Thứ Tư, 10 tháng 4, 2019

THA-ĐÊ--


Tha-đê là một trong mười hai môn đệ ban đầu được Chúa Jesus chọn. Tha- đê là một sứ đồ bí ẩn. Đối với mọi người, Tha- đê hầu như không được đề cập trong Kinh thánh. Để làm phức tạp vấn đề, Kinh thánh đề cập đến Tha- đê bằng một vài tên khác nhau.

Jerome, một học giả Kinh thánh thế kỷ thứ tư SCN, đặt tên cho Tha- đê là Trinomious, có nghĩa là người đàn ông có ba tên. Trong cả hai tin mừng Ma-thi-ơ và Mác, sứ đồ nầy được liệt kê là Tha- đê (Ma-thi-ơ 10: 3; Mác 3:18 ). Trong  bản King James của Ma-thi-ơ 10: 3, anh ta được gọi là Lebbaeus, có họ là Tha- đê. Tuy nhiên, Lu-ca thay thế tên Tha- đê bằng chữ Giu-đa con trai (em) của Gia-cơ trong cả Lu-ca 6:16 và Công vụ 1:13. Và khi sứ đồ Giăng nhắc đến Tha- đê, ông  gọi anh ta là Giu-đa (không phải Ích-ca-ri-ốt), (Giăng 14:22).


Giu-đa là một tên phổ biến trong thời Tân Ước. Tên đó có nghĩa là, “Jehovah dẫn đầu”. Các học giả Kinh Thánh cho rằng Giu-đa  có khả năng là tên được đặt cho Tha- đê khi sinh ra, trong khi Lebbaeus và Tha- đê là hai biệt danh. Lebbaeus được dịch là “đứa trẻ có tấm lòng”, và Tha- đê có nghĩa là “đứa trẻ vú mẹ”, vì vậy nó có thể là những từ ngữ đáng quý của các thành viên trong gia đình ban cho Tha-đê. John MacArthur đề xuất trong cuốn sách “Mười hai người đàn ông bình thường” rằng những biệt danh này cho thấy Tha- đê là một tâm hồn dịu dàng với tấm lòng dịu dàng của trẻ con.

Những lời được ghi lại duy nhất về Tha- đê chép trong Giăng 14. Chúa Jesus và mười hai môn đệ đã được tập trung lại trong phòng cao cho bữa tiệc thánh. Chúa đang nói với họ về vấn đề rắc rối trong cái chết sắp xảy ra của Ngài. Các sứ đồ đã có những câu hỏi và sự quan tâm. Chúa Jesus hứa ban Đức Thánh Linh cho họ để giúp đỡ họ và ngự trong họ. Rồi Ngài nói, “Còn ít lâu thế giới chẳng thấy Ta nữa, nhưng các ngươi thấy Ta, vì Ta sống thì các ngươi cũng sẽ sống. Ngày đó các ngươi sẽ biết Ta ở trong Cha Ta, các ngươi ở trong Ta, và Ta ở trong các ngươi. Ai có các điều răn của Ta và giữ lấy, ấy là kẻ thương yêu Ta; còn ai thương yêu Ta sẽ được Cha Ta thương yêu lại, Ta cũng thương yêu người, và tỏ chính mình Ta cho người” (Giăng 14: 19 -21).

Vì bối rối, Tha- đê đã hỏi Chúa Jesus, “Giu-đa (không phải Ích-ca-ri-ốt) hỏi Ngài rằng: “Thưa Chúa, có chi xảy ra mà Ngài sẽ tỏ mình cho chúng tôi, lại không tỏ mình cho thế giới ư?” (Giăng 14:22). Câu hỏi của Tha- đê  tiết lộ một vài điều về người nầy. Đầu tiên, anh cảm thấy đủ thoải mái trong mối quan hệ của mình với Chúa Jesus để làm gián đoạn Ngài bằng một câu hỏi. Thứ hai, Tha- đê muốn biết tại sao Chúa Jesus sẽ đối xử với các môn đệ cách khác với thế giới. Và thứ ba, giống như hầu hết những người Do Thái ở thế kỷ thứ nhất, Tha- đê đang mong đợi một Đấng Mê-si-a sẽ tiết lộ chính Ngài nắm quyền lực trên Israel đối với thế giới.

Câu trả lời mà Chúa Jesus đưa ra cho Tha- đê rất đơn giản: “Nếu ai thương yêu Ta, thì giữ đạo Ta, Cha Ta sẽ thương yêu người, chúng Ta đều đến cùng người và lập cư với người.  Còn ai chẳng thương yêu Ta thì chẳng giữ lời Ta; lời các ngươi nghe đó chẳng phải của Ta, bèn là của Cha là Đấng đã sai Ta” (Giăng 14: 23 -24). Tình yêu của chúng ta dành cho Chúa được thể hiện qua sự vâng phục lời dạy của Ngài. Tình yêu và sự vâng phục không thể tách rời đối với các Cơ Đốc nhân. Những người yêu thương và vâng lời Đức Chúa Trời là con cái của Ngài. Những đứa trẻ này nhận được Đức Thánh Linh, Đấng mặc khải Đấng Christ cho chúng, nhưng Đấng Christ vẫn ẩn giấu với thế giới.

Không có gì được tiết lộ nhiều hơn về Tha- đê trong Kinh thánh. Chúng ta biết Tha- đê, giống như các môn đệ khác, rời bỏ cuộc sống trước kia để theo và phục vụ Chúa Jesus một cách trung thành, chịu đựng khó khăn và bắt bớ. Một số học giả tin rằng Tha- đê đã viết thơ Giu-đe, mặc dù quan điểm nầy được chấp nhận rộng rãi hơn là Giu-đa,  em cùng cha khác mẹ của Jesus, đã viết cuốn sách này. Vì Lu-ca 6:16 và Công vụ 1:13 chép “Giu-đa, con ( em) của Gia cơ”. Chúng ta khó xác định Gia-cơ nầy là người đã chép sách Gia cơ.
Văn thơ ngoài Kinh thánh nói rằng, sau Lễ ngũ tuần, Tha- đê đã đưa thông điệp phúc âm về phía bắc, nơi ông thực hiện phép lạ, rao giảng và thành lập một hội thánh ở Edessa, một khu vực ở Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại. Một truyền thống nói rằng anh ta bị đánh chết bằng lưỡi rìu vì đức tin của mình, và một truyền thống khác nói rằng anh ta đã bị đóng đinh.
ST