1-Đức Chúa Trời ăn năn?
--Câu Hỏi: 1Sa-mu-ên 15 có chép Đức Chúa Trời “không
phải loài người mà ăn năn" (câu 29) và sau đó lại nói "Đức Giê-hô-va
ăn năn đã lập Sau-lơ làm vua" (câu 35). Đây có phải là sai lầm của người dịch
kinh thánh không?
--Trả Lời: Cảm ơn bạn đã chia sẻ với chúng tôi
thắc mắc của bạn. Chúng tôi xin được giải đáp thắc mắc đó như sau:
Thắc mắc của bạn cụ thể xuất phát từ hai câu của
cùng một đoạn Kinh Thánh "Ta hối hận vì đã lập Sau-lơ làm vua; bởi người
đã xây bỏ Ta, không làm theo lời Ta. Sa-mu-ên buồn rầu, kêu cầu cùng Đức
Giê-hô-va trọn đêm" (1 Sa-mu-ên 15:11). "Vả lại, Đấng phù hộ
Y-sơ-ra-ên chẳng nói dối, và không ăn năn; vì Đấng ấy chẳng phải loài người mà
ăn năn!" (1 Sa-mu-ên 15:29) "Sa-mu-ên chẳng còn thấy Sau-lơ nữa cho đến
ngày mình thác….; còn Đức Giê-hô-va ăn năn đã lập Sau-lơ làm vua của
Y-sơ-ra-ên." (1 Sa-mu-ên 15:35 ).
Giô na 3: 9,10 chép “Ai biết rằng hoặc Đức Chúa
Trời sẽ không xây lại và ăn năn, xây khỏi cơn nóng giận mình, …hay sao? Bấy giờ
Đức Chúa Trời thấy việc họ làm đều đã xây bỏ đường lối xấu của mình; Đức Chúa
Trời bèn ăn năn sự họa mà Ngài đã phán sẽ làm cho họ, và Ngài không làm sự đó”.
Chữ “ăn năn” trong sách Giô na có nghĩa
“đoái tiếc, khuây lãng” – “Đức Giê-hô-va lại phán: Ngươi đoái tiếc một dây mà
ngươi chưa hề khó nhọc vì nó, .. Còn ta, há không đoái tiếc thành lớn Ni-ni-ve…” (Giô na
4 :10-11).
Tất cả các chữ “ăn năn” và “hối hận” ở trên đều
xuất phát từ một chữ duy nhất trong nguyên ngữ Hê-bơ-rơ là nacham. Chữ này
trong tiếng Hê-bơ-rơ có ba nghĩa: 1) thở dài, hối tiếc 2) an ủi, giải khuây 3)
ăn năn hối lỗi. Theo đó, chúng tôi tin rằng theo ngữ cảnh ở đây, chữ "hối
hận" và “ăn năn” trong câu 1 Sa 15: 11 và 35 đều mang ý nghĩa thứ nhất và
có thể dịch là "buồn lòng" hay "hối tiếc", còn chữ nầy
trong Giô na 3: 9-10 mang ý nghĩa thứ hai “giải khuây”, mà không phải là "ăn năn" theo ý
nghĩa là "hối lỗi". Ngược lại, chữ đó trong câu 29 của 1 Sa mu ên 15
lại mang nghĩa thứ ba là "ăn năn hối lỗi". Theo đó, câu 29 khẳng định
rằng Đức Chúa Trời không phải là con người để sai lầm mà phải "ăn
năn" theo kiểu hối lỗi. Trong sự toàn tri của Ngài, Đức Chúa Trời đã biết
trước hết mọi sự, Ngài biết Sau-lơ sẽ phạm tội cùng Ngài. Sự phạm tội của
Sau-lơ không phải là điều bất ngờ cho Đức Chúa Trời đến nỗi Ngài phải hối hận
vì đã lập Sau-lơ lên làm vua. Chẳng phải ban đầu Sau-lơ có vẻ tốt nên Đức Chúa
Trời lập ông làm vua rồi sau ông lại phạm tội nên Đức Chúa Trời hối tiếc việc đó
mà ăn năn (hối tiếc) sao?. Đúng hơn, tại đây Kinh Thánh dùng một khái niệm theo
cảm xúc của con người để chúng ta hiểu được: Đức Chúa Trời đau lòng hay buồn rầu
trước tội lỗi của Sau-lơ. Điều này cũng giống như chúng ta có con, chúng ta biết
rằng con của mình là một đứa trẻ hư hỏng và nó sẽ phạm lỗi. Chúng ta không ngạc
nhiên khi nó phạm lỗi, nhưng chúng ta vẫn có thể cảm thấy buồn lòng trước tội lỗi
của nó.
