Chú ý “linh” là tâm linh, “hồn” là bản ngã”,
Linh là Thánh Linh
Trong kinh nghiệm của một tín đồ, có lẽ điều
khó khăn nhất là thuận phục Chúa trong vấn đề tình yêu. Nhưng Chúa chú ý đến
tình yêu của tín đồ nhiều hơn bất cứ điều gì khác. Chúa đòi hỏi người ấy hoàn
toàn trao tình yêu của mình cho Ngài để Ngài có thể là Chúa trên điều đó. Chúa
muốn có vị trí đầu nhất trong tình yêu của người ấy. Chúng ta thường nghe dân
chúng nói về sự hiến dâng. Chúng ta biết rằng sự hiến dâng là bước đầu tiên
trong cách sống thuộc linh của một tín đồ. Đó không phải là đích đến của sự
thuộc linh; đúng hơn, đó là khởi đầu. Nó dẫn tín đồ đến chỗ được thánh hóa. Nếu
không có sự hiến dâng, chắc chắn không thể có cách sống thuộc linh. Tuy nhiên,
trong sự hiến dâng của một tín đồ, không điều gì quan trọng hơn tình yêu của
người ấy.Việc hiến dâng của người ấy là chân thật hay giả dối tùy thuộc vào
việc có sự hiến dâng của tình yêu hay không. Tình yêu là đá thử vàng của sự
hiến dâng. Dâng thời gian, tiền bạc, khả năng và nhiều điều khác cho Chúa thì
dễ nhưng dâng tình yêu của chúng ta cho Ngài thì khó. Không phải chúng ta không
yêu Chúa. Có thể chúng ta rất yêu Chúa; tuy nhiên, chúng ta có thể dâng vị trí
đầu nhất cho một người khác và dâng cho Chúa vị trí thứ hai; chúng ta có thể
yêu một người khác ngoài Chúa hoặc chúng ta có thể yêu theo cách của mình. Yêu
Chúa theo cách này không được xem là hiến dâng, vì chúng ta chưa dâng tình yêu
của mình. Mọi tín đồ thuộc linh đều biết rằng tình yêu phải được dâng lên đầu
tiên. Nếu tình yêu không được dâng lên thì không điều gì được dâng lên .
Trong vấn đề tình yêu của tín đồ, Đức Chúa trời đòi hỏi người ấy yêu
Ngài hoàn toàn. Chúa không bằng lòng chia sẽ lòng của tín đồ với bất cứ điều
gì, Thậm chí cho dù Ngai chiếm phần lớn hơn Ngài cũng không đẹp lòng. Chúa đòi
hỏi sự tuyệt đối. Đây là đòn chí tử đối với sự sống hồn của tín đồ, vốn hoàn
toàn vì bản ngã. Chúa muốn chúng ta chia tay với những điều chúng ta yêu và
không có một trái tim chia nhiều ngăn. Ngài muốn chúng ta hoàn toàn yêu Ngài và
yêu theo Ngài. “Ngươi sẽ yêu Đức Chúa Trời ngươi bằng cả tấm lòng, hồn và tâm
trí” (Matt. 22:37). Từ ngữ “cả” nghĩa là mọi phần của bản thể chúng ta phải vì
Chúa. Chúa không muốn chúng ta cầm giữ tình yêu của mình để có thể yêu theo ao
ước của chúng ta. Ngài muốn sự tuyệt đối. Ngài là một “Đức Chúa Trời hay ghen
tuông” (Xuất 20:5), là Đấng không cho phép bất cứ ai chiếm được tình yêu của
con cái Ngài.
Nhưng chúng ta có nhiều tình yêu khác hơn Đức Chúa Trời! Có lẽ một số
là những thân cận với chúng ta, như Isaac, Jonathan hoặc Rachel. Đức Chúa Trời đòi
hỏi chúng ta đặt những người chúng ta yêu lên bàn thờ. Ngài không thể dung chịu
việc chúng ta giữ lại một người nào đó cạnh tranh với Ngài. Mọi điều chúng ta
có phải được dâng lên. Đây là cách để một tín đồ có được quyền năng thuộc linh.
