nghiệm nên Ngài tỏa sáng. Bây giờ, chân của Đấng Christ như đồng 
sáng, điều này cũng được đề cập trong Ê-xê-chi-ên 1:7 và Đa-ni-ên 10:6, 
cho thấy rằng bước đi hoàn hảo và sáng ngời của Ngài làm cho Ngài xứng 
đáng thi hành sự phân xét thần thượng. “Luyện trong lò” là được thử 
nghiệm bằng cách chịu nung đốt. Bước đi của Đấng Christ đã được thử 
nghiệm bằng những nỗi khổ của Ngài, thậm chí bằng cái chết của Ngài trên
 thập tự. Vì thế, bước đi của Ngài sáng ngời như đồng sáng, làm cho Ngài
 có đủ điều kiện để phán xét những người không công chính. Như chúng tôi
 đã chỉ ra, khi Ngài đến chiếm hữu trái đất bằng cách phán xét, chân 
Ngài sẽ như trụ lửa (10:1).
VII. VỚI TIẾNG TRỊNH TRỌNG VÀ NGHIÊM NGHỊ
Câu 15 cũng chép rằng “tiếng Người như tiếng nhiều dòng nước”. “Tiếng 
nhiều dòng nước”, tức tiếng vang rền, chính là tiếng của Đức Chúa Trời 
Toàn năng (Êxc. 1:24; 43:2). Điều này tượng trưng cho tính trịnh trọng 
và nghiêm nghị của lời nói Ngài (đc. 10:3). Đôi khi tiếng của Chúa nhẹ 
nhàng và êm dịu, nhưng có những lúc, tiếng Ngài làm chúng ta kinh hoàng 
như một tiếng sấm. Mỗi khi chúng ta biếng nhác hay mê ngủ, tiếng của 
Chúa sẽ đánh thức chúng ta. Tiếng của Ngài là tiếng của Đức Chúa Trời 
Toàn năng, sẽ cảnh cáo và làm thức tỉnh chúng ta.
VIII. ĐANG NẮM CÁC SỨ GIẢ CỦA CÁC HỘI THÁNH
Câu 16 chép: “Tay hữu Người cầm bảy ngôi sau”. Như câu 20 nêu rõ, “bảy 
ngôi sao là các sứ giả là những người thuộc linh trong các Hội thánh 
mang trách nhiệm về chứng cớ của Jesus. Giống như những ngôi sao, họ cần
 phải có bản chất thuộc trời và ở trong vị trí thuộc trời. Trong sách 
Công cụ các Sứ đồ và các Thư tín, các trưởng lão là những  người dẫn dắt
 trong sinh hoạt của các Hội thánh địa phương (Công. 14:23; 20:17; Tít 
1:5). Chức phận trưởng lão có phần nào chính thức, và như chúng ta đã 
thấy, vào lúc sách này được viết thì các chức phận trong các Hội thánh 
đã suy đồi trong tình trạng suy thoái của Hội thánh. Trong sách này, 
Chúa kêu gọi chúng ta lưu ý đến thực tại thuộc linh. Vì thế, sách này 
nhấn mạnh đến thực tại thuộc linh. Vì thế, sách này nhấn mạnh đến các sứ
 giả của các Hội thánh hơn là các trưởng lão. Chức phận của các trưởng 
lão thì dễ nhận ra, nhưng tín đồ cần thấy tầm quan trọng của thực tại 
thuộc linh và thuộc trời của các sứ giả ví nếp sống Hội thánh đúng đắn 
để mang chứng cớ của Jesus trong tình trạng tối tăm của Hội thánh suy 
thoái.
Cả các giá đèn lẫn các ngôi sao đều để chiếu sáng vào ban đêm. Giá đèn 
tượng trưng cho Hội thánh địa phương là một đơn vị tập thể, trong khi 
ngôi sao tượng trưng cho sứ giả của Hội thánh địa phương là một thực thể
 cá thể. Trong đêm tối của tình trạng Hội thánh suy thoái, cần đến sự 
tỏa sáng của cả các Hội thánh cách tập thể lẫn các sứ giả cách cá thể. 