-
2. Huyết Lang
--Câu Hỏi: Trong Xuất Ê-díp-tô Ký 4: 24-26, tại sao Đức
Chúa Trời lại muốn giết Môi-se? Làm thế nào ông giải thích "một người chồng
huyết"?
--Trả Lời: Môi-se sắp sửa đại diện cho luật pháp, làm nhà
giải phóng dân tộc nhưng hai người con trai của ông, lúc đó có thể vào khoảng trên 30 tuổi, mà vẫn
chưa cắt bì. Để theo đúng luật pháp, ông phải làm điều này.
Khi sống bên vợ, dường như Môi-se không có quyền
cắt bì cho con mình. Nên Đức Chúa Trời hiện ra như có vẻ muốn giết Môi-se để ép
buộc vợ ông cho ông cắt bì cho con. Câu 26 cho chúng ta biết ý nghĩa của một
người chồng máu. Tay ông bị nhuộm máu khi cắt bì cho con mình. Đây là lý do tại
sao ông được gọi là một người chồng máu, huyết lang.
-
3- Thân Thể Của Môi-se
Câu hỏi: Ý nghĩa của việc thiên sứ
tranh giành thân thể Môi-se với sa-tan trong Giu-đe 9 là gì?
Trả lời: Điều này xảy ra sau cái chết và việc Chúa chôn cất Môi-se (Phục truyền 34: 8, 6). Phục truyền 34: 6 dường
như chỉ ra rằng Môi-se không ở lâu trong
mồ mả của mình . Không
có lối đi nào khác có thể được liên kết với địa điểm này. Bản thân tôi tin rằng
chỉ có sự biến hình trên núi trong Ma-thi-ơ 17 có liên quan đến điều này. Trên
thực tế, đây là sự cố duy nhất được ghi lại sau cái chết của Môi-se. Sa-tan muốn
ngăn cản Môi-se xuất hiện trên núi hóa hình với Chúa Jesus. Do đó, thiên sứ trưởng
Mi-ca-ên tranh đấu với anh ta, theo bản chất công việc của mình, mà sách
Đa-ni-ên 12: 1-2 cho thấy thì thân thể tín đồ liên hệ với sự sống lại.
-
4. Đất Hứa Ca-na-an Là Thiên Đàng?
--Câu Hỏi: Thưa ông, có mấy bài thánh ca hát rằng
vào Ca na an là vào thiên đàng, qua sông Giô đanh là vượt qua sự chết. Vậy xứ
Ca- na- an có tượng trưng thiên đàng không? Thánh ca số 51 của HTTLVN có câu: “Lúc chân
tôi sắp phải qua Giô-đanh, Nguyền tôi khỏi tán đảm khiếp can, Dắt tôi qua dòng
nước tuôn mạnh, Dìu tôi bước lên Ca-na-an, Chính lúc đó tôi ca vang thiên
thành….”. Lời ca nói rõ rằng sau khi vượt qua tử hà, là sông Giô-đanh, tín đồ sẽ
vào thiên đàng phải không?
--Trả Lời: Đất hứa Ca-na-an không thể là thiên
đàng, vì sau khi vào đó dân Y-sơ-ra-ên còn đánh nhau với kẻ thù. Trên thiên
đang còn chiến tranh sao? Cho nên xứ Ca-na-an không bao giờ có thể tượng trưng
cho thiên đàng. Đất Ca-na-an tiêu biểu cho hai điều như sau:
-& Bình diện thuộc linh đồng ngồi với Chúa
trên trời, chế phục và chinh phục kẻ thù, như dân Y-sơ-ra-ên do Giô-suê lãnh đạo
vào chinh phục quân thù vậy. Sách Ê-phê-sô giải luận địa vị thuộc linh, thuộc
thiên đó của những tín đồ trưởng thành hôm nay.