Khi sinh tế, thậm chí đến sinh tế sau cùng, được đặt lên bàn thờ, lửa mới từ
trời giáng xuống. Nếu không có bàn thờ thì không có lửa thiên thượng. Nếu không
vác thập tự giá và dâng cho Chúa mọi điều chúng ta yêu thì làm sao chúng ta có
thể có quyền năng của Thánh Linh? Bàn thờ không nên để trống vì lửa sẽ thiêu
hủy sinh tế trên đó. Lửa sẽ thiêu điều gì nếu không có sinh tế? Các anh em ơi,
chúng ta không thể có được quyền năng của Thánh Linh bởi hiểu biết thập tự giá
trong tâm trí của mình hay bởi thảo luận về thập tự giá; đúng hơn, chúng ta có
thể được quyền năng bởi hoàn toàn dâng mọi sự. Nếu chúng ta có bất cứ dây trói
kín giấu nào chưa được cắt đứt, nếu trong lòng chúng ta vẫn tiếc một số chiên,
bò hoặc Agag đối với Đức Chúa Trời thì chúng ta sẽ không thể nhìn thấy quyền
năng của Thánh Linh được biểu lộ qua chúng ta.
Vì các tín đồ không để cho Chúa làm Chúa trên tình yêu của họ, nên công
tác của Đức Chúa Trời bị ngăn trở. Có bao nhiêu cha mẹ yêu con cái họ đến nỗi
nắm giữ chúng và khiến vương quốc của Đức Chúa Trời chịu tổn thất! Nhiều cặp vợ
chồng quá gắn bó với nhau đến nỗi thiếu lao tác cho mùa gặt lớn! Nhiều tín đồ
chần chừ trong việc phân rẽ với bạn bè nên tụt lại phía sau trong khi anh em họ
chiến đấu một mình ở tiền tuyến. Đáng tiếc là một số tín đồ nghĩ rằng họ có thể
yêu những người yêu của họ và Chúa cùng một lúc. Họ không nhận thức rằng nếu
yêu những người yêu của họ, họ không thể yêu Chúa; và nếu yêu Chúa, họ không
thể yêu những người yêu của họ. Nếu chúng ta không thể đồng nói với Asap: “Trên
trời tôi có ai ngoài Ngài? Và ngoài Ngài tôi không ao ước gì trên đất”, thì
chúng ta vẫn đang sống trong hồn (Thi 73:25).
Chúng ta không thể xao lãng tầm quan trọng của việc tín đồ yêu Chúa
bằng cả tấm lòng. Không điều gì làm thỏa lòng Chúa bằng tình yêu của chúng ta.
Chúa không nhìn vào việc chúng ta làm được bao nhiêu việc cho Ngài hoặc chúng
ta năng nổ vì Ngài ra sao. Ngài đẹp lòng khi thấy chúng ta yêu Ngài. Hội thánh
tại Epheso đã lao tác cho Chúa; tuy nhiên, họ đã lìa bỏ tình yêu đầu nhất của
mình đối với Ngài (Khải 2:4). Vi vậy, Chúa không đẹp lòng. Chúa chỉ đẹp lòng
khi chúng ta công tác ra từ tình yêu của chúng ta dành cho Ngài. Nếu chúng ta
không có lòng vì Đấng Christ, nếu không có tình cảm với ngài và không yêu Ngài
thì việc chúng ta có thể hoàn thành rất nhiều Chúa Ngài ở bên ngoài có lợi ích
gì? Chúng ta phải biết rằng rất có thể chúng ta đang lao tác cho Chúa mà không
yêu Ngài. Đây là trường hợp của người Epheso. Nguyện chúng ta xin Đức Chúa Trời
chiếu ánh sáng của Ngài để chúng ta có thể thấy lý do cho các hoạt động của
chúng ta và gia tăng tình yêu của chúng ta với Ngài. Sẽ có ích lợi gì nếu chúng
ta cứ nói về Chúa, Chúa và lao tác cho
Ngài suốt cả ngày nhưng trong lòng không yêu Ngài? Ô, nguyện chúng ta có một
tấm lòng tuyệt đối cho Chúa yêu dấu của chúng ta!
Con cái Đức Chúa Trời không nhận thức rằng những người yêu của họ có
thể là một sự ngăn trở cho sự tăng trưởng trong sự sống thuộc linh của họ. Khi
một tín đồ có các tình yêu khác ngoài Đức Chúa Trời, người ấy sẽ thấy Đức Chúa
Trời dần dần trở nên kém quan trọng đối với mình. Mặc dù những người yêu của
người ấy có thể cũng yêu Đức Chúa Trời, nhưng có thể người ấy sẽ yêu Đức Chúa
Trời vì cớ những người yêu của minh nhiều hơn vì cớ chính Đức Chúa Trời. Mối
liên hệ của người ấy với Đức Chúa Trời bị hạ thấp từ thuộc linh xuống thuộc xác
thịt. Chúng ta chắc chắn không thể yêu Đức Chúa Trời vì cớ một số con người,
vấn đề hay sự việc. Chúng ta chỉ có thể yêu Ngài vì chính Ngài. Nếu một tín đồ
yêu Đức Chúa Trời vì những người yêu của mình thì lòng người ấy bị điều khiển
bởi những người mà người ấy yêu. Nếu hôm nay người yêu của người ấy có thể tác
động để người ấy yêu Đức Chúa Trời thì tương lai họ cũng có thể tác động để
người ấy đánh mất tình yêu của mình với Đức Chúa Trời.