Trong đêm tối của tình trạng Hội thánh suy thoái, cần đến sự tỏa sáng 
của cả các Hội thánh cách tập thể lẫn các sứ giả cách cá thể. Khi bước 
đi giữa các Hội thánh, Đấng Christ cầm những người dẫm dắt trong tay 
phải của Ngài. Điều này an ủi biết bao! Những người dẫn dắt phải ngợi 
khen Ngài vì họ ở trong tay Ngài và Ngài  đang cầm giữ họ. Vì những 
người dẫn dắt ở trong tay Ngài nên họ không cần thối lui, yếu đuối hay 
sai lầm. Đấng Christ thực sự chịu trách nhiệm về chứng cớ của Ngài.
Trong sach Khải Thị, không có trưởng lão nào trong các Hội thánh mà chỉ 
có cá sứ giả. Vào thời điểm sách này mới được viết, Hội thánh đã suy 
thoái. Vì thế, trong sách Khải Thị, Chúa bỏ tất cả những hình thức. Làm 
một trưởng lão có thể có phần nào mang tính pháp lí hay hình thức. Đừng 
có tham vọng làm một trưởng lão; hãy mong ước làm một ngôi sao tỏa sáng.
 Đừng làm một người chỉ có địa vị suông mà hãy làm một ngôi sao tỏa 
sáng. Cả giá đèn lẫn các ngôi sao đều tỏa sáng vào ban đêm. Cả Hội thánh
 lẫn những người dẫn dắt trong các Hội thánh đều phải tỏa sáng. Tất cả 
những người dẫn dắt đều phải là những ngôi sao.
IX. LỜI PHÁN XÉT RA TỪ MIỆNG NGÀI
Trong câu 16, chúng ta được biết “từ miệng Người ra một thanh gươm bén 
hai lưỡi.” Trong Nhã Ca 5:16, “miệng Người rất êm dịu,” còn trong các 
sách Phúc Âm, “các lời ân điển” ra từ miệng Ngài (Lu. 4:22); nhưng ở 
đây, “từ miệng Ngài ra một thanh gươm bén hai lưỡi.” Đây là “lời giết 
chết,” phán xét và biện biệt của Ngài (Hê. 4:12; Eph. 6:17). “Lời ân 
điển” là để Ngài cung ứng ân điển cho những người được Ngài làm ơn, 
trong khi “thanh gươm bén hai lưỡi” là để Ngài xử lí những người và 
những điều tiêu cực. Chúng ta thường nói rằng Linh phát ngôn với các Hội
 thánh. Xin nhớ rằng Linh phát ngôn ngày nay chính là Đấng Christ, Đấng 
đang phát ngôn bằng thanh gươm hai lưỡi. Ơ đây có sự phán xét, và tất cả
 chúng ta đều đã kinh nghiệm điều này. Vì tình trạng suy thoái của Hội 
thánh, tất cả chúng ta đều cần một sự phán xét nào đó. Ngày nay, tất cả 
các Cơ Đốc nhân đều cần Chúa phán xét bằng lời Ngài. Nhiều lần chúng ta 
đã kinh nghiệm sự phán xét, vì chúng ta lầm lỗi và xa Chúa. Vì chúng ta 
xa Ngài nên Ngài đến phán xét chúng ta. Sự phát ngôn của Ngài ngày nay 
chủ yếu là phán xét. Tôi có thể làm chứng với anh em rằng nếu Chúa phát 
ngôn với anh em thì hầu hết những lời của Ngài là lời phán xét. Khi phát
 ngôn, Ngài phán xét. Mỗi lời ra từ miệng Ngài trong các Hội thánh ngày 
nay giống như con dao bén phán xét chúng ta. Những lời ra từ miệng Chúa 
thật sắc bén, đâm thấu vào bản thể chúng ta, chia hồn khỏi linh, và biện
 biệt những ý định của lòng chúng ta. Đó là Đấng Christ mà chúng ta kinh
 nghiệm ngày nay trong nếp sống Hội thánh.