-& Sự an nghỉ trong nước ngàn năm của Đấng
Christ dành cho những tín nhân đắc thắng. Hơm 600 ngàn người namY-sơ-ra-ên ra khỏi Ai cập mà chỉ có hai người vào
Ca-na-an là Giô-suê và Ca-lép, thì cũng vậy hàng triệu người được kêu gọi cứu rỗi
mà có rất ít người được chọn vào nước ngàn năm an nghỉ và cai trị với Chúa.
Sách Hê-bơ- rơ 3 và 4 giải luận sự an nghỉ trong vương quốc nầy.
Hôm nay tín đồ nào kinh nghiệm được địa vị ngồi trên trời với Đấng Christ thì được coi
như là đã vào đất Ca-na-an. Ngày mai, ai
được vào vương quốc ngàn năm của Chúa Jesus thì kể là vào đất hứa Ca na an nghỉ
ngơi đó.
-
5. Giê-cô-nia (Giê-hô-gia-kin)
-Câu Hỏi: Đức Giê-hô-va hứa với Đa-vít rằng
Ngài sẽ thiết lập vương quốc của ông mãi mãi, rằng ngai vàng của ông sẽ được
thiết lập mãi mãi (2 Sa-mu-ên 7). Đức Chúa Trời chỉ muốn thực hiện lời này
trong Đấng Christ (Công vụ 13:23; Ma-thi-ơ 2: 5-6). Sau đó, Đa-vít đã đưa ngọc
tỉ của vương quốc cho con trai ông,
Sa-lô-môn, người kế vị ông trên ngai vàng của ông với tư cách là vị vua chân
chính (1 Các vua 1- 2). Nếu như vậy,
ngai vàng của Sa-lô-môn nên tiếp tục cho đến Đấng Christ theo lời hứa của Chúa.
Tuy nhiên, như chúng ta thấy trong Giê-rê-mi 22:30, vì Giê-cô-nia phạm tội, Đức
Giê-hô-va đã cắt đứt hậu tự của ông và không cho phép ông làm vua ngồi trên
ngai vàng của Đa-vít! Vậy thì hậu duệ của ông, Chúa Jêsus, làm thế nào sẽ ngồi
trên ngai vàng của Đa-vít?
--Trả Lời: Vấn đề này cho thấy rằng Chúa Jêsus phải được
sinh ra qua trinh nữ Ma-ri. Không có nghĩa là Giê-cô-nia không có con trai. Giê-rê-mi
22 chỉ nói rằng các con trai của ông không thể làm vua. Ma thi ơ 1:12 thậm chí
còn nói rằng ông đã sinh ra Sa-la-thi-ên. Ma-thi-ơ 1: 12- 16 chép rất kĩ lưỡng,
"Giê-cô-nia sanh Sa-la-thi-ên, Sa-la-thi-ên sanh Xô-rô-ba-bên, Xô-rô-ba-bên sanh A-bi-út, A-bi-út sanh Ê-li-a-kim,
Ê-li-a-kim sanh A-xô, A-xô sanh Sa-đốc, Sa-đốc sanh A-chim, A-chim sanh
Ê-li-út, Ê-li-út sanh Ê-lê-a-xa, Ê-lê-a-xa sanh Ma-than, Ma-than sanh Gia-cốp, Gia-cốp sanh Giô-sép là chồng của Ma-ri, còn
Ma-ri thì sanh Jêsus, gọi là Christ". Như vậy Đấng Christ không được
Giô-sép sinh ra. Giô-sép là hậu duệ của Giê-cô-nia (Ma-thi-ơ 1: 12-16), nhưng
Chúa Jêsus không phải là hậu duệ của Giô-sép. Do đó, Ngài không phải là hậu duệ
của Giê-cô-nia, cho dù như thế Ngài có thể ngồi trên ngai vàng của Đa-vít, vì bà
Ma-ri là hậu tự Na-than, con của vua Đa-vít, do Bát-sê-ba sinh ra chung với
Sa-lô-môn (Lu ca 3:23,31). Nếu theo lời những nhà Tân phái, Chúa Jêsus đã được
Giô Sép sinh ra, thì họ sẽ không có quyền gọi Ngài là Đấng Christ.
