| 
 (Tiểu sử cuộc đời MS Ông Văn
    Huyên theo lời kể của Mục sư Giáo sư Phạm Xuân Tín)
 
 
 Tra xem lịch sử giáo hội Cơ
    Đốc từ ngàn xưa, tất cả chúng ta đều nhìn biết Đức Chúa Trời hằng hướng
    dẩn, duy trì Hội thánh Ngài qua các thời đại. Theo chương trình và thần hựu
    không ngoan của mình, Chúa đã dùng người của Ngài một cách đúng việc và
    đúng giờ một cách hữu hiệu. Người mà Đức Chúa Trời dùng cho Hội Thánh Tin
    lành Việt nam đó là Cụ Mục sư Ông Văn Huyên Hội Trưởng Hội Thánh Tin Lành
    miền Nam Việt nam
 
 Cụ Mục Sư Ông
    Văn Huyên sinh ngày 15-01-1901 tại làng Phong Nam,
    huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam.
    Sinh trưởng trong một gia đình tiểu nông, theo nề nếp khổng giáo. Cũng như
    tất cả các gia đình Việt Nam ta xưa, các cụ không thích con, em mình cộng
    tác hay làm việc cho thực dân Pháp, vì vậy không cho con cái học Pháp Văn
    nhưng sớm cho theo đòi bút nghiên Hán Tự. Cụ thân sinh ông đã dạy cho ông
    khởi đầu học các sách vỡ lòng Tam Tự Kinh, Tứ Tự Kinh, rồi đến Tứ Thư Ngũ
    Kinh. Chẳng bao lâu, nghe tiếng một vị giáo sư biệt danh là thầy Lê Vy,
    người Đông Bàn rất thông thạo Hán văn đến đây, cả làng bèn đồng tình thiết
    lập một trường đặc biệt để con em có nơi học hành, rèn luyện, chuẩn bị ngày
    thi cử “tranh giành áo mão”. Sau vị giáo sư này lại có giáo sư Lê Xáng. Ông
    ngày còn thông thạo cả Pháp Văn, Hán Văn và Việt Van nữa. Nhơn nghe tiếng
    tăn của ông mà con em chẳng những trong làng nhưng các nơi xa hơn cũng đua
    nhau đến thọ giáo. Sau ông Lê Xáng lại có giáo sư Đỗ Hoãn (thường gọi là Ba
    Cảnh) đến, giáo sư này thông thạo Pháp Văn và giọng nói ông như một người
    Pháp. Lúc bấy giờ học sinh Ông Văn Huyên đã hjọc cao hơn nên vừa chuyên
    trách một lớp, vừa luyện thêm ngoại ngữ. Thân hào, nhân sĩ trong Tổng lúc
    bấy giờ muốn thiết lập một trường vừa bán công, bán tư tại Dương Sơn, phủ
    Điện Bàn, thầy Tư từ Quảng Trị vào làm hiệu trưởng cho trường mới. Nhiều
    thanh niên khắp nơi đỗ xô về đây để đêm ngày rèn luyện chuẩn bị thi vào
    Quốc học.
 Học sinh Ông Văn
    Huyên cũng đến nhập học ở đây một thời gian rồi từ giã đi Tourane (Đà
    Nẵng)  giữ chức Giáo Thụ ở An Hải, ở tại nhà ông Biên Duân.
 
 
 Lúc bấy giờ tại An Hải có một
    nhà giảng Tin Lành, chi nhánh của Hội Thánh Đà Nẵng. Ông Phan Đình Liệu tin
    Chúa trong tháng 10 năm 1920 và mỗi tối được cử đến chia sẻ lời Chúa và làm
    chứng Tin Lành tại nhà thờ An Hải. Ông Phan Đình Liệu cũng là một nhà nho
    uyên bác từng mang liều chõng dự thi nhiều khóa. Bởi vậy, thanh niên học
    sinh cũng như giáo thụ Ông Văn Huyên rủ nhau đến nghe ông Liệu, mục đích
    không phải để tìm hiểu đạo nhưng để tranh biện đấu khẩu và phá ông Liệu
    thôi. Họ bắt bẽ, biện luận với ông nhiều điểm. Dầu sự tranh luận với ông
    rất sôi nổi, nhiều lần gây nên sóng gió giữa hai phe vì phẫn nộ nhau, nhưng
    phần thắng không nghiêng về ai cả. Chỉ Đức Chúa Trời chân lý vững lập của
    Ngài đã đắc thắngkhải hoàn. Thánh Linh và lời Ngài đánh mạnh vào tâm linh
    nhiều người và bắt phục những tấm lòng ngỗ nghịch ấytrở lại với Ngài. Một
    đêm, vào cuối năm 1920, một lần có 8 người tin nhận Chúa trong số đó có ông
    Thủ Thừa, ông Biện Duân, Xã Trán và một số thân hào và cũng có ông 
    giáo thụ Ông Văn Huyên nữa.
 