Hơn nữa, khi để lòng minh thiên về một người nào đó, chúng ta rất khó
giữ lòng mình bình tịnh. Đúng hơn, chúng ta ở dưới tác động của tình cảm, hết
sức cố gắng làm đẹp lòng người ấy. Vào lúc này, có thể chúng ta ít quan tâm đến
việc gần Đức Chúa Trời so với việc đến gần người yêu của mình. Mối quan tâm của
chúng ta, trong những điều thuộc linh, những điều liên hệ đến trực giác, sẽ
giảm sút đáng kể. Có thể không có sự thay đồi bên ngoài, nhưng lòng chúng ta cứ
đặt nơi người mà chúng ta yêu. Trong loại tình trạng này, mối quan tâm của
chúng ta trong những điều thuộc linh, nếu không hoàn toàn ra đi thì cũng giảm
sút đáng kể. Khi đó, chúng ta không thể giữ cho lòng mình không yêu những điều
hư không của thế giới vì chúng ta có thể làm đẹp lòng người chúng ta yêu bằng
những điều đó. Những điều thế tục, vẻ đẹp, vinh hiển và nhiều điều khác không
đáng đề cập đến của thế giới sẽ dần dần trở nên đối tượng theo đuổi của chúng
ta để chúng ta có thể làm đẹp lòng người chúng ta yêu. Khi đó, Đức Chúa Trời và
các đòi hỏi của Ngài sẽ bị quên lãng và phớt lờ. Chúng ta phải nhận thức rằng
chúng ta chỉ có thể yêu một người và phục vụ một chủ. Nếu yêu con người, chúng
ta không thể yêu Đức Chúa Trời. Vì vậy, bất cứ mối liên hệ giấu kín nào chúng
ta có thể có với một người đều phải bị cắt đứt.
Chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể làm thỏa mãn lòng của một tín đồ. Các con
người không thể làm thỏa lòng tín đồ. Nhiều tín đố thất bại đơn giản vì họ tìm kiếm trong con người những điều chỉ có
thể được tìm thấy trong con người những điều những điều chỉ có thể tìm thấy
được trong Đức Chúa Trời. Tình yêu loài người chẳng là gì khác hơn sự hư không;
chỉ có tình yêu của Đức Chúa Trời mới có thể thỏa mãn các niềm ao ước của một
tín đồ. Nếu người ấy tìm kiếm tình yêu ngoài Đức Chúa Trời, tình trạng thuộc
linh của người ấy sẽ lập tức trở nên tệ hơn. Người ấy chỉ có thể sống bởi tình
yêu của Đức Chúa Trời.
Theo cái nhìn này thì có phải chúng ta không cần yêu ai hết không? Nếu
nhìn vào các lệnh truyền được lặp đi lặp lại của Kinh Thánh về việc yêu anh em
và yêu kẻ thù của mình, chúng ta sẽ biết rằng ý định của Đức Chúa Trời không
phải là chúng ta không yêu ai khác; đúng hơn, Ngài muốn hướng dẫn tình yêu của
chúng ta. Ngài muốn chúng ta yêu những người khác không vì chính minh, nhưng vì
Ngài và cũng ở trong Ngài. Sự tốt lành và gian ác thiên nhiên của chúng ta
không có chỗ ở đây. Tình yêu thiên nhiên cũng đánh mất quyền năng của nó. Đức
Chúa Trời muốn chúng ta được Ngài hướng dẫn vì chúng ta yêu Ngài. Khi Ngài muốn
chúng ta yêu một người nào đó, chúng ta có thể vâng phục; khi Ngài muốn chúng
ta chấm dứt mối liên hệ với một người nào đó, chúng ta cũng có thể vâng phục.
