SỰ CHUẨN BỊ CỦA CỨU CHÚA – NÔ LỆ CHO SỰ
PHỤC VỤ MANG TÍNH CỨU CHUỘC CỦA NGÀI
(4)
Kinh Thánh: Mác 12:18-44
Sự thử nhiệm và tra xét Cứu Chúa – Nô Lệ
(11:27-12:44) diễn ra trong những ngày ngay trước lễ Vượt Qua. Người Do Thái từ
nhiều nơi đã đến Giê-ru-sa-lem dự tiệc này. Việc Chúa tẩy sạch đền thờ đã làm
cho dân chúng chú ý. Trước hết, các thầy tế lễ cả, các kinh luật gia, và các
trưởng lão đã đến với Chúa Jesus để chất vấn uy quyền của Ngài (11:27-33). Sau
khi các thầy tế lễ cả, các kinh luật gia và các trưởng lãi bị Ngài đánh bại thì
người Pha-ri-si và người của Hê-rốt cố bắt Ngài trong lời nói (12:13-17). Tuy
nhiên, họ cũng bị Cứu Chúa – Nô Lệ đánh bại.
NGƯỜI SA-ĐU-SÊ VÀ SỰ PHỤC SINH
Trong 12:18-27, người Sa-đu-sê đến với
Chúa Jesus. Người Sa-đu-sê là một hệ phái giữa vòng người Do Thái (Công.5:17).
Họ không tin sự phục sinh, thiên sứ hoặc các linh (Công.23:8). Cả người
Pha-ri-si lẫn người Sa-đu-sê đều bị Giăng Báptít và Chúa Jesus lên án là dòng
giống rắn độc (Mat.3:7; 12:34;23:33). Chúa cảnh báo các môn đồ về giáo lý của họ
(Mat.16:6,12). Trong khi những người Pha-ri-si được cho chính thống thì người
Sa-đu-sê có thể được xem là người theo tân phái thời đó.
Trong
Mác 12:18-27, người Sa-đu-sê nghĩ rằng họ có thể đánh bại Chúa Jesus về vấn đề
phục sinh. Họ hỏi Chúa rằng: “Thưa Thầy, Môi-se đã chép cho chúng tôi rằng: Nếu
anh của người nào qua đời, để vợ lại mà không con, thì em của người ấy phải lấy
vợ góa người để nối giống cho anh. Vậy có bảy anh em: anh cả lấy vợ, rồi qua đời,
không con nối, người thứ hai lấy nàng, sau qua đời, cũng không con nối; rồi đến
người thứ ba cũng vậy. Cả bảy anh em đều không con nối, sau hết, đờn bà ấy cũng
qua đời. Thế thì, lúc sống lại nàng sẽ là vợ ai trong vòng họ? Vì cả bảy đều đã
lấy nàng làm vợ” (cc. 19-23). Người Sa-đu-sê nghĩ rằng họ đã rất thông minh khi
hỏi Chúa một câu hỏi như thế.
Chúa
Jesus phán với họ: “Các ngươi há chẳng lầm vì không biết Kinh Thánh, cũng không
biết quyền năng của Đức Chúa Trời đó ư?” (c. 24). Biết Kinh Thánh là một điều,
và biết quyền năng Đức Chúa Trời là một điều khác. Chúng ta cần phải biết cả
hai. Ở đây từ “Kinh Thánh” chỉ về các câu Kinh Thánh trong Cựu Ước nói về sự phục
sinh, còn cụm từ “quyền năng của Đức Chúa Trời” chỉ về quyền năng phục sinh.
Chúa
tiếp tục phán rằng trong sự phục sinh sẽ không còn hôn nhân nữa: “Vì khi người
ta từ kẻ chết sống lại thì không cưới, không gả, song như thiên sứ ở trên trời
vậy” (c.25).
Tuy
nhiên Chúa Jesus không ngừng ở đó. Ngài tiếp tục phán: “Còn đến như kẻ chết được
sống lại, thì các ngươi há chưa đọc trong sách Môi-se về chuyện bụi gai, thế
nào Đức Chúa Trời phán cùng người rằng: Ta là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức
Chúa Trời của Y-sác, Đức Chúa Tròi của Gia-cốp’ hay sao? Ngài chẳng phải Đức
Chúa Trời của kẻ chết đâu, bèn là của kẻ sống. Thật các ngươi lầm to” (cc.
