Chủ Nhật, 29 tháng 5, 2016

SÁCH MÁC BÀI 36


Kinh Thánh: Mác 11:27-12:44
Ở TRONG SỰ CHẾT, PHỤC SINH
VÀ THĂNG THIÊN CỦA ĐẤNG CHRIST
Khi Chúa Jesus đi từ Ga – li – lê đến Giu – đê, ý định của Ngài là đi đến Giê – ru – sa – lem để bước vào sự chết và phục sinh, và cũng đem các môn đồ thân thiết của Ngài vào trong sự chết và phục sinh ấy cùng với Ngài. Phi – e – rơ, Giăng và Gia – cơ đại diện cho tất cả môn đồ thân thiết của Chúa. Ngay từ đầu, cả ba môn đồ này đã theo Chúa cách gần gũi. Khi đọc Phúc Âm Mác, chúng ta thấy Phi – e – rơ, Giăng và Gia – cơ theo Chúa Jesus từng bước một. Cuối cùng, Chúa đem họ vào trong sự chết bao – hàm – tất – cả của Ngài. Dĩ nhiên, họ đã không thật sự chịu chết cùng với Chúa, nhưng họ đã trải qua tiến trình của sự chết Ngài. Họ thấy cách Chúa chuẩn bị hoàn cảnh cho cái chết của Ngài và thậm chí chuẩn bị những người chống đối Ngài, là những người đã đặt Ngài vào chỗ chết. Hơn nữa, họ cũng thấy cách Chúa bị bắt, bị xét xử theo luật Do Thái, và bị chính quyền La Mã xét xử theo luật của dân Ngoại. Họ thấy thể nào Ngài đã bị chế giễu, bắt bớ và bị dắt đi như chiên con đến hàng làm thịt. Họ  thấy Chúa đã bị treo trên thập tự giá và Ngài đã ở đó sáu giờ là như thế nào
Chúa đã trải qua sự chết và các môn đồ đã đồng trải qua sự chết với Ngài. Điều khác biệt duy nhất là họ không thật sự phải chết. Chính bản thân Chúa phải chịu chết trong khi các môn đồ trải qua tiến trình của sự chết. Dĩ nhiên họ không bị chôn vào mồ và cũng không đi vào Âm phủ. Tuy nhiên, chúng ta có thể nói rằng khoảng thời gian giữa lúc Chúa chết đến khi Ngài phục sinh là “mồ mả” đối với các môn đồ. Chúng ta cũng có thể nói theo một nghĩa rằng họ đã đi qua Âm phủ. Rồi vào buổi sáng Chúa phục sinh, một số môn đồ đã phát hiện ra ngôi mộ trống và biết rằng Jesus bị đóng đinh đã được sống lại từ kẻ chết
Chúng ta không nên đọc Phúc Âm Mác như quyển sách gồm các mẩu chuyện. Chúng ta cũng không nên đọc Phúc Âm này chỉ để biết giáo lý. Trái lại, khi đọc Phúc Âm này, chúng ta cần thấy hết khải tượng này đến khải tượng khác. Khi đọc Phúc Âm Mác, chúng ta nên có cảm nhận là đang xem truyền hình thiên thượng
Vào ngày Ngũ Tuần, Linh Chúa đổ ra trên 120 môn đồ. Qua sự chết và phục sinh, chính Cứu Chúa – Nô Lệ được khải thị trong sách Mác đã trở nên Linh ban – sự - sống, được đổ ra trên các môn đồ. Điều này có nghĩa là Chúa đổ chính Ngài trên những người đã thấy những khải tượng được ghi lại trong Phúc Âm Mác. Qua việc đổ ra như vậy của Linh, 120 môn đồ đã nhận được thực tại của tất cả những khải tượng mà họ đã thấy
Tôi hy vọng rằng các bài giảng trong sách Mác sẽ giúp anh em thấy được những khải tượng chứa đựng trong Phúc Âm này. Cuối cùng, Đấng Christ phục sinh là Linh sống động sẽ đổ chính Ngài trên an hem để làm cho bất cứ điều gì anh em thấy trở thành thực tại đối với anh em. Rồi trong thực tại, anh em sẽ ở trong sự chết, phục sinh và thăng thiên của Đấng Christ. Thật vậy, anh em sẽ vui hưởng Ngài như là sự thay thế toàn bộ, toàn diện
SÁU NGÀY CHO SÁNG TẠO MỚI