Đây là nếp sống thập tự. Chỉ khi nào chúng ta có Thánh Linh áp dụng
công tác của thập tự giá sâu bên trong chúng ta và khiến chúng ta kinh nghiệm
việc đặt sự sống-hồn vào chỗ chết thì chúng ta mới có thể đánh mất bản ngã
trong tình cảm của mình. Khi thật sự trải qua sự chết, chúng ta sẽ không gắn bó
với bất cứ ai; chúng ta sẽ được hướng dẫn chỉ bởi các lệnh truyền của Đức Chúa
Trời. Khi sự sống-hồn chúng ta trải qua bước này, nó đánh mất quyền năng như
thể nó đã chết trong vấn đề tình cảm. Khi đó, Đức Chúa Trời có thể chỉ dẫn
chúng ta về cách khởi đầu mới để yêu những người khác ở trong Ngài. Đức Chúa
Trời muốn chúng ta có các mối liên hệ mới trong Ngài đối với những người chúng
ta yêu trong quá khứ. Mọi mối liên hệ thiên nhiên phải được kết thúc. Chúng ta
phải trải quan sự chết để có thể bắt đầu
các mối liên hệ mới trong lĩnh vực phục sinh.
Đây dường như là một nếp sống khó khăn đối với tín đồ! Nhưng chỉ những
ai thật sự sống theo cách này mới biết được đây là một phước hạnh! Đức Chúa
Trời thường “tước đoạt” những người mà tín đồ yêu vì sự hiến dâng hoặc vì lợi
ích của họ. Đức Chúa Trời sẽ công tác để làm cho lòng chúng ta thuận phục, hoặc
Ngài sẽ tước đoạt những điều chúng ta yêu. Khi Ngài sử dụng biện pháp thứ hai,
Ngài khiến cho những người chúng ta yêu thay đổi tình yêu của họ đối với chúng
ta hoặc Ngài khiến cho môi trường ngăn trở, không cho chúng ta yêu họ. Có thể
người chúng ta yêu đi xa, có thể người ấy qua đời hoặc có thể có các hoàn cảnh
khác. Nếu lỏng hiến dâng của chúng ta chân thật trước mặt Đức Chúa Trời, Đức
Chúa Trời sẽ tước đoạt mọi sự khỏi chúng ta cho đến khi chúng ta chỉ còn lại
Ngài. Nếu tín đồ muốn có được cách sống thuộc linh thật sự, người ấy phải sẵn
lòng từ bỏ mọi điều yêu quý của mình. Đức Chúa Trời đòi hỏi chúng ta từ bỏ bất
cứ điều gì mâu thuẫn với tấm lòng yêu Ngài. Nếp sống thuộc linh không cho phép
tình cảm chúng ta bị phân tán và bất định. Trong mắt Đức Chúa Trời, tình yêu mà
sai trật trong động cơ, mức độ hay mục đính thì cũng sai trật giống như sự căm
ghét. Trong cái nhìn của Đức Chúa Trời, tình yêu ra từ bản ngã của chúng ta
cũng dơ bẩn như sự căm ghét vậy.
Khi một tín đồ trải qua một thời gian như vậy, người ấy sẽ thấy lòng
mình thuần khiết thế nào trong việc yêu thương người khác. Không có điều gì của
bản ngã pha trộn trong đó. Cả tấm lòng người ấy vì Đức Chúa Trời và cũng ở
trong Đức Chúa Trời. Mặc dù trong quá khứ người ấy yêu thương người khác, nhưng
người ấy yêu mình nhiều hơn, xem mình quan trọng hơn người khác. Bây giờ, người
ấy có thể chia sẻ trong sự vui mừng và sự buồn rầu của người khác, mang gánh
năng của người khác và phục vụ họ bằng tình yêu. Người ấy sẽ không yêu điều
mình yêu nhưng yêu điều Đức Chúa Trời muốn người ấy yêu. Người ấy sẽ không yêu
chính mình nhiều hơn yêu người khác nhưng yêu người khác như yêu chính mình.Vì
người ấy yêu chính mình trong Đức Chúa Trời nên người ấy cũng yêu người khác
trong Đức Chúa Trời và vì Đức Chúa Trời. Vì vậy, người ấy có thể yêu người khác
như yêu chính mình.
Các tín đồ phải biết rằng việc để cho Đức Chúa Trời hướng dẫn tình cảm
của họ là yêu cầu tiên quyết cho sự tăng trưởng thuộc linh của họ. Tình cảm
chúng ta thật bất trị biết bao! Nếu không được bắt phục dưới chủ đích của Đức
Chúa Trời, thì nếp sống thuộc linh của chúng ta có thể gặp nguy hiểm bất cứ lúc
nào. Điều chỉnh suy nghĩ sai thì dễ, nhưng quản lý tình cảm sai trật thì khó.