26-27). Vì Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của người sống và được gọi là Đức
Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, vì vậy ba người đã chết này
–Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp – sẽ được phục sinh. Đây là cách Chúa Jesus giảng
giải Kinh Thánh –không chỉ bằng văn tự mà cũng bởi sự sống và quyền năng được
hàm ý trong lời ấy. Trong lời Ngài cho người Sa-đu-sê trong câu 26, Chúa Jesus
thật sự chỉ về chính Ngài, vì Ngài là Thiên Sứ của Đức Giê-ho-va là Đấng đã
phán với Môi-se trong Xuất Ai cập Ký chương 3. Ở đây, dường như Chúa muốn nói:
“Ta là Đấng phán với Môi-se. Ta, tức là Đức Chúa Trời của các ngươi, là Thiên Sứ
đã phán với Môi-se từ bụi gai. Hơn nữa, Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của
Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Nếu họ không được phục sinh thì làm thế nào Đức
Chúa Trời có thể được gọi là Đức Chúa Trời của họ. Ngài không bao giờ là Đức
Chúa Trời của người sống. Vì vậy, danh xưng này chỉ về sự phục sinh”.
NHẬN
ÁNH SÁNG TỪ CHÚA
Chúng
ta không nên nghĩ rằng biết nguyên ngữ Hê-bơ-rơ và Hy Lạp trong Kinh Thánh là đủ
để hiểu Kinh Thánh. Các kinh luật gia ngày xưa biết Cựu Ước theo tiếng
Hê-bơ-rơ. Mặc dầu họ có kiến thức về ngôn ngữ nhưng lại không có chút ánh sáng
nào. Trái lại, Chúa Jesus có ánh sáng thần thượng. Vì lý do này, Ngài có thể chỉ
ra vấn đề phục sinh được hàm ý trong danh xưng của Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham,
Đức Chúa Trời của Y-sác và Đức Chúa Trời của Gia-cốp. Không có ánh sáng thần
thượng, không ai có thể thấy danh xưng thần thượng này liên quan đến sự phục
sinh.
Tôi
khuyến khích các thánh đồ học tiếng Hê-bơ-rơ và Hy Lạp. Nhưng anh em có thể có
bằng tiến sĩ tiếng Hê-bơ-rơ hay Hy Lạp mà vẫn mù lòa. Anh em cần ánh sáng từ Đức
Chúa Trời. Để nhận được ánh sáng, anh em không nên tin cậy vào kiến thức ngôn
ngữ kinh thánh của mình hay tin vào sự giải thích của các giáo sư lớn, mà cần
phải quì gối trước mặt Chúa và mở ra cho Ngài. Có lẽ anh em cần phải thưa:
“Chúa Jesus ơi, dù con biết tiếng Hê-bơ-rơ và Hy Lạp nhưng nếu không có Ngài,
con không thể thấy chút ánh sáng nào cả. Chúa ơi, con cần sự soi sáng của Ngài.
Ánh sáng không đến bởi con nghiên cứu hay phân tích. Chúa ơi, ánh sáng đến qua
sự thương xót của Ngài. Chúa ơi, con cần nhận ánh sáng từ Ngài biết bao”.
Nếu
không nhận lãnh ánh sáng từ Chúa, chúng ta có thể đọc Phúc Âm Mác nhiều lần mà
không thấy gì cả. Chúng ta cần phải tượng trong sách này được “truyền hình” vào
bản thể chúng ta. Tôi có thể làm chứng rằng bởi sự thương xót của Chúa, tôi đã
thấy được cách khải tượng trong sách này. Đôi khi ánh sáng đến trong lúc tôi
đang chia sẻ. Thí dụ, khi đang chia sẻ một trong những bài giảng này, tôi thấy
được sự tương đồng giữa sáu ngày trong sáng tạo cũ với sáu ngày để chuẩn bị cho
sáng tạo mới. Ánh sáng này không đến do biết các ngôn ngữ Kinh Thánh hay do
sách vở của các nhà giải kinh. Ánh sáng này đến từ Chúa qua sự thương xót của
Ngài khi chúng ta mở chính mình ra cho Ngài.
BỊ
MỘT KINH LUẬT GIA CHẤT VẤN
Trong
12:28-34, Cứu Chúa-Nô Lệ bị một kinh luật gia chất vấn. Trong Ma-thi-ơ 22:35,
người này được gọi là luật sư. “Kinh luật gia” là một từ liệu rộng hơn, bao gồm
các luật sư là những chuyên gia lề luật Môi-se. Các luật sư này thông thạo về
luật Môi-se, họ là những người giảng giải chuyên nghiệp về luật pháp Cựu Ước.