Trong Cơ Đốc giáo có vô số ý kiến, và thường xuyên có những cuộc tranh 
luận và bàn cãi vì những ý kiến ấy. Chính tôi đã chứng kiến điều này. 
Tôi biết một trường hợp về một số Cơ Đốc nhân đang phục vụ trong ban 
chấp sự. Một lần nọ, khi nhóm với nhau, họ bàn cãi và thảo luận với 
nhau; cuộc thảo luận cuối cùng biến thành cuộc tranh cãi. Đến một lúc, 
một thành viên trong ban thậm chí còn ném Kinh Thánh vào một thành viên 
khác. Nhưng ngày nay, trong Hội thánh của Chúa, chúng ta có một Đấng 
đang bước đi giữa chúng ta. Ngài trông nom chúng ta bằng bảy mắt cháy 
rực của Ngài, và từ miệng Ngài ra một tham gươm bén hai lưỡi. Thanh gươm
 ấy giết chết mọi quan niệm khác nhau giữa vòng chúng ta. Đó là lí do vì
 sao trong các Hội thánh gần như không có cuộc tranh cãi nào.
Bên thứ ba ấy là chính Đấng Christ, tức Con Người, và cũng chính là Thầy
 tế lễ Thượng phẩm bước đi giữa các Hội thánh và chăm sóc các Hội thánh 
trong tình yêu thương. Vào thời Cựu Ước, cần có những thầy tế lễ cắt tỉa
 tim đèn. Ngày nay, Thầy tế lễ của chúng ta là Con  Người, biết thời 
điểm thích hợp để cắt tỉa chúng ta. Đó là lí do vì sao giữa vòng chúng 
ta có được sự yên tĩnh như vậy. Đây là bí quyết của nếp sống Hội thánh 
mà người không hiểu được, vì họ không có Thầy tế lễ cắt tỉa và xử lí các
 ngọn đèn trên giá đèn. Hiện tại, Thầy tế lễ này đang bước đi giữa các 
Hội thánh để chăm sóc các Hội thánh bằng cách cắt tỉa tất cả các ngọn 
đèn.
X. VỚI KHUÔN MẶT CHÓI SÁNG
Trong câu 16, chúng ta cũng được biết rằng “mặt Ngài như mặt trời chói 
sáng hết sức”. Trong Nhã Ca 5:10 và 13, mặt Ngài trông đáng yêu để những
 người tìm kiếm Ngài đánh giá cao, và trong các Thư tín, mặt Ngài phản 
chiếu vinh hiển của Đức Chúa Trời (2 Cô. 4:6) để truyền sự sống vào 
trong những người tin Ngài. Tuy nhiên, ở đây cũng như trong Đa-ni-ên 
10:6 thì “mặt Ngài như mặt trời chói sáng hết sức” để soi sáng, phán xét
 hầu đem vương quốc đến. Khi Ngài được biến hình và mặt Ngài chiếu sáng 
như mặt trời, thì đó là sự đến của Ngài trong vương quốc (Mat. 
16:28-17:2). Khi Ngài đến chiếm lấy trái đất cho vương quốc, mặt Ngài sẽ
 như mặt trời (10:1).
XI. LÀ KHỞI ĐẦU VÀ KẾT THÚC, ĐẦU TIÊN
VÀ SAU CÙNG
Câu 17 chép: “Vừa thấy Người, tôi đã ngã xuống chân Người như chết. 
Người bèn đặt tay phải trên tôi, mà rằng: Đừng sợ, Ta là Đầu tiên và Sau
 cùng”. Đấng Christ không những là Đầu tiên và Sau cùng mà còn là khởi 
đầu và kết thúc. Điều ấy bảo đảm với chúng ta rằng vì Ngài đã bắt đầu 
nếp sống Hội thánh nên Ngài chắc chắn sẽ hoàn thành nếp sống ấy. Ngài sẽ
 không bao giờ bỏ dở công tác của Ngài. Tất cả các Hội thánh địa phương 
phải tin rằng Chúa Jesus là sự khởi đầu và kết thúc. Ngài sẽ hoàn tất 
điều Ngài đã bắt đầu trong sự khôi phục của Ngài.
