"Đến bữa ăn, Bô-ô bảo nàng:
“Hãy lại gần đây, lấy bánh chấm nước giấm mà ăn!” Vậy nàng ngồi gần bên các thợ
gặt và ông đưa bắp rang cho nàng. Nàng ăn no nê và để dành phần còn dư"
(Ru- tơ 2:14).
Ru-tơ người Mô-áp được vinh danh
là một trong năm phụ nữ được đề cập trong Ma-thi-ơ 1, trong phả hệ của Chúa
Giê-xu chúng ta. Theo luật pháp của Môi-se, bà là người Mô-áp, nên đã bị cấm
vào hội chúng của Chúa mãi mãi (Phục truyền 23: 3). Nhưng luật lệ tương tự đã
quy định về "ngoại kiều, trẻ mồ côi và người góa bụa" (Phục truyền
24: 19-21). Không chỉ có một, nhưng cả ba điều khoản này đều áp dụng cho Ru-tơ.
Cho dù biết hay không biết, cô ấy hưởng sự dự bị này của luật pháp mà chúng ta
không được nói đến. Nhưng chúng ta biết rằng cô ấy tự gọi mình là một "người
ngoại quốc" khi nói chuyện với Bô-ô (so với câu 10). Và cô cũng thú nhận sự
không xứng đáng của mình khi cô nói với mẹ chồng: “Xin cho con ra ngoài ruộng để
mót lúa. Con sẽ theo sau người nào sẵn lòng cho con mót” (c. 2). Cô ấy đã ước
đoán rất ít những gì đã dành sẵn cho cô
.
Khi Bô-ô chú ý đến cô và hỏi về
cô, người đầy tớ trông coi các thợ gặt nói với ông rõ ràng rằng cô là "một
thiếu phụ người Mô-áp từ xứ Mô-áp trở về cùng với Na-ô-mi" (so với c. 6).
Lưu ý sự lặp đi lặp lại của từ ngữ "Mô-áp". Người đầy tớ không giấu điều
gì khi nhận ra cô. Nếu Ru-tơ nghe lén được bất cứ cuộc nói chuyện nào, cô ấy có
thể run lên. Nhưng cô đã đến để "tìm kiếm ân sủng", và cô tìm được rồi,
vượt quá sự mong đợi của cô. Và mặc dù Bô-ô chào cô là "con gái", cô
vẫn tự gọi mình là một người ngoại quốc, và là đầy tớ gái của ông.
Bô-ô đã thương xót Ru-tơ nhiều
hơn nữa. Để làm cho cô ấy cảm thấy như hoàn toàn ở nhà, ông ấy nói với cô đừng
đi mót lúa ở một cánh đồng nào khác nhưng vẫn giữ đúng nơi cô đang ở với các đầy
tớ gái của ông. Thậm chí ông còn đoán trước được nhu cầu của cô rằng: "Nếu
có khát, hãy đến uống nước mà các đầy tớ ta đã chứa sẵn trong các chum”. Chính
điều đó đã khiến cô hạ mình quỳ xuống trước mặt ông, tự hỏi tại sao ông chú ý của
cô như vậy. Những ai trong chúng ta biết được ân sủng của Đức Chúa Jêsus chúng
ta không khó khăn gì trong việc theo dõi sự song hành ở đây. Nhưng tất cả những
điều này chỉ là bước mở đầu cho những gì theo sau.
"Đến bữa ăn, Bô-ô bảo nàng:
“Hãy lại gần đây, lấy bánh chấm nước giấm mà ăn!” (Giấm đã đề cập ở đây cũng giống
như giấm rượu nói ở Dân số kí 6: 3). Đó là lời mời gọi duyên dáng nhất của Bô-ô
mà tôi muốn sử dụng như là một minh hoạ cho ân sủng của Chúa Giêsu Christ chúng
ta. Theo cách như vậy, Ngài đã mời chúng ta cùng tương giao với Ngài, ăn bánh
và uống chén để tưởng nhớ Ngài. Không có gì ngoài ân sủng thần thượng có thể giải
thích cho việc chúng ta được mời tham dự vào các yếu tố thánh thiêng đó mà nói
đến thân xác và máu của Chúa chúng ta. Ân sủng mà Ru-tơ tìm thấy trong Bô-ô chỉ
là một dấu hiệu mờ nhạt về ân sủng của Đức Chúa Trời đối với mỗi người trong
chúng ta, những người tuyên bố Ngài là Đấng Cứu Rỗi và Chúa. Tất cả những gì
Bô-ô đã làm cho Ru-tơ đều gợi lên nhiều nhất về tất cả những gì Chúa đã làm cho
chúng ta.