Chúng ta phải yêu Chúa bằng cả tấm lòng mình, để cho Ngài hướng dẫn tình yêu
của chúng ta.
YÊU CHÚA CÁCH THUỘC HỒN
Tuy nhiên, chúng tôi xin phát ngôn một lời cảnh báo ở đây. Đừng nghĩ
rằng chúng ta có thể yêu Chúa bởi bản ngã của mình. Chúa từ chối mọi điều ta từ
bản ngã của chúng ta. Thậm chí tình yêu của chúng ta đối với Ngài cũng vô dụng.
Về một mặt, nếu một tín đồ không có tình yêu sâu xa đối với Chúa, Ngài sẽ rất
đau buồn; mặt khác, ngay cả những người yêu Chúa cũng có thể làm Ngài buồn vì
họ yêu Ngài trong hồn. Nếu một tín đồ vận dụng năng lực thuộc hồn của mình để
yêu Chúa thì tình yêu này không đẹp lòng Chúa. Tình yêu của tín đồ, thậm chí vì
chủ đích yêu Chúa, cũng phải hoàn toàn ở dưới sự kiểm soát của thế linh. Ngày
nay có quá nhiều người yêu Chúa bằng tình yêu thế tục; hiếm thấy một tình yêu
nào ra từ Đức Chúa Trời.Điều này thật sự nghĩa là gì?
Các tín đồ chính yếu tiếp nhận những điều của Đức Chúa Trời bằng tấm
lòng loài người của họ. Họ nói về Đức Chúa Trời Cha của họ; họ gọi Chúa là
“Chúa yêu dấu” của họ và họ tưởng nhớ những nỗi khổ của Chúa. Khi họ làm điều
này, lòng họ đầy dẫy vui mừng và cảm giác yêu thương Chúa. Họ nghĩ rằng cảm
nhận này ra từ Đức Chúa Trời. Có thể khi họ nghĩ về thập tự giá của Chúa, họ
không thể không rơi lệ, như thể họ có một tình yêu nóng cháy, khôn tả đối với
Chúa Jesus. Nhưng những điều này trôi qua trong đời sống họ giống như một con
thuyền lướt trên biển, không để lại dấu vết gì.Tình yêu của các tín đồ cũng
giống như vậy. Nhưng đây là loại tình yêu gì? Đây là loại tình yêu gì? Đây là
loại tình yêu chỉ khiến bản ngã cảm thấy vui sướng.Đây không phải là yêu Đức
Chúa Trời mà là yêu cảm xúc vui mừng. Vẻ bề ngoài của các nỗi khổ của Chúa cảm
động lòng họ, nhưng lẽ thật chứa đựng bên trong không tác động đến đời sống của
họ.
Các nỗi khổ của Chúa Jesus trở nên vô quyền trong lòng của các tín đồ ngày
nay biết bao! Khi nghĩ về những điều
này, họ tự hào về việc mình yêu Chúa biết bao và thể nào người khác không thể
sánh kịp với họ! Khi họ nói về những điều này, họ giống như những người thiên
thượng. Nhưng thật ra, họ chưa hề từ bỏ bản ngã đáng thương của mình. Khi nghe
họ nói, anh em nghĩ rằng họ rất yêu Chúa. Anh em khen ngợi và ngưỡng mộ họ.
Nhưng thật ra, họ hoàn toàn yêu chính mình. Lý do họ tưởng nhớ Chúa, nói về
Chúa và mong mỏi Chúa chỉ là vì điều này khiên họ cảm thấy vui mừng. Khi làm
điều này, họ cảm thấy vui mừng. Họ làm vì điều này vì mục đích của họ là có
được niềm vui. Đó không phải là vì Chúa. Một sự tưởng nhớ như vậy khiến “tính
thuộc linh” của họ cảm thấy dễ chịu. Vì vậy, họ tiếp tục tưởng nhớ Chúa theo
cách này. Điều nầy là thuộc hồn và thuộc đất. Điều đó không ra từ Đức Chúa
Trời. Vì vậy, điều đó không thuộc linh.