 
 Nhận được một tấm lòng mới,
    một tâm chí mới, một khuynh hướng mới từ Đức Chúa Trời Ba Ngôi, sự vui mừng
    tràn ngập tâm linh những tín hữu mới nầy, nhất là ông giáo thụ Huyên. Tuy
    nhiên ông vẫn tiếp tục chu toàn phận sự một nhà giáo và cũng khởi sự nói về
    Chúa Jesus cho nhữngngười chưa biết Ngài. Mọi người kinh ngạc vì trước đây
    ông đã kích kịch liệt, bài bác, chống đối, tranh luân với ông Liệu biết bao
    nhiêu, thì nay lại sốt sắng nói về Chúa cho họ bấy nhiêu. Vì lời Chúa 
    há không nói sao? “Khi tôi không nói về Chúa thì lửa cháy trong lòng tôi “.
 
 
 Một đời sống bình thãn, mỗi
    ngày trôi qua như dòng nước bình lặng kể cũng dễ chịu thật, nhưng ông nhận
    thấy còn có điều gì như thiếu xót trong tâm linh mình khi tiếng gọi của
    Chúa phán với ông như đã phán gọi các Đấng tiên tri xưa: “Ta sẽ sai ai đi?
    Ai sẽ đi cho chúng ta?” hoặc ? “Ta đã gọi ngươi từ trong lòng mẹ, Ta đã
    biệt riêng ngươi từ khi ngươi chưa được sinh ra”. “Ta đã chọn ngươi để
    ngươi đi đến với dân này”. Tiếng Chúa mỗi ngày nói rõ ràng và thúc bách hơn
    nên ông không thể thối thác hay ngồi yên được. Ông bèn chuyên tân tìm hiểu
    thêm về đạo Chúa, các giáo lý. Nhưng rất tiếc vì thiếu tài liệu và sách báo
    nên không thể tự học được vã lại lúc bấy giờ cũng chưa có Thánh Kinh bằng
    Việt Ngữ nên ông chỉ xây qua Hán Tự mà thôi.
 