Để bắt đầu, chúng ta hãy lưu ý lại
lần nữa khi ông ấy đoán trước sự khát nước của cô ấy khi ông ấy nói, "Nếu
có khát, hãy đến uống nước mà các đầy tớ ta đã chứa sẵn trong các chum”. Đây là
sự dự bị mà cô ấy có thể tự uống mà không phải đi đến giếng để lấy nước. Những
lời này của Bô-ô nhắc nhở chúng ta về những lời của Chúa Jêsus chúng ta đã nói
với người nữ xứ Sa-ma-ri. “Nếu chị biết quà tặng của Đức Chúa Trời, và Người
đang nói với chị: ‘Cho Ta xin nước uống’ là ai thì chắc chắn chị sẽ nài xin Người,
và Người sẽ cho chị nước sống" (Giăng 4:10). Phần còn lại của câu chuyện
là quá nổi tiếng không cần lặp lại ở đây. Chỉ cần nói rằng cô ấy đã hoàn toàn
hài lòng, cô ấy bỏ lại bình nước và đã gọi người khác đến chia sẻ phước hạnh với
cô ấy.
Điều thứ hai mà Bô-ô đã làm cho
Ru-tơ rất gợi ý về điều ngay trước mắt chúng ta khi chúng ta chuẩn bị tham dự bữa
tiệc thánh của Chúa. Dĩ nhiên, tôi đề cập đến bánh mì và dấm, hay rượu nho, đã
đề cập trong câu 14 trong văn bản của chúng ta. Là một trong những người đã tin
tưởng vào Chúa, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Bô-ô mời cô đến với mối tương
giao của những người đã có được đức tin quý giá như nhau. Cô ấy là một trong những
người mà có thể nói rằng cô ấy đã trốn tránh để được che chở với sự hy vọng đặt
ra trước cô ấy (xem Hê-bơ-rơ 6:18- chúng ta là những người chạy đến ẩn náu nơi
Ngài, được sự an ủi lớn và nắm chắc niềm hi vọng đã đặt trước mặt mình).
Trong hình dáng đẹp của bài phát
biểu được sử dụng ở đây, chúng ta thấy không chỉ là một nơi an ninh, mà còn là
sự thoải mái nữa. Đồng thanh với người viết Thánh Vịnh, cô Ru tơ có thể nói,
"Lạy Đức Chúa Trời, sự nhân từ Chúa quý giá biết bao! Con cái loài người
nương náu mình dưới bóng cánh Chúa" (Thi Thiên 36: 7).
Để giải khát cô uống những thứ mà
những người trẻ mang đến là điều cô có thể tự làm một mình. Nhưng để ăn bánh mì
và nhúng miếng bánh của cô vào dấm là việc khác. Miếng bánh theo nghĩa đen
"một mảnh vỡ." Hình ảnh những miếng bánh vỡ diễn tả thật đẹp về những
gì chúng ta làm khi chúng ta bẻ bánh để tưởng niệm Chúa của chúng ta. Và điều
này cô đã làm khi "ngồi gần bên các thợ gặt". Đó là một hành động
tương giao với người khác. Nói cách khác, cô đã có sự thông công với họ.
Nhưng thậm chí còn nhiều hơn ở đây.
Trong kết nối trực tiếp với những điều đã nói ở trên, chúng ta đã đọc rằng Bô-ô
"khi ăn uống xong, trong lòng khoan khoái, Bô-ô đến nằm bên đống lúa mạch".
Trước đây nàng đã thông công với các con gặt. Còn đây là điều đặc biệt và cá
nhân. Như vậy nó có thể đại diện cho phần đặc biệt mà nhiều người trong chúng
ta, chắc chắn, thường mang chúng ta đến một sự phục vụ như thế này.
Lời cuối cùng trong văn bản của
chúng ta, như trong bản dịch thông thường của chúng ta, có thể hơi sai lạc. Nó
không đề cập đến sự ra đi của cô ấy mà là những gì cô ấy để lại sau khi cô ấy
đã hài lòng. Đó là ý nghĩa được xác nhận bởi đoạn cuối cùng của câu 18 trong
chương này. Nó đề cập đến "Nàng ăn no nê và để dành phần còn dư"
(2:14). Và câu "Ru-tơ cũng lấy phần ăn dư để dành mà trao cho bà"
(2:18)
Chính điều đó đã gợi ý đầu đề cho
bài suy gẫm này, "Trên sự thỏa mãn" . Và điều nầy theo cách Chúa của chúng ta là Đấng "có thể
làm trổi hơn bội phần mọi điều chúng ta cầu xin hoặc suy tưởng" (Ê-phê-sô
3:20). Và chúng ta, những người đã được đối đãi rất hào phóng, có thể đủ khả
năng phân phát rộng rãi điều mà Ngài đã tự do ban cho chúng ta. Chúng ta hãy đến
gần bàn của Ngài, "có lòng rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ" (1Tim 6:18).