Sự khác biệt giữa tình yêu thuôc linh và tình yêu thuộc hồn là gì? Thật
khó nói được sự khác biệt ở bên ngoài. Tuy nhiên, mỗi tín đồ có thể biện biệt
nguồn tình yêu của mình. Hồn là bản ngã chúng ta. Do đó, mọi điều thuộc hồn
không thể phân rẽ khỏi bản ngã. Tình yêu thuộc hồn dành cho Chúa là tình yêu ra
từ bản ngã. Yêu Đức Chúa Trời để bản ngã có được cảm giác vui mừng là yêu Đức
Chúa trời thuộc hồn. Nếu tình yêu dành cho Đức Chúa Trời là thuộc linh thì
không có gì cho bản ngã pha trộn vào. Đây là yêu Đức Chúa Trời vì chính Ngài,
vì yêu Ngài. Bất cứ tình yêu nào dành cho Đức Chúa Trời mà sự vui mừng của bản
ngã hoặc vì bất cứ lý do nào khác, dù là toàn bộ hay chỉ một phần, cũng đều ra
từ hồn. Hơn nữa, nếu nhìn vào bông trái của tình yêu này, chúng ta cũng có thể
nói được nguồn gốc của nó. Nếu điều đó là thuộc hồn thì loại tình yêu này không
có quyền năng giúp đỡ một tín đồ mãi mãi được giải phóng khỏi thế giới. Người
ấy phải lao tác và tranh đấu để tránh xa sự hấp dẫn của thế giới. Tuy nhiên,
nếu tình yêu là thuộc linh thì những sự vật, sự việc thế tục tự nhiên được
buông bỏ vì cớ tình yêu này. Tín đồ xem thường chúng và kể chúng là một điều gì
đó đáng ghét. Người ấy không còn để mắt đến thế giới nữa vì ánh sáng vinh hiển
của Đức Chúa Trời đã làm mù đôi mắt xác thịt của họ rồi. Sau khi có kinh nghiệm
yêu Đức Chúa Trời như vậy, người ấy hạ mình, như thể người ấy bị giảm hạ trước
mặt con người
Bản chất của tình yêu Đức Chúa Trời là mãi mãi không thay đổi. Tình yêu
của chúng ta rất hay thay đổi. Nếu chúng ta yêu Đức Chúa Trời bằng tình yêu của
mình, thì tình yêu của chúng ta đối với Đức Chúa Trời sẽ trở nên nguội lạnh khi
chúng ta cảm thấy không vui. Sau một thời gian dài thử thách, tình yêu đó chắc
chắn sẽ thất bại vì tín đồ yêu Đức Chúa Trời bằng tình yêu của chính mình;
người ấy yêu Đức Chúa Trời vì chính mình, vì niềm vui của mình, v.v. Vì vậy,
khi không thể có được niềm vui như mong đợi, người ấy sẽ rụt lại. Nếu đó là
tình yêu của Đức Chúa Trời, thì bất kể ở trong vị trí hay tình cảm nào, người
ấy vẫn yêu Đức Chúa trời không thay đổi. “Tình yêu mạnh hơn sự chết; sự ghen
tuông hung bạo như âm phủ…. Nhiều nước cũng không thể dập tắt tình yêu, các cơn
lụt cũng không thể nhấn chìm được nó” (Nhã 8:6-7). Nếu một tín đồ thật sự yêu
Đức Chúa Trời, bất kể hoàn cảnh và cảm xúc của người ấy ra sao, người ấy vẫn
yêu Đức Chúa Trời. Tình yêu thuộc hồn sẽ dừng lại khi tác động của tình cảm
dừng lại; tình yêu thuộc linh thì mạnh mẽ, hung bạo và không bỏ cuộc.
Chúa thường khiến một tín dồ kinh nghiệm những điều đau khổ để người ấy
không yêu Đức Chúa Trời vì chính mình. Khi tín đồ yêu Chúa bằng tình yêu của
chính mình vì chính mình, người ấy phải cảm thúc được tình yêu của Chúa thì mới
có thể yêu Ngài. Nhưng khi tín đồ yêu Đức Chúa Trời bằng tình yêu của Đức Chúa
Trời và vì Đức Chúa Trời thì Đức Chúa Trời không cho người ấy cảm thúc được
tình yêu của Ngài. Thay vì vậy, Đức Chúa Trời muốn tín đồ tin vào tình yêu của
Ngài. Khởi đầu nếp sống Cơ Đốc của một người, Chúa luôn luôn hấp dẫn tín đồ để
cảm nhận được tình yêu của Ngài theo nhiều cách. Sau khi tín đồ kinh nghiệm
điều này, Ngài dẫn dắt người ấy nhận lấy một hành trình sâu hơn. Đức Chúa Trời
không cho người ấy cảm nhận được tình yêu của Ngài, nhưng khiến người ấy cảm
nhận được tình yêu của Ngài, nhưng khiến người ấy tin vào tình yêu của Ngài.
