«Tôi là hoa tường vi của Sa-rôn, bông huệ của trũng.
Bạn tình Ta ở giữa
đám con gái Như bông huệ ở giữa gai gốc”. (Nhã Ca 2:1-2)
1.Hoa Hồng: Bản
Truyền thống dịch là “hoa tường vi” không đúng. Hoa “tường vi” là hoa của cung
đình vua chúa. Chữ “rose” trong tiếng
hê-bơ-rơ là chabatstseleth. Chữ nầy chỉ xuất hiện hai lần trong Cựu Ước, là Nhã
Ca 2:1 và Esai 35:1( Đồng vắng trổ hoa.... như bông hồng”. Hoa hồng hoang dại ở
Israel
khác hoa hồng thông thường. Có người dịch là crocus—“hoa nghệ tây”.
Đây là lời tự thú
nhận của Su-la-mít. Loại hoa hồng hoang dại nầy bị khinh dể trong đất Giu-đê.
Tại đây người yêu hạ mình, tự nhận thức mình chỉ là một người nhỏ mọn, như một
loài hoa dại-- về một mặt, sống cuộc đời xinh xắn, nhưng bị khinh dể (hoa hồng)
trong thế giới nói chung (Sharon—chữ Sharon nghĩa là “đồng bằng”), và một mặt
khác là cuộc đời thanh khiết, tin cậy (hoa huệ -lily, Mathio 6:28) trong các
chỗ thấp thỏi (các thung lũng). Chưa ai bảo đảm chữ “lily” ở đây là hoa huệ như
hoa huệ ở Việt Nam .
Hoa lily nầy cũng là hoa hoang dại.
2. “Bạn tình ta ở
giữa đám con gái, như bông huệ ở giữa gai gốc”. Đây là lời Đấng Christ đánh giá
nàng, như bạn tình của Ngài ở giữa các người nữ ngoại tình, yêu thế giới ( đám con
gái- Gia cơ 4:4 đó bảo là các tín đồ ngoại tình thuộc linh) và như là người
sống cuộc đời thanh khiết, tin cậy (hoa lily- Mathio 6:28) giữa vòng dân nhơ
nhớp và vô tín ( gai gốc). Hoa lily ở giữa đám con gái (tín đồ) và cũng sống
giữa gai gốc (người ngoại).
Minh khải 7-4-2014