-
6- Sách Ê-xơ-tê
--Câu hỏi: Tại sao sách Ê-xơ-tê không đề cập đến
Danh của Đức Chúa Trời?
--Trả Lời: Tất nhiên, đây là nền tảng cho các
nhà phê bình cao hơn chỉ trích sách Ê-xơ-tê.
Nhưng tôi sẽ trích dẫn lời của tiến sĩ
Gaebelein, "Mặc dù Danh của Đức Chúa Trời không có ở đây, nhưng chính Đức
Chúa Trời có ở trong cuốn sách nhỏ này. Chúng ta thấy Ngài bày tỏ trong nhiều
lãnh vực. Chúng ta thấy Ngài thể hiện trong sự sắp xếp của Ngài và quyền năng của
Ngài trong việc giao phó và bảo quản dân tộc giao ước của Ngài. Mặc dù dân của
Đức Chúa Trời không trung thành, Ngài đã vẫn trông nom và chăm sóc họ. Ngài đã
phá hủy âm mưu của kẻ thù. Đúng là họ đã không kêu cầu Ngài, nhưng ân điển vô
song của Ngài đã được thể hiện cho họ. Dù không đề cập đến Danh của Đức Chúa Trời,
sách Ê-xơ-tê cho thấy sự cai trị của Đức Chúa Trời".
Giáo
sư Cassel nói, "Cuốn sách này được một người Do Thái viết gởi cho tất cả
dân Do Thái ở rải rác tất cả các tỉnh của đế quốc Ba Tư. Nó ghi lại tối thượng quyền
của Đức Chúa Trời đã giải cứu dân của Ngài khỏi sự khốn khổ không thể tránh khỏi
qua bàn tay thần kỳ. Cuốn sách này không có mục đích nào khác ngoại trừ điều
này; không phải để ghi lại các sự cố khác. Tất nhiên, cuốn sách này cũng mô tả
cho chúng ta thấy cuộc sống trong cung điện Ba Tư, mà chúng ta không thể tìm thấy
được ghi lại ở bất cứ nơi nào khác". Ông Gaebelein cũng nói, "Cuốn
sách này chỉ ra một thực tế rằng sau khi dân Do Thái đã rời bỏ quê hương của họ
và về mặt bên ngoài họ không có gì liên quan với Đức Chúa Trời, nhưng Đức Chúa
Trời vẫn nhân từ với họ. Sự chấm dứt mối liên hệ bên ngoài nầy có thể là lí do cho
sách Ê-xơ-tê tránh ghi Danh của Đức Chúa Trời".
-
7. Những Ai Là Kẻ Trộm Cướp?
--Câu hỏi: Trong Giăng 10 Chúa phán: “Hết thảy
những kẻ đã đến trước Ta đều là quân trộm, kẻ cướp”. Kẻ trộm và tên cướp là ai?
--Trả lời: Chúa Jêsus không đề cập đến các tiên
tri thời xưa. Từ ngữ này ám chỉ đến những thầy thông giáo, là những người đã kiểm
soát tư tưởng dân Do Thái trong bốn trăm
năm, kể từ khi chấm dứt chức vụ của các tiên tri Cựu ước, là những người đã nói
tiên tri qua sự cảm thúc về Đấng Christ.
Thời xưa chưa có máy in, nên các thầy thông
giáo nầy làm kí lục sao chép Kinh thánh trên da bò hay trên giấy chỉ thảo để
cung cấp cho các nhà hội Do Thái giáo.. Những thầy thông giáo này không được Đức
Chúa Trời sai đến, nhưng đã tự mình giảng dạy. Các tiên tri đến trước các thầy
thông giáo, trong khi các thầy thông giáo đến trước Đấng Christ. Chúa không lên
án các tiên tri. Ngài ám chỉ những thầy thông giáo như những tên trộm và kẻ cướp,
bởi vì họ đã đánh cắp và cướp bóc bầy chiên của Đức Chúa Trời để làm cho chiên
lắng nghe chính họ.
