Thứ Hai, 7 tháng 4, 2014

HOA HỒNG CỦA SHARON VÀ HOA HUỆ CỦA THUNG LŨNG

calla_lilies_1

«Tôi là hoa tường vi của Sa-rôn, bông huệ của trũng.
Bạn tình Ta ở giữa đám con gái Như bông huệ ở giữa gai gốc”. (Nhã Ca 2:1-2)


1.Hoa Hồng: Bản Truyền thống dịch là “hoa tường vi” không đúng. Hoa “tường vi” là hoa của cung đình vua chúa.  Chữ “rose” trong tiếng hê-bơ-rơ là chabatstseleth. Chữ nầy chỉ xuất hiện hai lần trong Cựu Ước, là Nhã Ca 2:1 và Esai 35:1( Đồng vắng trổ hoa.... như bông hồng”. Hoa hồng hoang dại ở Israel khác hoa hồng thông thường. Có người dịch là crocus—“hoa nghệ tây”.


Đây là lời tự thú nhận của Su-la-mít. Loại hoa hồng hoang dại nầy bị khinh dể trong đất Giu-đê. Tại đây người yêu hạ mình, tự nhận thức mình chỉ là một người nhỏ mọn, như một loài hoa dại-- về một mặt, sống cuộc đời xinh xắn, nhưng bị khinh dể (hoa hồng) trong thế giới nói chung (Sharon—chữ Sharon nghĩa là “đồng bằng”), và một mặt khác là cuộc đời thanh khiết, tin cậy (hoa huệ -lily, Mathio 6:28) trong các chỗ thấp thỏi (các thung lũng). Chưa ai bảo đảm chữ “lily” ở đây là hoa huệ như hoa huệ ở Việt Nam. Hoa lily nầy cũng là hoa hoang dại.










Hoa Hồng Sharon



2. “Bạn tình ta ở giữa đám con gái, như bông huệ ở giữa gai gốc”. Đây là lời Đấng Christ đánh giá nàng, như bạn tình của Ngài ở giữa các người nữ ngoại tình, yêu thế giới ( đám con gái- Gia cơ 4:4 đó bảo là các tín đồ ngoại tình thuộc linh) và như là người sống cuộc đời thanh khiết, tin cậy (hoa lily- Mathio 6:28) giữa vòng dân nhơ nhớp và vô tín ( gai gốc). Hoa lily ở giữa đám con gái (tín đồ) và cũng sống giữa gai gốc (người ngoại).











Minh khải 7-4-2014