Kinh
luật gia này là người thông thạo Kinh luật, đã mạnh dạn đến với Chúa Jesus. Vì
biết rằng Ngài rất xuất sắc trong việc đối đáp với những người tranh luận nên
kinh luật gia này hỏi Chúa: “Trong các điều răn, điều nào là đầu nhất?” (c.28).
Chúa trả lời: “Này là điều nhứt: Hỡi Israel, hãy nghe: Đức Chúa Trời chúng ta
là Chúa duy nhất. Người hãy hết lòng, hết tâm hồn, hết sức mà thương yêu Chúa
là Đức Chúa Trời ngươi” (cc. 29-30 – .Yêu Chúa như vậy là yêu Ngài với mọi phần
của bản thể mình, với linh, hồn và thân thể.
Trong
câu 31, Chúa tiếp tục đáp: “ Còn điều thứ hai là như vậy: Người hãy yêu thương
kẻ lân cận như mình. Chẳng có điều nào lớn hơn hai điều đó”.
Cả
hai điều răn này đều nói về tình yêu thương, hoặc yêu thương Đức Chúa Trời hoặc
yêu thương loài người. Tình yêu thương là tinh túy trong các điều răn của Đức
Chúa Trời. Vì vậy, các điều răn lớn nhất hoàn toàn là vấn đề tình yêu, tình yêu
đối với Đức Chúa Trời và tình yêu đối với con người.
ẤN
TƯỢNG TRÊN MÔN ĐỒ CỦA CHÚA
Câu
34 kết thúc như thế nầy: “Rồi không ai dám hỏi Ngài điều gì nữa”. Chúa Jesus đã
trả lời tất cả lời tất cả các câu hỏi và hoàn toàn chiến thắng. Chắc chắn
Phi-e-rơ, Giăng , Gia-cơ và tất cả các môn đồ khác gần gũi với Chúa Jesus đều
chứng kiến những cuộc đương đầu này và được ấn tượng về cách Chúa giải quyết vấn
đề. Anh em không tin rằng họ đã được ấn tượng sâu sắc về cách Chúa trả lời các
câu hỏi của những người chống đối, về cách Ngài trải qua sự thử nghiệm và tra
xét quỷ quyệt sao? Chắc chắn các môn đồ của Chúa hẳn rất được ấn tượng về Ngài.
ĐỦ
ĐIỀU KIỆN ĐỂ LÀM CHIÊN CON LỄ VƯỢT QUA
Theo
hình bóng, chiên con lễ Vượt Qua được khám xét bốn ngày trước khi bị giết (Xuất.
12:3-6). Cứu Chúa-Nô Lệ, là Chiên Con lễ Vượt Qua thật (1 Cô.5:7), cũng bị tra
xét bốn ngày trước khi Ngài bị giết. Ngài đến Bê-tha-ni sáu ngày trước lễ Vượt
Qua (Gi. 12:1; Mác 11:1). Ngày kế tiếp Ngài vào Giê-ru-sa-lem và trở về
Bê-tha-ni Gi.12:12; Mác 11:11). Ngày thứ ba Ngài trở lại Giê-ru-sa-lem một lần
nữa (11:12-15) và bắt đầu bị các nhà lãnh đạo dân Do Thái tra xét theo luật Do
Thái (11:27-12:37) ; 14:53-65; Gi. 18:13, 19-24) và bị Phi-lát, tổng đốc La Mã,
tra xét theo luật La Mã (Gi. 18:28-19:6) cho đến ngày Vượt Qua thì Ngài chịu
đóng đinh (Mác 14:12; 1 Gi. 18:28). Sự tra xét quỷ quyệt và gài bẫy từ nhiều
góc độ này chính xác là bốn ngày, và Chúa Jesus đã hoàn toàn vượt qua mọi thử
nghiệm. Điều này chứng tỏ rằng Ngài hoàn toàn có đủ điều kiện để trở thành
Chiên Con theo đòi hỏi của Đức Chúa Trời nhằm hoàn thành sự cứu chuộc của Ngài
hầu Đức Chúa Trời có thể “vượt qua” tội nhân, cả người Do Thái lẫn người phi Do
Thái.
