Ê-sai 41:14 "Hỡi sâu bọ Gia-cốp, đừng sợ! Hỡi
những người Y-sơ-ra-ên, Chính Ta sẽ giúp đỡ con, Đức Giê-hô-va phán vậy; Đấng cứu
chuộc con là Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên”.
Đó là một lời hứa tuyệt vời kết hợp với một cách
nói chuyện không tâng bốc. Gia-cốp
(nghĩa là dân Israel) được gọi là một con sâu. Chữ “Worm” có thể dịch al2 : giun, trùng, sâu bọ…
Sâu bọ thì nhỏ và thấp hèn. Đó là mối liên hệ
rõ ràng nhất được rút ra trong Ê-sai 41:14 giữa Israel và con sâu. Trong chính
họ, con cái Israel không có quyền lực hay vinh quang. Họ sẽ bị các quốc gia
khác chà đạp dễ dàng như mọi người sẽ chà đạp một con sâu, con trùng. Nhưng Đức
Chúa Trời hứa ban sự giải thoát cho dân của Ngài, bảo vệ khỏi kẻ thù của họ và sự
chiến thắng cuối cùng. “Đừng sợ vì Ta ở với con, Chớ kinh khiếp vì Ta là Đức
Chúa Trời của con! Ta sẽ làm cho con mạnh mẽ; phải, Ta sẽ giúp đỡ con, Dùng tay
phải công chính của Ta mà nắm giữ con” (câu 10). Kẻ thù của Israel sẽ bị tiêu
diệt: “Nầy, mọi kẻ nổi giận cùng con Sẽ hổ thẹn và bị sỉ nhục. Những kẻ nổi lên
chống nghịch con Sẽ trở nên hư không và bị diệt vong” (câu 11). Mặc dù họ là một
con sâu đơn thuần, một biểu hiệu không đáng kể, Đức Chúa Trời toàn năng đứng về phía họ.
Thật hấp dẫn khi nhìn vào từ ngữ tiếng Hê-bơ-rơ
dịch chữ “sâu bọ” trong Ê-sai 41:14. Trong tiếng Hê-bơ-rơ, nó là tola, và nó có
thể được dịch đúng theo hai cách: hoặc là giun (giòi, hay trùng, sâu), hoặc là
vật liệu đỏ tươi. Thượng hạ văn sẽ quyết định ý nghĩa của hai cách. Trong Ca
thương 4:15, một hình thức của cùng một từ ngữ đề cập đến quần áo đỏ tươi.
Loài sâu (giun, giòi, trùng) trong câu hỏi thường
được xác định là Coccus ilicis, một loại côn trùng được sử dụng trong thời cổ đại
để tạo ra thuốc nhuộm màu đỏ tươi. Khi một con giun cái đỏ tươi, con sâu đã sẵn
sàng để có con, nó sẽ tự gắn vào thân cây và đẻ trứng. Con côn trùng sau đó chết
và trong cái chết nó biến thành màu đỏ thẫm, nhuộm cây gỗ xung quanh ra màu đỏ
tươi. Xác chết của những con côn trùng này sau đó được thu thập và chiết xuất ra
chất lỏng đỏ tươi; kết quả là có thuốc nhuộm rực rỡ được đánh giá cao để nhuộm
đó vải và sợi.
Sách Xuất Ai-cập kí sử dụng các hình thức của từ
ngữ tola hơn hai mươi lần, hầu như luôn luôn theo nghĩa của Scarlet crimson và
hay Scarlet (đỏ tươi). Màn đỏ là một trong những màu sắc trong màn cửa của đền
tạm (Xuất hành 26: 1); trong bức màn ngăn cách nơi thánh và nơi chí thánh (câu
31); và trong trang phục của các thầy tế lễ (Xuất hành 28: 5 --6). Trong mỗi
trường hợp này, màu đỏ tươi là biểu hiệu máu của sinh tế.
Đáng kể, từ ngữ tola cũng được tìm thấy Thi
thiên 22: 6, một thánh vịnh về Đấng Mê-si-a. Ở đây, Đấng Mê-si-a nói rằng, “Nhưng
con là một con sâu (trùng, giòi) chứ
không phải con người; Bị loài người sỉ nhục, bị thiên hạ khinh khi” và tiếp tục
mô tả bàn tay và bàn chân bị đâm của Ngài (câu 16), sự nhạo báng của người xem
(câu 7 ) sự bốc thăm quần áo của Ngài (câu 18). Giống như con sâu đỏ thẫm của
người, Đấng Mê-si-a bị coi là yếu đuối, thấp hèn và tầm thường. Ngài tự làm mình
không ra gì (Phi-líp 2: 7). Giống như con sâu đỏ thẫm, Chúa Jesus bị treo trên cây, nhuộm màu đỏ thẫm cho cây gỗ và chết để mang lại sự sống cho
người