 
 Ông Liệu cũng cho ông biết
    tại Đà Nẵng có lớp Thánh Kinh. Lúc bấy giờ ông được 22 tuổi, nhưng tác
    người nhỏ. Ông xin đến gia nhập học lời Chúa, ông Đốc Học của trường Kinh
    Thánh nầy nhìn ông cười và đoán rằng ông chỉ 17 hay 18 tuổi thôi. Vì vậy
    chưa chịu nhận ông làm học viên chính thức mà nhận làm học viên dự bị một
    thời gian để thí nghiệm. Học viên Ông Văn Huyên cứ cần mẫn chuyên tâm đến
    học dầu chỉ là học viên dự bị. Lúc bấy giờ ban giáo sư gồm có giáo sĩ
    Irwin, Smith và Mục Sư Hoàng Trọng Thừa, và giáo sĩ Jeffrey làm đốc học.
    Các bà Irwin, Jeffrey chuyên trách dạy các nữ sinh. Như vậy, học viên Ông
    Văn Huyên theo học dự bị trường Kinh Thánh Đà Nẵng nửa khoá 1922, từ tháng
    1-5/1922, nhưng là chánh thức hai khóa 1922-1923 và 1923-1924 liên tiếp.
    Năm 1921 học viên  Ông Văn Huyên lập gia đình, vợ là Ngô Thị Huyền,
    sinh ngày 10-02-1901 tại xã Cẩm Nê, huyện Hoà Vang, tỉnh Quảng Nam. Cô
    Huyền cũng có dịp nhe Tin Lành, sớm tin nhận Chúa và học trường Kinh Thánh
    ở lớp phụ nữ với các bà Jeffrey và Irwin. Khi đã học xong chương trình 2
    năm, giáo hội bổ nhiệm ông bà Ông Văn Huyên làm truyền đạo đến Vĩnh Long mở
    mang công việc nhà Chúa. Mỗi buổi sáng ông truyền đạo đi ra phân phát lời
    Chúa. Ông bỏ sách đạo vào đầy một giỏ mây gồm các bộ ngũ kinh, các sách Tin
    Lành và sách Sứ Đồ. Sau bữa ăn sáng ông lên đường làm chứng, phân phát sách
    đạo, lúc ban đầu ông chỉ quan tâm đến những người nghèo nàn, những nhà lá
    tầm thường thôi vì nghĩ rằng những nhà giàu có không chịu nghe Đạo. Ông hơi
    ngại và lo lắng vì thành kiến nhân dân lúc ấy cho rằng Tin Lành là Đạo ngoại
    quốc. Nhưng sau khi cầu nguyện nhiều ông Truyền Đạo quyết định đi vào mỗi
    nhà trong thành phố để nói về Chúa và biếu sách đạo cho họ. Sau khi đi
    khắpp châu thành Vĩnh Long rồi thì ông có chương trình truyền Đạo Chúa ở
    thôn quê. Vì kinh tế gia đình quá eo hẹp chưa mua nỗi chiếc xe đạp nên mỗi
    ngày ông đi bộ với giỏ sách đến Tân Nghĩa xa Vĩnh Long ước độ 5 cây số để
    truyền Đạo Chúa cho đồng bào ở đây. Công cuộc truyền đạo Chúa ở thôn quê
    miền Nam rất vất vả, khó khăn vì phải vướt
    sông, rạch khá nhiều.
 
 
 Sau 2 năm tập sự thì ngày về
    trường năm tốt nghiệp sắp đến, nhưng vì không có ai đến thế nên phải ở lại
    một năm nữa và về tốt nghiệp trễ (1927-1928)
 Cụ Mục Sư Ông
    Văn Huyên hiệp với cụ Đặng Ngọc Cầu (người tốt nghiệp cùng khóa) ra đảo Lý
    Sơn, tỉnh Quảng Ngãi để phát sách Tin Lành và truyền đạo Chúa cho đồng bào.
    Cụ đã bị bắt giải giao về tỉnh Quảng Ngãi rồi đưa ra Quảng Nam xử 3 tháng tù giam. Song, sau hơn
    một tháng rưỡi bị giam giữ, chính quyền sở tại bắt đóng tiền phạt rồi tha
    về. Được giáo hội bổ nhiệmm về miền Nam, đến nhậm chức chủ tọa tại Cần Thơ
    thay cho Cụ Mục Sư Trần Dĩnh, Trong thời gian nầy Cụ đã cổ động và xây dựng
    nền móng cơ sơ nhà thờ Hội Thánh Tin Lành Cần Thơ được vững chắc còn đến
    hôm nay.
 
 
 Trước lễ kỷ niệm Chúa Giáng
    sinh năm 1928, Cụ được tấn phong Mục Sư tại nhà thờ Hội Thánh Tin Lành Vĩnh
    Long (đồng phong chức Mục Sư với 3 vị: Bùi Tự Do, Lê Đình Tươi và Huỳnh Văn
    Ngà-cũng là bạn đồng khóa tốt nghiệp). Vì lúc ấy chưa có thể lệ tốt nghiệp
    2 năm được phong chức và vì nhu cầu của Hội Thánh nên 4 anh em đồng lớp đều
    được phong chức rất sớm.
 