Như
chúng ta sẽ thấy, dưới sự tể trị của Đức Chúa Trời, Cứu Chúa – Nô Lệ bị xét xử không những bởi
các nhà lãnh đạo Do Thái, như chiên con trước mặt kẻ hớp lông (Ế. 53:7; Mác
14:53-65) mà còn như một phạm nhân bởi tổng đốc La Mã, trước những kẻ tố cáo
(14:64; 15:1-15) hầu Ngài có thể chết để phục vụ tội nhân bằng sự sống của Ngài
như là giá chuộc (10:45). Ngài chết không những cho người Do Thái, được đại diện
bởi những nhà lãnh đạo Do Thái, mà còn cho người phi Do Thái, được đại diện bởi
tổng đốc La Mã.
MỘT CÂU HỎI VỀ ĐẤNG CHRIST
Mác
12:35 chép: “Jesus đương dạy dỗ trong đền thờ thì phán hỏi rằng: Sao cá kinh luật
gia nói Đấng Christ là con Đa-vít”. Chúa đã bị chất vấn về một số điều khác.
Nhưng ở đây, Ngài hỏi những người thử nghiệm và tra xét Ngài một câu về Đấng
Christ.
Trong
những ngày ở Giê-ru-sa-lem, trung tâm của Do Thái giáo, Cứu Chúa-Nô Lệ đã bị
các thầy tế lễ cả, các trưởng lão, các kinh luật gia, các người Pha-ri-si, người theo đảng Hê-rốt và người Sa-đu-sê, là những
người nỗ lực gài bẫy Ngài, vây quanh bằng cách đặt những câu hỏi quỷ quyệt và
nan giải. Thứ nhất, các thầy tế lễ cả, các kinh luật gia và các trưởng lão, đại diện cho uy quyền của Do Thái
giáo vad dân tộc Do Thái, chất vấn Ngài về uy quyền của Ngài (11:27-33). Đây là
một câu hỏi theo quan niệm tôn giáo của họ. Thứ hai, những người Pha-ri-si
chính thống và những người theo đảng Hê-rốt chính trị hỏi Ngài một câu liên
quan đến chính trị (12:13-17). Thứ ba, những người Sa-đu-sê tân phái hỏi Ngài về
niềm tin căn bản, đặc biệt là niềm tin về sự phục sinh. Thứ tư, một kinh luật
gia, một luật sư, hỏi Ngài một câu liên quan đến việc giải nghĩa Kinh Thánh.
Sau
khi đã trả lời tất cả các câu hỏi của họ một cách khôn ngoan, Chúa hỏi họ một
câu về Đấng Christ. Đây là câu hỏi của mọi câu hỏi. Những câu hỏi của họ liên
quan đến tôn giáo, chính trị niềm tin và việc giải nghĩa Kinh Thánh; còn câu hỏi
của Ngài liên quan đến Đấng Christ, là trung tâm của mọi điều thuộc linh và thần
tượng. Họ biết tôn giáo, chính trị, niềm tin và Kinh Thánh theo văn tự nhưng lại
không quan tâm đến Đấng Christ. Vì vậy, trong 12:35-37 Ngài hỏi họ về Đấng
Christ.
Sau
khi hỏi tại sao các kinh luật gia nói Đấng Christ là con Đa-vít, Chúa Jesus tiếp
tục phán: “Chính Đa-vít đã cảm Thánh Linh mà nói rằng “Chúa phán cùng Chúa tôi
: Hãy ngồi bên hữu ta cho đến khi ta đặt kẻ thù nghịch ngươi làm bệ chơn
ngươi’. Vậy, chính Đa-vít đã gọi Ngài là Chúa, thì thể nào Ngài lại là con của người
được ư?” (cc.36-37). Lời đáp cho câu hỏi của Chúa là thế này: với tư
cách là Đức Chúa Trời trong thần tính Ngài, Đấng Christ là Chúa của Đa-vít; và
với tư cách là con người trong nhân tính Ngài, Ngài là con của Đa-vít. Người
Pha-ri-si và các kinh luật gia chỉ có một
phần kiến thức Kinh Thánh về thân vị Đấng Christ rằng Ngài là con của Đa-vít
theo nhân tính của Ngài. Họ không biết một phần khác về thần tính của Đấng
Christ là Con Đức Chúa Trời.
Sau
khi Chúa trả lời bốn loại câu hỏi khác nhau do những người thử nghiệm và tra
xét Ngài đặt ra, và sau khi Ngài nêu lên câu hỏi của những câu hỏi- câu hỏi về
Đấng Christ – thì Ngài tiếp tục cảnh báo về các kinh luật gia và nói một cách
hài lòng về một người đàn bà góa nghèo. Chúng ta sẽ xem xét các vấn đề này
trong bài sau.