Chúng ta phải chú ý đến một sự thật là mỗi tín đồ ao ước tiến lên cách sâu hơn
đều phải kinh nghiệm việc nếm biết tình yêu của Chúa cách sâu xa. Chỉ bởi sự
hấp dẫn của tình yêu Chúa, một tín đồ mới có thể từ bỏ mọi sự vì Chúa và ra
trình diện với Chúa. Trong giai đoạn khởi đầu nếp sống thuộc linh của một tín
đồ, có cảm thúc về tình yêu của Chúa là cần thiết và hữu ích. Đây là một điều
gì đó mà tín đồ phải theo đuổi. Sau khi kinh nghiệm cảm nhận về tình yêu Chúa
sau một khoảng thời gian thích đáng, tín đồ không nên “bám chặt vào” loại cảm
nhận này. Nếu không, nếp sống thuộc linh của người ấy sẽ bị tổn hại. Có các
loại kinh nghiệm khác nhau cho các trạm khác nhau trên hành trình của nếp sống
thuộc linh. Có một loại kinh nghiệm nào đó ở một trạm nào đó là điều thích hợp
và có ích. Nhưng nếu một tín đồ ao ước duy trì các kinh nghiệm của trạm trước
cho đến trạm cuối thì người ấy sẽ phải lui lại hoặc lưu lại ở một chỗ nào đó.
Sau khi tín đồ cảm nhận tình yêu của Ngài; vì vậy, chẳng bao lâu, nhưng không
phải ngay lập tức, sau khi người ấy kinh nghiệm cảm nhận về tình yêu của Ngài,
Đức Chúa Trời không còn khiến người ấy cảm thúc được tình yêu của Ngài nữa. Khi
đó, Ngài muốn người ấy tin rằng tình yêu của ngài vẫn không thay đổi. Nếu sau
khi kinh nghiệm cảm nhận về tình yêu của Đức Chúa Trời, một tín đồ đột ngột
không có cảm nhận đó nữa, thì người ấy
phải nhận thức đây là lúc người ầy phải tin cậy. Người ấy không nên hoảng hốt.
CẢNH GIÁC VỀ MỘT ĐIỀU
Nếu muốn bước đi theo linh, chúng ta phải giữ tình yêu của mình bình
tịnh; nếu không, chúng ta không thể trực tiếp nghe được tiếng của trực giác.
Nếu tình cảm chúng ta không hoàn toàn thuận phục chủ đích của Đức Chúa Trời thì
lòng chúng ta sẽ thường xuyên bị quấy rầy, điều này ngăn trở sự dẫn dắt của
linh. Trong linh, tín đồ phải liên tục chú ý đến những con người và sự vật gây
kích động cho tình cảm của mình. Nếu Satan không thể thắng trong các vấn đề
khác, hẳn chắc chắn sẽ cám dỗ anh em trong lĩnh vực này. Tôi không biết có bao
nhiêu tín đồ đã thất bại vì điều này. Vì vậy, chúng ta phải thận trọng.
Bạn bè có thể khuấy động tình yêu của chúng ta nhiều hơn bất cứ điều gì
khác. Giữa vòng bạn bè, người khác phái sẽ khuấy động chúng ta nhiều nhất vì cả
nam và nữ đều cần được điều chỉnh không chỉ về sinh lý mà còn về tâm lý. Vì có
các sự khác biệt trong sự cấu tạo thiên nhiên nên họ có sức hấp dẫn đối với
nhau. Điều này là thuộc hồn và thiên nhiên nên phải được tín đồ từ chối.
Sự thật là người khác phái có thể dễ dàng làm nảy sinh tình yêu. Sự
kích thích từ người cùng phái không sao sánh được với sự kích thích từ người
khác phái. Vì có một đòi hỏi hỗ tương về mặt tâm lý nên điều này dẫn một người
đến chỗ tin rằng những người khác phái dễ gần gũi hơn những người cùng phái.
Loại xu hướng này là thông thường, thiên nhiên, và cố hữu. Vì vậy, tình yêu đối
với người khác phải dễ dàng nhen nhóm chỉ bởi khuấy động một chút.