Trong bài này, chúng ta sẽ tiếp tục xem xét phần cuối của Mác chương 11. Mác chương 11 mô tả các sự việc xảy ra trong suốt sáu ngày cuối cùng của cuộc đời Chúa trên đất. Sáu ngày này là để có sáng tạo mới. Theo Sáng thế ký, Đức Chúa Trời đã hoàn tất sáng tạo cũ trong thời gian sáu ngày. Rồi vào ngày thứ bảy là ngày Sa-bát, Đức Chúa Trời nghỉ ngơi. Cũng vậy,  Chúa dùng sáu ngày để sản sinh sáng tạo mới của Đức Chúa Trời. Sau khi sáu ngày này được hoàn tất sẽ có một ngày Sa-bát khác. Chúa đã bị đóng đinh vào ngày thứ sáu, và ngày kế tiếp là ngày Sa-bát. Từ điều này, chúng ta thấy rằng Chúa đã dùng sáu này để hoàn tất việc chuẩn bị và làm cho sáng tạo mới xuất hiện. Trong sáu ngày mà kết thúc bằng sự chết của Ngài, Chúa đã làm mọi điều cần thiết để sáng tạo mới được xuất hiện cho Đức Chúa Trời. Rồi sau đó sáu ngày sau, Ngài nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy là ngày Sa-bát. Trong những bài này, chúng ta sẽ tìm hiểu những gì xảy ra trong sáu ngày ấy
Vào ngày đầu tiên của sáu ngày sau, Chúa Jesus cỡi lừa con của Giê-ru-sa-lem cách khải hoàn. Dân chúng reo lên: “Hô-sa-na! Chúc tụng Đấng nhơn danh Chúa mà đến!” (c.9). Ở đây, chúng ta thấy Chúa được dân chúng tán đồng. Sau  khi đã vào Giê-ru-sa-lem như thế, Ngài vào đền thờ, “khi đã nhìn quanh mọi sự rồi, thì trời gần tối, Ngài cùng mười hai môn đồ bèn đi ra đến Bê-tha-ni” (c.11)
Trở lại thành phố vào ngày hôm sau, Ngài rủa cây vả và tẩy sạch  đền thờ. Để được ấn tượng về tính nghiêm trọng của những vấn đề này, chúng ta có thể so sánh những điều ấy với việc một người nào đó đi vào thủ đô của một quốc gia, đốt cờ và sau đó đi vào trụ sở chính của chính phủ và gây xáo trộn lớn. Chắc chắn những hành động như vậy sẽ được đăng báo
Sau khi rủa sả cây vả là biểu tượng của quốc gia Do Thái, Chúa vào đền thờ và lật đổ bàn của những kẻ buôn bạc. Vì Ngài đã được dân chúng tán đồng nên không ai dám ngăn chặn Ngài. Vào lúc ấy, tất cả những nhà lãnh đạo đều im lặng. Tuy nhiên, họ bí mật lập mưu diệt Chúa Jesus
Theo 11:19 “Khi chiều tà thi Ngài khỏi thành”. Việc này xảy ra vào buổi chiều của ngày thứ hai. Chắc chắn buổi tối hôm ấy  các môn đồ đã nói với nhau về những điều Chúa đã làm Giê-ru-sa-lem. Có lẽ khắp thành phố Giê-ru-sa-lem nhiều người đang nói về những gì Chúa đã làm trong việc tẩy sạch đền thờ
Vào buổi sáng ngày thứ ba, các môn đồ thấy cây vả héo từ  gốc lên (c.20). Khi ấy họ lại đến Giê-ru-sa-lem. Câu 27 chép: “Ngài đang đi bộ trong đền thờ, thì các thầy tế lễ, các Kinh luật gia và các trưởng lão đến”. Nếu không được dân chúng tán đồng, hẳn Chúa không thể bước đi trong đền thờ theo cách như vậy. Thay vào đó, Ngài hẳn đã bị bắt và bị giết ngay lập tức. Nhưng vì đã được dân chúng đón nhận nên Ngài được tự do đi lại trong đền thờ
BỊ CÁC THẦY TẾ LỄ CẢ,
CÁC KINH LUẬT GIA VÀ CÁC TRƯỞNG LÃO CHẤT VẤN
