Tít  là một
người lãnh đạo hội thánh ban đầu, một người bạn đồng hành đáng tin cậy của sứ đồ
Phao-lô và là một đầy tớ trung thành của Chúa.
Tít  là một
người ngoại bang (Ga-la-ti 2:20), người đã được Phao-lô dẫn đến đức tin Đấng
Christ (Tít 1: 4). Anh ta được kéo vào chức vụ và trở thành đồng công  với Phao-lô, đi cùng ông ta và Ba-na-ba từ
An-ti-ốt đến Giê-ru-sa-lem (Tít  được bao
gồm trong các tín đồ ngoại bang khác Công vụ 15: 2). Tại Hội đồng Jerusalem, Tít
 sẽ là một ví dụ điển hình của một Cơ đốc
nhân dân ngoại được tái sinh. Tít  là bằng
chứng sống cho thấy nghi thức cắt bì là không cần thiết cho sự cứu rỗi (Galati
2: 3).
Sau đó, Tít  đến Cô-rinh-tô  phục vụ hội thánh ở đó (2 Cô-rinh-tô 8: 6,
16-17). Trên hành trình truyền giáo thứ ba của Phao-lô , diễn ra từ năm 53 đến
57, Phao-lô  đến Trô-ách và dự kiến sẽ
gặp Tít từ Cô-rinh-tô đến đó (2 Cô-rinh-tô 2: 12-13). Không tìm thấy bạn mình, Phao-lô
rời đi đến Ma-xê-đoan. Tít  đã tái ngộ Phao-lô
 ở Phi-lip và đưa cho ông ta một bản báo
cáo tốt về chức vụ mình ở Cô-rinh-tô (2 Cô-rinh-tô 7: 6-7, 13-14). Khi Tít  trở về Cô-rinh-tô lần nữa, Phao-lô đã trao tận
tay Tít Thư tín  2 Cô-rinh-tô gởi cho hội
thánh Cô-rinh-tô và tổ chức một cuộc lạc quyên tại Cô-rinh-tô cho các  thánh đồ túng thiếu ở Jerusalem (2 Cô-rinh-tô
8:10, 17, 24).
 
Vài năm sau, Tít  và Phao-lô  đi đến đảo Cơ-rết, nơi Tít được để ở lại để tiếp
tục và củng cố công việc. Nhiệm vụ của Tít thuộc về hành chính, chủ yếu là: anh
ta duy trì giáo lí thuần túy và điều chỉnh những gì còn sót lại cùng bổ nhiệm
những trưởng lão trong mỗi thị trấn (Tít 1: 5). Khi Ạt-tê-na và Ti-chi-cơ đến đảo
Cơ-rết để tiếp nối chức vụ tại Cơ-rết, Phao-lô  đã gọi Tít  để tham gia cùng ông  ta ở Ni-cô bô-lí, một thành phố thuộc tỉnh
A-chai ở phía tây Hy Lạp (Tít  3:12).
Lần nhắc đến cuối cùng về Tít  trong Kinh thánh cho thấy anh ta đã ở với Phao-lô
trong thời gian Phao-lô bị giam cầm ở La Mã lần cuối cùng. Từ La-mã, Tít  được phái đi truyền giáo xứ Đa-ma-ti (2
Ti-mô-thê 4:10), một khu vực mà sau này được gọi là Nam Tư và bây giờ được gọi
là Serbia và Montenegro.
Là một Cơ đốc nhân dân ngoại, Tít  đặc biệt có hiệu quả trong việc chống lại dị
giáo của  Do Thái giáo. Các người Do Thái
giáo  nhấn mạnh rằng tất cả các Cơ Đốc
nhân  đều bị ràng buộc bởi Luật Môi-se.
Thông thường, người Do Thái giáo  đã mài
giũa giáo lí cắt bì: Người ngoại phải được cắt bì, họ nói, để thực sự được cứu
(xem lời từ chối của Phao-lô về giáo huấn này trong Ga-la-ti 5: 1-6). Tít  biết rõ về giáo lý này, vì chủ đề đã xuất hiện
ở An-ti-ốt, Sy-ri, dẫn đến Hội đồng Jerusalem, trong đó Phao-lô là người diễn
giả góp phần bài bác.
Tít  là một
đầy tớ trung thành của Chúa và là một phụ tá tận tụy với Phao-lô. Anh ta hẳn là
đáng tin cậy và tín nhiệm, vì Phao-lô đã bổ nhiệm anh ta để lãnh đạo các công
việc ở Cô-rinh-tô, Cơ-rết và Đa-ma-ti. Thật vậy, Phao-lô gọi ông là người cộng
sự của tôi và đồng công của tôi (2 Cô-rinh-tô 8:23). Biết được những tình huống
khó khăn ở cả Cô-rinh-tô và Cơ-rết, chúng ta có thể suy ra rằng Tít  là một người sâu sắc, có thể xử lý các vấn đề
bằng ân sủng của Chúa. Thánh Kinh nói rằng Tít có một tình yêu được Chúa ban
cho đối với các tín đồ Cô-rinh-tô; Thực tế, khi trở lại Cô-rinh-tô lần nữa, Tít
đã  rất nhiệt tình và theo sáng kiến của
riêng mình (2 Cô-rinh-tô 8: 16-17).
Chúng ta có thể có lòng nhiệt thành tương tự đối
với Chúa mà Tít  đã thể hiện. Mọi tín đồ
sẽ làm tốt theo mô hình mà Tít được giáo thác về lẽ thật, nhiệt thành trong việc
truyền bá phúc âm và tình yêu nhiệt tình cho hội thánh.
-