-
8. Lộng Ngôn Với Thánh Linh-
--Câu Hỏi: Lời giải thích của Ma-thi-ơ 12: 31-32 là gì?
Lý do đằng sau những lời đó là gì? Xin hãy hướng dẫn tôi. “Vì cớ ấy Ta nói cùng
các ngươi, mọi tội lỗi và lộng ngôn đều sẽ được tha cho loài người, song sự lộng
ngôn với Thánh Linh thì sẽ chẳng được tha đâu.
Hễ ai nói lời nghịch cùng Con người thì được tha; song hễ ai nói nghịch
cùng Thánh Linh, thì dầu đời nầy hay đời sau cũng chẳng được tha”.
--Trả lời: Tội lỗi bằng cách phỉ báng Đức Thánh
Linh khiến con người tự làm cứng lòng mình khi họ đã biết (câu 27) rằng chính
Chúa Jêsus đã đuổi quỷ bởi Đức Thánh Linh (câu 28), nhưng họ nói rằng Ngài đuổi
quỷ bởi người cai trị (chúa) các quỷ (câu 24). Tội lỗi này chỉ xảy ra trong những
ngày đó. Chúa Jêsus đến thế giới để cứu loài người; tất cả tội lỗi chống lại
Ngài và mọi tội lỗi khác đều có thể được tha thứ. Nhưng những người đã phỉ báng
Đức Thánh Linh, những người cố ý không tin tưởng khi có bằng chứng rõ ràng, và
những người nói những lời báng bổ thì lòng họ cứng rắn đến mức không thể ăn
năn. Như vậy, tội lỗi của họ vẫn còn và không thể được tha thứ.
-
9. Tiền Lương Cho Các Thầy Giảng-
--Câu Hỏi: Có phải không đúng kinh thánh khi các giảng sư
nhận tiền lương cố định chăng? Làm sao ông tin cậy Chúa trong chức vụ rao giảng
của ông? Chúa cung ứng nhu cầu của ông như thế nào? Kinh nghiệm của ông là gì?
Hãy chia sẻ với chúng tôi để chúng tôi có thể bước theo. Nếu tôi không có đủ đức
tin, tôi có thể tiến hành kinh doanh, về một mặt, và đồng thời giảng đạo được không?
--Trả lời: Cả trong Cựu Ước hay trong Tân Ước, không có một
điều là tôi tớ của Đức Chúa Trời nhận đồng lương cố định. Ngay cả các thầy tế lễ
trong Cựu Ước đều sống nhờ vào bàn thờ. Nếu người Y-sơ-ra-ên nổi loạn, các thầy
tế lễ sẽ bị đói. Các sứ đồ là những người không có vàng và bạc (Công-vụ 3: 6). Chúng ta cần tự hỏi mình là tôi tớ của Ai?. Nếu
chúng ta là những đầy tớ của Đức Chúa Trời, chắc chắn chúng ta phải xin Đức
Chúa Trời ban tiền lương cho chúng ta. Nếu không làm như vậy, chúng ta nên xin
người ta hoặc tổ chức giáo hội ban cho mình tiền lương mà thôi.
Thật
không thuận tiện cho tôi đi vào kinh
nghiệm cá nhân của mình ở đây. Nhưng có một điều tôi có thể nói: trong nhiều năm
qua, tôi chỉ tin cậy Đức Chúa Trời và chưa bao giờ gặp sự thiếu thốn nào. Không
có dư thừa, nhưng cũng không thiếu. Bánh ma-na từ trời đến mỗi ngày, và không
bao giờ thiếu nguồn cung cấp. Con quạ của Cha bay khắp nơi, và nó vẫn đến dù không
được mời.
