V. S. Azariah: Sứ đồ cây nhà lá vườn tuyệt vời của Ấn Độ
VEDANAYAGAM SAMUEL AZARIAH sinh ngày này, 17 tháng 8 năm 1874 tại Vellalanvilai, Tirunelveli, Nam Ấn Độ. Rất ít người phương Tây đã nghe tên anh ấy. Nhưng Azariah không chỉ thành lập hai hội truyền giáo thành công để mang phúc âm đến Ấn Độ, ông không chỉ giúp mang lại sự hợp nhất của các hội thánh Tin lành ở Ấn Độ, mà ông còn phát triển một giáo phận nghèo khó từ 8.000 Cơ đốc nhân lên hơn 200.000.
Cha của Azariah là một nhà truyền giáo Anh quốc giáo và mẹ của ông là một giáo dân sùng đạo. Bản thân Azariah đã được đào tạo cho mục vụ tại Trường Cao đẳng Cơ đốc giáo Madras. Một buổi tối nọ, khi đến thăm một công việc truyền giáo ở Ceylon (Sri Lanka), Azariah vô cùng xúc động khi nghĩ đến những hồn người hư mất của Ấn Độ và công việc nhỏ bé mà các Cơ đốc nhân của chính họ đã làm giữa họ. Anh cầu nguyện và khóc dưới những vì sao. Trở lại Ấn Độ, ông đã tổ chức những người trẻ tuổi trong hội thánh vào Hiệp hội Truyền giáo Tinnevelly của Ấn Độ. Thực hiện một nghiên cứu chuyên sâu về cuộc điều tra dân số Ấn Độ năm 1901 và liên hệ với các nhà lãnh đạo của các hội truyền giáo nước ngoài, ông phát hiện ra rằng một trăm triệu người Ấn Độ đã ở ngoài tầm với của Phúc âm. Ông mời các giáo phái Tin lành của Ấn Độ thành lập một hội truyền giáo khác. Kết quả là Hội Truyền giáo Quốc gia của Ấn Độ ra đời với Azariah là tổng thư ký.
Azariah nhanh chóng bị thuyết phục rằng anh ta nên từ chức các chức vụ lãnh đạo của mình và tự mình trở thành một nhà truyền giáo. Lĩnh vực của ông là Giáo phận nhỏ ở Dornakal, một trong những vùng nghèo nhất của Ấn Độ. Mọi người sống trung bình năm xu một ngày. Khi được bổ nhiệm làm giám mục, ông là giám mục Anh quốc giáo bản địa đầu tiên ở Ấn Độ. Giáo phận của ông có tám nghìn Cơ đốc nhân, sáu mục tử Ấn Độ và một trăm bảy mươi hai giáo dân đồng nghiệp. Khi ông qua đời vào ngày 1 tháng 1 năm 1945, Dornakal có một trăm năm mươi mục tử và hai trăm ba mươi nghìn Cơ đốc nhân. Bất chấp sự thù địch cơ bản của Ấn Độ đối với Cơ đốc giáo và sự phản đối của tổng thống Gandhi đối với các nỗ lực truyền giáo Cơ đốc giáo, giáo phận Dornakal của ông trung bình có hơn ba nghìn người cải đạo được báp têmi mỗi năm. Ngạc nhiên trước sự biến đổi “không tưởng” của những người bị ruồng bỏ, hàng nghìn người Ấn độ thuộc tầng lớp cao hơn ở Dornakal cũng gia nhập hội thánh.
Azariah đã bị sốc bởi sự thiếu đoàn kết giữa tất cả các Kitô hữu và sự kiêu ngạo của các nhà truyền giáo phương Tây đối với người Ấn độ. Ông phát biểu tại hội nghị đại kết Lausanne năm 1927: “Sự hiệp nhất về mặt lý thuyết có thể là một lý tưởng mong muốn ở Châu Âu và Châu Mỹ, nhưng nó rất quan trọng đối với đời sống của giáo hội trong lĩnh vực truyền giáo. “Sự chia rẽ của các tôn giáo tự xưng theo Đấng Christ có thể là nguồn gốc của sự yếu kém ở các quốc gia theo đạo Đấng Christ, nhưng ở những nước không theo đạo Đấng Christ, chúng là một tội lỗi và một điều tai tiếng”.
Năm 1919, Azariah tổ chức Hội nghị Tranquebar. Nó đã ban hành một bản tuyên ngôn tuyên bố: “Chúng tôi tin rằng thách thức của thời điểm hiện tại và tình hình nguy cấp hiện tại ở chính Ấn Độ.. kêu gọi chúng ta than khóc những chia rẽ trong quá khứ và quay về với Chúa Giêsu của chúng ta để tìm kiếm nơi Ngài sự hiệp nhất Thân Thể được thể hiện trong một Giáo hội hữu hình. Chúng ta cùng nhau đối mặt với nhiệm vụ vĩ đại là chinh phục Ấn Độ cho Đấng Christ—một phần năm dân số của nhân loại.” Hai năm sau khi ông qua đời, nhà thờ Union được khánh thành..
Thực sự sự ra đời của Azariah là một phước lành cho Ấn Độ và giáo hội của quốc gia nầy.
—Đan Graves