Các thầy tế lễ cả, các kinh luật gia và các trưởng lão – cả ba nhóm người này tạo thành Công Hội – đến nói với Chúa: “Bởi quyền bính nào mà thầy làm những điều này? Ai đã ban cho thầy quyền bính đó?” (c.28). Ở đây, các thầy tế lễ cả, các kinh luật gia và các trưởng lão dường như muốn nói rằng: “Ông rủa sả cây vả rồi lật đổ bàn trong đền thờ. Bởi uy quyền nào mà ông làm những điều này? Ai ban cho ông uy quyền để làm những điều này? Những điều ông làm thì vô cùng nghiêm trọng: Vì thế, chúng tôi muốn biết nguồn gốc và uy quyền của ông”
Khi đối phó với các thầy tế lễ cả, các kinh luật và các trưởng lão, Chúa Jesus vô cùng cao trọng. Ngài không sợ khi đương đầu với tình thế ấy mà còn trả lời các câu hỏi của họ cách dạn dĩ
Câu Hỏi Của Chúa
Chúa Jesus phán với họ: “Ta cũng hỏi các ngươi một lời; hãy đáp cho Ta, thì Ta sẽ nói cho các ngươi bởi quyền bính  nào mà ta làm những điều này. Báp-têm của Giăng có phải bởi trời hay là bởi người ta ư? Hay trả lời cho ta đi” (cc.29-30). Về một mặt,  Chúa Jesus đã không sợ các thầy tế lễ cả, các kinh luật gia và các trưởng lão chất vấn. Mặt khác, Ngài đã hỏi ngược lại họ với một phẩm chất cao trọng
Trước khi trả lời câu hỏi của Chúa, các thầy tế lễ cả, các kinh luật gia, và các trưởng lão đã hội ý với nhau. “Họ bàn bạc với nhau rằng: Nếu chúng ta nói: “Bởi trời” thì ngươi sẽ nói rằng” Vậy, sao các ngươi không tin Giăng? Còn nếu nói: “Bởi người ta” họ lại sợ dân chúng, vì ai nấy đều coi Giăng thật là tiên tri” (cc.31-32). Nhận biết không có cách nào để trả lời câu hỏi của Chúa mà không thua cuộc nên họ Quyết định nói dối. Vì vậy, họ trả lời với Chúa Jesus: “Chúng tôi không biết” (c.33). Chúa biết những gì trong long họ. Ngài biết rằng họ đang dối Ngài.
Câu Trả Lời Của Chúa
Chúa Jesus tiếp tục nói với thầy tế lễ cả, các kinh luật gia, và các trưởng lão: “Ta cũng không nói cho các ngươi bởi quyền bính nào mà ta làm những điều này” (c.33). Điều này cho thấy rằng Chúa biết các nhà lãnh đạo Do Thái sẽ không nói với Ngài điều họ biết. Họ dối Ngài khi nói “Chúng tôi không biết”. Nhưng Chúa nói thật với họ theo cách khôn ngoan, phơi bày sự dối trá của họ và tránh được câu hỏi của họ.
Trong câu trả lời của Chúa, chúng ta cần chú ý đến chữ “cũng không”. Lời này cho thấy rằng các nhà lãnh đạo Do Thái đang nói dối Chúa. Vì họ đã không trả lời Ngài những gì họ biết về Giăng Báp-tít nên Ngài cũng không trả lời câu hỏi của họ.
Câu trả lời khôn ngoan của Chúa đã làm hổ thẹn các nhà lãnh đạo quốc gia Do Thái. Họ đã bị vạch trần như một nhóm người nói dối. Trong khi đối phó với họ, Chúa bày tỏ cả phẩm cách cao trọng lẫn sự khôn ngoan của Ngài. Chúng ta có thể nói rằng phẩm cách cao trọng của Ngài là nhân tính và sự khôn ngoan của Ngài là thần thượng. Sự kết hợp giữa phẩm cách cao trọng mang tính con người và sự khôn ngoan thần thượng  đã bắt các thầy tế lễ cả, các kinh luật gia và các trưởng lão.
Tôi tin rằng các môn đồ của Chúa rất hài lòng với cách Chúa đối phó với các nhà lãnh đạo Do Thái. Có lẽ họ đã nhìn nhau, gật đầu mỉm cười. Họ đã thấy phẩm chất cao trọng và sự khôn ngoan của Cứu Chúa – Nô Lệ giữa một tình huống như vậy trong đền thờ. Chắc hẳn họ vui mừng biết bao khi nhìn thấy các thầy tế lễ cả, các kinh luật gia và các trưởng lão bị Chúa Jesus khuất phục.