Trên
thực tế, việc tiến hành kinh doanh và rao giảng đồng thời tốt hơn làm một người
giảng đạo được trả lương. Nhưng đó sẽ là một điều đáng tiếc nếu bất cứ ai chọn
để làm điều đó vì thiếu niềm tin. Lệnh của Đức Chúa Trời là chúng ta tin cậy
nơi Ngài. Điều chúng ta cần hỏi là liệu Đức Chúa Trời có kêu gọi chúng ta làm
công việc rao giảng hay không. Nếu Ngài có kêu gọi, Ngài phải chịu trách nhiệm
về nguồn cung cấp của chúng ta. Nước ở sông Giô-đanh không rẽ ra trước tiên để
lộ mặt đất khô. Thay vào đó, bạn phải đặt bàn chân của mình trước tiên, trước khi nước sông rẽ ra. Bí quyết trong con đường đức tin là tin cậy vào một
mình Đức Chúa Trời và không phải lo lắng về ngày mai. Miễn là ngày nay được
chăm sóc, chúng ta có thể ca ngợi Chúa. Không cần phải lo lắng về ngày mai,
tháng sau, năm tới, hay mười năm nữa. Nếu chúng ta lo lắng về những điều này,
chúng ta sẽ sợ hãi. Chúng ta nên tin cậy vào Đức Chúa Trời từng ngày.
Một điều làm tôi đau buồn hôm nay là quá ít tín
đồ tiếp nhận được câu trả lời cho những lời cầu nguyện của họ. Có lẽ vì họ cầu
nguyện quá ít. Có vẻ là một sự hiếm hoi khi nhận được câu trả lời cho những lời
cầu nguyện và dường như là điều bình thường với chúng ta khi không có được câu
trả lời cho lời cầu nguyện! Chúng ta nên học biết Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời
nên có cơ hội để chứng minh cho chúng ta thấy Ngài thực hữu như thế nào và lời
hứa của Ngài thiết thực như thế nào. Chúng ta nên thấy rằng tấm lòng của Đức
Chúa Trời và bàn tay của Ngài cũng dành cho chúng ta.
-
10- Bên Dưới Đất:
--Câu hỏi: Cụm từ “bên dưới đất” trong Phi-líp
2:10 có nghĩa là gì? Nó giống như lời giải thích trong 1 Phi-e-rơ 3:19 hay
không?
--Trả Lời: Âm phủ ( hades)
trong đó Lạc viên (paradise) là một phần, đều nằm dưới đất. Chúng ta có
những câu sau đây để chứng minh điều đó: Công-vụ 2:31 so với Ma-thi-ơ 12:40;
Dân số 16: 30-33. Hầm tối (Tartarus) trong 2 Phi-e-rơ 2: 4) có nghĩa là
hố sâu nhất. Đương nhiên, nó cũng ở dưới đất. Vực sâu không đáy cũng ở dưới đất
(Khải huyền 9: 1-2). Cho nên Phi-líp 2:10 có nghĩa là Chúa Jêsus là Chúa trên mọi
sự trên trời, trên đất, và bên dưới đất, vì có một thế giới thuộc linh ở dưới đất.
-
11- Sự Sống Lại Của Các Thánh Đồ:
--Câu Hỏi: Ngày nay những tín đồ đã ngủ trong Chúa lên
thiên đàng trực tiếp, hay họ chờ đợi trong Âm phủ (Hades) cho đến khi Chúa tái
lâm?
--Trả Lời: Họ chưa lên thiên đàng. Điều này cũng đúng với
các thánh đồ trong Cựu ước (Giăng 3:13- “Chẳng từng có ai lên trời, trừ ra Đấng
từ trời xuống, tức là Con người vẫn ở trên trời”). Họ chờ đợi trong âm phủ
(Hades) - trong phần Lạc viên (Paradise)- cho đến khi Chúa đến. Do đó, từ ngữ sống lại
trong tương lai của các thánh đồ được dịch theo nguyên văn của Kinh Thánh là (to
raise up” "dấy lên". Sống lại
là được "dấy lên", mà dấy lên từ đâu, tức là phải dấy lên từ bên dưới.
Vậy, hiện nay thánh đồ đang ở trong Âm phủ (Hades).