XII. LÀ ĐẤNG SỐNG
Trong câu 18, chúng ta thấy rằng Chúa là “Đấng sống”, tức Đấng “đã chết”
 và đang “sống cho đến đời đời vô cùng”. Đấng Christ bước đi ở giữa các 
Hội thánh, Đấng là Đầu của các Hội thánh và sở hữu các Hội thánh, chính 
là Đấng sống, đầy dẫy sự sống. Ha-lê-lu-gia, chúng ta có một Đấng Christ
 sống, đã đắc thắng sự chết! Đấng Christ của chúng ta là Đấng Christ 
phục sinh đang sống trong chúng ta và giữa chúng ta. Ngài sống cho đến 
đời đời vô cùng. Trong sự khôi phục, chúng ta có một Đấng Christ sống 
tuyệt diệu biết bao!  Tất cả các Hội thánh cần phải sống động như Đấng 
Christ, đầy dẫy sự sống và đắc thắng sự chết.
XIII. CÓ UY QUYỀN TRÊN SỰ CHẾT VÀ ÂM PHỦ-
Trong câu 18, Chúa cũng phán: “Ta cầm chìa khóa của sự chết và âm phủ”. 
Do sự sa ngã và tội của con người, sự chết đã bước vào và hiện đang hành
 động trên đất để gom lại tất cả những người có tội. Sự chết giống như 
đồ hốt rác dùng để gom bụi trên sàn nhà, còn Âm phủ.” Do sự sa ngã và 
tội của con người, sự chết đã bước vào và hiện đang hành động trên đất 
để gom lai tất cả những người có tội. Sự chết giống như đồ hốt rác dùng 
để gom bụi trên sàn nhà, còn Âm phủ thì giống như thùng rác. Bất kì thứ 
gì đồ hốt rác gom lại đều được bỏ vô thùng rác. Do đó, sự chết là vật 
thu gom, còn Âm phủ là vật cầm giữ. Trong nếp sống Hội thánh ngày nay, 
chúng ta có còn ở dưới sự chết và Âm phủ không? Không! Đấng Christ đã 
hủy bỏ sự chết trên thập tự giá và đắc thắng Âm phủ trong sự phục sinh 
của Ngài. Tuy Âm phủ cố hết sức cầm giữ Ngài lại, nhưng nó không có sức 
mạnh để làm điều đó (Công. 2:24). Với Ngài, sự chết không còn nọc độc và
 Âm phủ không còn quyền lực. Nhưng đối với chúng ta thì sao? Cũng phải 
giống như vậy. Trong nếp sống Hội thánh, các chìa khóa của sự chết và Âm
 phủ đều ở trong tay Ngài. Chúng ta không thể nào đối phó với sự chết; 
chúng ta đơn giản không có khả năng xử lí nó. Mỗi khi sự chết bước vào, 
nó sẽ làm cho nhiều người phải chết. Nhưng mỗi khi chúng ta dâng cho 
Chúa Jesus chỗ đứng, cơ hội và quyền  tự do  để chuyển động và hành động
 giữa chúng ta, thì cả sự chết lẫn Âm phủ đều sẽ ở dưới quyền kiểm soát 
của Ngài. Tuy nhiên, hễ khi nào Chúa Jesus không có chỗ trong Hội thánh 
thì ngay lập tức sự chết trở nên thắng thế và Âm phủtrở nên mạnh mẽ để 
cầm giữ những người chết chóc. Ngợi khen Chúa, Đấng Christ có chìa khóa 
của sự chết và Âm phủ. Sự chết phục tùng Ngài, và Âm phủ ở dưới sự kiểm 
soát của Ngài. Ha-lê-lu-gia!
Còn--