 
 Đến tháng 5 năm 1929 ông
    Truyền Đạo Lê Văn Ngọ đến nhậm chức vụ chủ tọa Hội Thánh Tin Lành Cần Thơ
    thay cho Mục Sư Ông Văn Huyên trở về Đà Nẵng để chuẩn bị giảng dạy tại
    trường Kinh Thánh từ năm 1929. Đến tháng 5 năm 1934 Cụ đến Huế thay cho Mục
    Sư Trần Mai. Đầu tháng 7 năm 1943, do biến cố chiến tranh Nhật-Pháp, lúc đó
    các vị Giáo Sĩ bị giữ tại Mỹ Tho, nên cụ Mục Sư Ông Văn Huyên giữ chức vụ
    quyền đốc học trường Kinh Thánh Đà Nẵng. Từ năm 1940 đến tháng 5 năm 1946
    trường Kinh Thánh tạm ngưng hoạt động, Mục Sư Nguyễn Văn Thìn đến hầu việc
    Chúa tại Hội Thánh Quế Sơn, Mục Sư Ông Văn Huyên phải thay thế chức vụ chủ
    tọa Hội Thánh Tin Lành Đà Nẵng tiếp nhận lại cơ sở nhà thờ Hội Thánh Tin
    LÀnh bị chiếm dụng làm kho.
 
 
 Cụ đã tiếp tục hầu việc Chúa
    tại Hội Thánh Tin Lành Đà Nẵng. Tháng 8 năm 1948 trường Kinh Thánh tái hoạt
    động, Cụ trở lại và giữ chức vụ đồng Đốc Học với cụ J.D.Olsen. Qua năm sau,
    cụ J.D. Olsen đắc cử chức vụ Hội trưởng Hội truyền giáo, nên cụ Mục Sư Ông
    Văn Huyênchính thức giữ chức vụ Đốc học. Đến năm 1958, cụ vào Nha Trang họp
    với Mục sư Lê Văn Thái (lúc đó là Hội trưởng HTTL VN) và Mục Sư Duy Cách
    Lâm để tạo mãi sở đất hơn 10 mẫu, chuẩn bị phát dọn đồi Hòn Chồng (Nha
    Trang) để xây cất cơ sở Thánh Kinh Thần Học Viện Tin Lành Nha Trang. Tháng
    5 năm 1960, trường Kinh Thánh Đà Nẳng được dời hẵn vào Nha Trang. Thánh
    Kinh Thần Học viện Tin Lành Nha Trang khai giảng niên khóa đầu tiên
    1960-1961. Năm 1961 hoàn tất việc xây dựng cơ sở Thánh Kinh Thần Học Viện
    Tin Lành Nha Trang, gồm có : 1 nhà  thờ, 1 giảng đường, 6 tư thất cho
    các giáo sư, 1 tư thất cho viện trưởng , 2 cư xá hai tầng dành cho sinh
    viên học sinh nội trú với sức chứa 200 người và một số tiện nghi khác.
 
 
 Gần cuối niên khóa 1974-1975,
    TP Nha Trang được giải phóng, Thánh Kinh Thần Học Viện tiếp tục hoạt động
    niên khóa 1975-1976 và cuối khóa học nầy Thánh Kinh Thần Học Viện Tin Lành
    Nha Trang ngưng hoạt động cho đến nay.
 Sau đó Cụ bước
    vào một chức vụ mới. Đại Hội Đồng ToÅng Liên Hội được tổ chức trong 3 ngày
    14, 15 và 16/06/1976 và cụ Mục Sư Ông Văn Huyên đã đắc cử chức vụ Hội
    Trưởng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (miềnNam).
    Trong đại hội, cụ đã phát biểu:”Mỗi tín hữu tốt phải là một công dân tốt”.
    Để hoàn thành nhiệm vụ Chúa giao phó ngày 09/08/1976 Cụ Mục Sư Hội Trưởng
    đã chuyển hộ khẩu thường trú từ Nha Trang đến cơ sở nhà thờ Hội Thánh Tin
    Lành số 7 Trần Cao Vân, quận 1, TP Hồ Chí Minh.
 
 
 Tiếp đó, vì Mục Sư Phạm Văn
    Thâu (Chủ nhiệm Địa Hạt Đông Nam Bộ kiêm chủ tọa Hội Thánh Sài Gòn) xuất
    cảnh đoàn tụ gia đình tại Canađa, cụ Mục Sư Hội Trưởng di chuyển đến tư
    thất Hội Thánh Sài Gòn số 161 đường Đề Thánh, quận 1, TP Hồ Chí Minh để
    nhận trách nhiệm Chủ Nhiệm Địa Hạt Đông Namn Bộ và Chủ Tọa Hội Thánh Sài
    Gòn.
 