Mọi vấn đề này chỉ về phương diện thiên nhiên. Sự thật là vậy. Vì vậy,
nếu một tín đồ muốn bước đi theo linh, người ấy phải chú ý đến điều này. Trong
việc đối xử với người khác, nhất là trong vấn đề tình yêu, nếu chúng ta đối xử
với người cùng phái theo cách này và đối xử với người khác phải theo cách khác
thì chúng ta phải nhận thức rằng chúng ta đang ở dưới công tác của hồn. Nếu
chúng ta thay đổi cách đối xử chỉ vì họ là người khác phái thì tình cảm của
chúng ta vẫn là thiên nhiên. Nếu tín đồ cảm thấy có một lực hút khó hiểu đối
với người khác phái chỉ vì đó là một người khác phái, thì người ấy phải biết
rằng tình cảm thiên nhiên của mình đã bị kích hoạt. Đôi khi, loại kích thích
này pha trộn với một chủ đích rất đúng đắn. Tuy nhiên, nếu có một chút ý tưởng
nào về vấn đề khác phái pha trộn với các ý tưởng khác, tín đồ phải nhận thức rằng
mối liên hệ đó không hoàn toàn là thuộc linh.
Trong công tác và đang khi công tác, một công nhân phải thận trọng để
công tác của người ấy không bị thấm nhuần bởi bất cứ ý tưởng nào về người khác
phái. Mọi ao ước có được vinh hiển giữa vòng những người khác phái đó phải
tuyệt đối bị từ chối. Chỉ cần có sự phát ngôn và thái độ bị ảnh hưởng bởi người
khác phái thì cũng đủ để vô hiệu hóa quyền năng thuộc linh thật. Mọi sự phải
được thực hiện cách yên lặng với một động cơ thuần khiết. Hãy nhớ rằng không
chỉ có tội lỗi là ô uế mà mọi sự thuộc hồn cũng ô uế.
Nếu vậy, các tín đồ không nên có bạn bè khác phái sao? Đây không phải
là sự dạy dỗ của Kinh Thánh. Khi Chúa ở trên đất, Ngài đã kết giao với Martha,
Mary và những người nữ khác. Điều quan trọng là tình cảm hoàn toàn ở dưới sự
cai trị của Đức Chúa Trời hay là có tác động của hồn trong đó. Các anh chị em
kết giao với nhau là bình thường; nhưng không nên có bất cứ công tác của hồn
hay của tội lỗi nào. Trước khi một tín đồ kinh nghiệm công tác triệt để của
thập tự giá, tốt nhất là đừng có bạn bè khác phái. Tuy nhiên, bất kể một tín đồ
đang ở giai đoạn tăng trưởng nào, nếu người ấy tìm kiếm hoặc mong ước có bạn
khác phái thì chắc chắn người ấy đang bị hồn kiểm soát. Trong mọi sự, chúng ta
phải thuận phục sự sắp xếp của Đức Chúa Trời.
Tóm lại, tình yêu của tín đồ phải hoàn toàn được dâng cho Đức Chúa
Trời. Bất cứ lúc nào chúng ta cảm thấy khó từ bỏ ai đó, chúng ta phải nhận thức
rằng sự sống hồn chúng ta đang nắm quyền kiểm soát. Nếu tình yêu của chúng ta
không thể thuận phục chủ đích của Đức Chúa Trời ở bất cứ lĩnh vực nào thì chắc
chắn là đã có nhiều điều không thuộc linh pha trộn vào đó. Tình yêu thuộc hồn
chỉ dẫn chúng ta đến với thế giới và tội lỗi. Nếu tình cảm của chúng ta không
thuộc về Chúa, không sớm thì muộn nó sẽ trở nên dục vọng. Từ quá khứ đến hiện
tại, Samson không phải là người duy nhất thất bại trong vấn đề này. Delilah sẽ
tiếp tục cắt tóc dân chúng khắp nơi.
Trước đây, chúng ta đã nói rằng các tín đồ rất khó hiến dâng trong vấn
đề tình yêu. Vì vậy, sự hiến dâng trong một điều duy nhất này là dấu hiệu cho
tính thuộc linh chân thật. Mức độ mà một tín đồ chết đối với tình cảm của mình
và đối với việc tìm kiếm tình yêu của chính là mức độ thuộc linh của người ấy.
Đây là sự thử nghiệm lớn nhất. Nếu không chết đối với các sự yêu mến thế giới
thì chúng ta chưa chết đối với điều gì cả. Chết đối với tình cảm là chết đối
với thế giới. Việc ao ước tình bạn và tình yêu của người yêu chỉ tỏ rằng chúng
ta chưa biết đối với sự sống bản ngã. Sự chết thật đối với sự sống hồn có thể
được nhìn thấy trong việc từ bỏ tình yêu của chúng ta, chỉ còn lại tình yêu
dành cho Đức Chúa Trời. Một người thuộc linh thì siêu việt biết bao, bước đi
vượt trên tình yêu loài người!.
W.N.
(Người thuộc linh)