BỊ NGƯỜI PHA-RI-SI
VÀ NGƯỜI CỦA ĐẢNG HÊ-RỐT THỬ NGHIỆM
Sau khi Cứu Chúa – Nô Lệ bị các thầy tế lễ cả, các kinh luật gia và các trưởng lão tra xét thì Ngài lại bị những người Pha-ri-si và những người của đảng Hê-rốt thử nghiệm (12:13-17). Mác 12:13 chép rằng: “Đoạn, họ sai mấy người thuộc phe Pha-ri-si và đảng Hê-rốt đến để bắt Ngài trong lời nói”. Những người theo đảng Hê-rốt là những người theo chế độ cai trị của Vua Hê-rốt và cùng dự phần với ông ta trong việc âm thầm đem lối sống  của người Hy Lạp và La Mã thâm nhập vào người Do Thái. Họ cùng phe với người Sa-đu-đê nhưng chống lại người Pha-ri-si. Nhưng ở đây họ liên kết với người Pha-ri-si để gài bẫy Chúa Jesus
Người Pha-ri-si rất yêu nước, hết lòng vì dân tộc Do Thái. Người theo đảng Hê-rốt đứng về phía những người theo đế quốc La Mã. Vì vậy, hai phe này không thể hợp tác với nhau. Nhưng trong việc đối phó với than vị tuyệt diệu này, là Cứu Chúa – Nô Lệ, những người vốn là kẻ thù đã đến với nhau để hỏi Chúa một câu hỏi quỉ quyệt, một câu hỏi vừa liên quan  đến chủ nghĩa ái quốc vừa liên quan đến chủ nghĩa đế quốc
Đến với Ngài, họ nói: “Thưa thầy, chúng tôi biết thầy là thành thật, không tư vị ai, vì thầy không xem dáng của người ta, nhưng thành thật dạy đường của Đức Chúa Trời . Vậy có phép nộp thuế cho Sê-sa không? Chúng tôi nên nộp hay không nên nộp?” (c.14). Đây thật sự là một câu hỏi gài bẫy. Người do Thái chống đối việc nộp thuế cho Sê-sa. Nếu Chúa Jesus nói nộp thuế cho Sê-sa là hợp pháp thì Ngài xúc phạm Do Thái mà lãnh đạo của họ là người Pha-ri-si. Nhưng nếu Ngài nói nộp thuế cho Sê-sa là không hợp pháp thì câu trả lời của Ngài đã tạo cho người theo đảng Hê-rốt, là những người đứng về phía chính quyền La Mã, có cớ để buộc tội Ngài.
Đối với chúng ta thì dường như Chúa Jesus không có cách nào trả lời câu hỏi. Giả sử Ngài nói “Không, chúng ta không nên nộp thuế cho Sê-sa”. Khi ấy, những người theo Hê-rốt có lẽ đã nói: “Ông chống lại người La Mã. Ông phải bị bắt và bị bỏ tù”. Nhưng giả sử Chúa đã nói: “Phải, nộp thuế cho Sê-sa là đúng”. Khi ấy người Pha-ri-si có lẽ đã nói: “Ông phản bội quốc gia vì ông làm việc cho những người theo đế quốc La Mã”. Câu hỏi mà người Pha-ri-si và người theo đảng Hê-rốt đặt ra thật là quỉ quyệt và gian ác biết bao!
Mặc dầu Chúa bị chất vấn cách quỉ quyệt gian ác nhưng Ngài vẫn không sợ. Trái lại, vẫn giữ phẩm chất cao trọng, Ngài nói với họ: “Sao các ngươi thử ta? Hãy đem cho ta xem một quan tiền” (12:15). Chúa Jesus không đưa cho họ đồng tiền La Mã nhưng bảo họ đưa Ngài xem một đồng tiền. Vì họ có một đồng tiền La Mã nên họ bị bắt bí.
Sau khi họ đem một đồng tiền đến cho Ngài, Ngài nói: “Hình và hiệu này của ai?” (c.16). Khi họ trả lời  “của Sê-sa”, Chúa nói tiếp: “Hãy nộp vật gì của Sê-sa cho Sê-sa, vật gì của Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Trời” (c.17). Nộp cho Sê-sa những gì của Sê-sa là nộp thuế cho Sê-sa theo những qui định của chính quyền. Nộp cho Đức Chúa Trời những gì của Đức Chúa Trời là nộp nửa siếc-lơ cho Đức Chúa Trời theo Xuất Ai Cập Ký 30:11-16 và cũng dâng một phần mười cho Đức Chúa Trời theo luật của Đức Chúa Trời

Phân đoạn này trong Phúc Âm Mác về vấn đề Cứu Chúa – Nô Lệ bị người Pha-ri-si và người theo đảng Hê-rốt thử nghiệm kết thúc bằng những lời sau: “Họ đều rất lấy làm lạ về Ngài”. Chúa trả lời họ bằng sự khôn ngoan thần thượng và họ phải câm miệng và bị khuất phục.