 
Để Hội Thánh Sài
    Gòn được phát triển thuận lợi hơn, cụ đã thôi giữ chức vụ Chủ Tọa Hội
    Than1h Sài Gòn và bàn giao cho ông Mục SƯ Nguyễn Than2h Sơn (Nghị viên Địa
    hạt Đông nam bộ), cụ dành trọn thì giờ để chu toàn chức vụ Hội Trưởng kiêm
    chủ nhiệm Địa Hạt Đông Nam Bộ. Mục Sư Hội Trưởng cùng cụ bà và gia quyến
    chuyển đến tại cơ sở Tổng Liên Hội số 155 Trần Hưng Đạo, quận 1, TP Hồ Chí
    Minh cho đến nay.
 
 
 Cụ Mục Sư Ông Văn Huyên còn
    tham gia nhiều công taác lớn lao khác như:
 •          
    Sáng lập và duy trì Quỹ Dưỡng Lão Mục Sư –Truyền Đạo
 •          
    Nhuận chánh kinh Thánh tân ước
 •          
    Tái tu chính điều lệ Hội Thánh Tin Lành Việt Nam
 •          
    Soạn lời một số Thánh Ca
 •          
    Và cũng là nhà thơ để lại nhiều tuyệt tác ca ngợi tình yêu Thiên Chúa,
    đlồng cảm với bạn hữu và ạ ơn Chúa về những tháng ngày trên đất.
 Lúc 77 tuổi, Cụ
    giải phẩu vì bệnh mắt cườm, cho đến năm 1986 Cụ Khiếm thị hoàn toàn. Tuy
    nhiên, Cụ vẫn trông cậy Chúa để nhịn nhục đủ điều, chịu đựng suốt 13 năm
    trong hoàn cảnh thật là khó khăn để vâng phục Chúa và phục vụ người.
 Cụ đã cảm tác:” Mù nhờ Chúa dắt băng đồi núi.
 Sáng để Ma
    đưa xuống hố hầm”
 
 
 Cụ Mục Sư Hội Trưởng Ông Văn Huyên đã lãnh đạo Hội Thánh Tin Lành Việt Nam trong suốt 23 năm qua. Cụ Mục Sư
    Hội Trưởng khao khát đời sống tận hiến cho Chúa, với quyết tâm được Chúa
    cho hưu trongnước Ngài, Cụ không nghĩ đến việc hưu hạ trên đất. Đức Chúa
    Trời ban thưởng để Cụ được thỏa nguyện. Cụ Mụa Sư Ông Văn Huyên đã tận tụy
    hầu việc Chúa đến hơi thở cuối cùng.
 
 
 Trong giờ phút tạm biệt đầy vinh hiển và vô cùng phước hạnh. Trước sự chứng
    kiến của nhiều người cháu thương yêu luôn túc trực bên cạnh Cụ còn có tôi
    tớ Chúa là Mục Sư Đặng Thiên Aân (Chánh Văn Phòng Tổng Liên Hội), trong giờ
    phút trang trọng đó gia đình hiệp ý với Mục Sư Đặng Thiên Aân trong sự cầu
    nguyện. Đẹp ý Chúa sau lời cầu nguyện, Cụ Mục Sư Ông Văn Huyên, Hội Trưởng
    Hiội Thánh Tin Lành Việt Nam Miền Nam đã về nước Chúa cách bình an vui thỏa
    lúc 7 giờ 10 sáng thứ hai ngày 26/07/1999. Hưởng thọ 98 tuổi.
 
Cụ Mục Sư Ông Văn Huyên đã tạm biệt toàn thể Mục Sư, Truyền Đạo và Tín Hữu
    cùng gia đình để đi vào nơi ở của Chúa, nơi vinh hiển vĩnh phúc mà Chúa
    dành cho những người thuộc về Ngài. Sự tạm biệt đầy ý nghĩa, đúng với tâm
    nguyện của Cụ lúc nhận chức Hội Trưởng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam Miền Nam,
    Cụ nguyện làm “Người lính canh trông đợi sáng” (Thithiên 130:6). Cụ đã thấy
    được bình minh tươi sáng. Cụ “đã đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, đã
    giữ được đức tin..” (II Timôthê 4:7). Cụ Mục Sư Ông Văn Huyên “đã tôn vinh
    Cha trên đất, làm xong việc Chúa giao phó.” (Giăng 17:4).
 
 (TNPA)
 |