-
12- Bắt Giữ Các Phu Tù:
--Câu hỏi: Xin ông giải thích Ê-phê-sô 4: 8-10?–
“Cho nên có phán rằng: “Khi Ngài lên nơi cao thì dẫn theo những kẻ bị bắt làm
phu tù, Và ban ân tứ cho loài người.” (Vả, đã rằng “Ngài lên,” há chẳng phải có
nghĩa là Ngài cũng đã xuống trong các miền thấp dưới đất sao? Đấng đã xuống chính là Đấng đã lên trên cả các
từng trời để làm cho đầy dẫy mọi sự)”.
--Trả Lời: Trong câu trước, Phao-lô đang nói về
ân tứ của Chúa Jêsus. Bây giờ ông muốn cho thấy rằng Chúa là Đấng Ban Cho ân tứ,
và những ân tứ dành cho con người. "Khi Ngài lên cao, Ngài đã dẫn kẻ câu
lưu những người bị câu lưu" (nguyên văn). Chúa Jêsus câu lưu Ai? Kẻ câu lưu
người ta là Sa-tan, rồi Chúa Jesus câu lưu hắn (Hê-bơ-rơ 2:14; Cô-lô-se 2:15). Thời Cựu ước,
khi các tín đồ đã chết, họ bị quỷ dữ giam giữ. Đây là ý nghĩa của việc bị giam
giữ, câu lưu. Do đó, ma quỷ được gọi là "kẻ bắt giữ loài người". Nhưng khi Chúa Jêsus sống lại và thăng thiên,
Ngài bắt được Sa-tan là kẻ bắt người ta, do đó cho phép các thánh đồ, mặc dù còn
ở âm phủ, còn ở lạc viên (Hades), được thoát khỏi quyền năng của ma quỷ.
Đây là lý do tại sao: (1) cổng âm phủ sẽ không thắng nổi hội thánh, (2)
chìa khóa của âm phủ nằm trong tay Chúa, và (3) Âm phủ trở thành lạc viên
(paradise) cho các thánh đồ (Luca 23:43)). Ma–thi-ơ 27: 52-53 là bằng chứng về điều này. "Và đã
ban ân tứ cho loài người". Trước khi Đấng Christ sống lại và thăng thiên,
Ngài không ban ân tứ cho loài người. Trước hết Ngài mở cuộc chiến tranh, rồi Ngài
thắng trận . Những món quà này là những ân tứ của Đức Thánh Linh được đề cập
trong Ê-phê-sô 4:11. Ngài đã chết, Ngài đoạt chiến thắng, và Ngài ban ân tứ cho
loài người. Nhưng Ngài "lên" từ đâu? Trước tiên, Ngài "đã xuống
trong các miền thấp dưới đất". Ngài đã qua đời, xuống âm phủ, chiến thắng Sa-tan
và quyền năng của sự chết; rồi Ngài lên cao. "Đấng đã xuống chính là Đấng
đã lên trên cả các từng trời".
Đấng ngự xuống cũng là Đấng đã thăng thiên. Mục
đích của Ngài khi làm tất cả những điều này là gì? Đó là vì mục đích là Ngài sẽ
"làm cho đầy dẫy mọi sự". Khi Ngài giáng xuống, Ngài đã chiếm được tất
cả mọi sự dưới đất; khi Ngài thăng thiên, Ngài đã chiếm hữu các từng trời. Ý
nghĩa của toàn bộ đoạn văn là vì Chúa Jêsus đã chết, sống lại, lên cao, chiến
thắng kẻ thù, và làm đầy dẫy mọi thứ, nên Ngài có thể ban ân tứ cho con người.
Những lời này là trích dẫn của Thi thiên 68: 18-19. Ngài phải lên cao để câu
lưu kẻ thù trước khi Ngài có thể ban ân tứ cho loài người. "Kẻ phản nghịch"
trong Thi-thiên 68:18, ám chỉ người Do Thái. Bởi vì phần thứ hai của câu này
không liên quan gì đến người ngoại, sứ đồ Phao-lô chỉ trích dẫn nửa phần đầu của
câu này. Trong Ê-phê-sô 4: 9 và 10 sứ đồ Phao-lô chứng minh rằng Chúa Jêsus là
Đấng đã thăng thiên và là Đấng bắt giữ kẻ bắt giữ người phu tù.
Châu Quân sưu tầm và biên soạn
6-12-2018