Thứ Bảy, 29 tháng 7, 2023

Vua Olaf của Na Uy đã sử dụng sự tàn ác để ép buộc các lễ rửa tội


Vua Olaf của Na Uy đã sử dụng sự tàn ác để ép buộc các lễ rửa tội

VUA OLAF II của Na Uy đã ngã xuống trong trận chiến vào ngày này, 29 tháng 7 năm 1030. Trong những giây phút hấp hối, người ta cho rằng ông đã khóc, "Chúaôi, xin  phù hộ tôi!"

Khi còn trẻ, Olaf Haraldsson đã chiến đấu với tư cách là một người Viking chống lại Estonia, đến thăm Đan Mạch (khi đó đang cai trị Na Uy), và lúc đầu chiến đấu chống lại, sau đó phục vụ cùng với quân đội của Vua Ethelred II của Anh chống lại người Đan Mạch. Khi Ethelred bị đánh bại và chạy trốn đến Normandy, Olaf đã đi cùng anh ta.

Khi đi qua Normandy, Olaf đã được rửa tội (báp têm) tại Rouen dưới sự bảo trợ của vua Norman Richard II. Nhưng bất chấp điều này, các trận chiến của anh ấy cho thấy một người đàn ông có tham vọng chính trị, và các bài viết của anh ấy cho thấy một người đàn ông quan tâm đến việc khai thác tình dục hơn là sự thánh thiện. 


Khi Olaf trở lại Na Uy vào năm 1015, anh ta đã nhận được sự ủng hộ của một số bá tước phương bắc và đánh bại Bá tước Svein, người cai trị thực sự của đất nước. Olaf đã kiểm soát toàn bộ Na Uy. Khi còn là một thanh niên mới ngoài hai mươi, anh ấy đã cố gắng mở rộng Cơ đốc giáo đến những vùng nội địa của đất nước, nơi nó yếu nhất, rất có thể là vì lý do đoàn kết chính trị. Ông triệu tập một thượng hội đồng giáo hội ở Moster, nơi người dân của ông chấp nhận một bộ luật bao gồm việc xây dựng và bảo trì giáo hội, thiết lập quyền và nghĩa vụ của các quan chức nhà thờ, tuân thủ các ngày thánh, hướng dẫn về lễ rửa tội, hạn chế tiếp xúc với trẻ sơ sinh (đặt yếu trẻ sơ sinh bên ngoài bị giết bởi các yếu tố), điều kiện chôn cất và quy tắc hôn nhân. Bộ luật cũng bãi bỏ việc hiến tế nô lệ cho ma quỷ, thay vào đó yêu cầu bất kỳ ai muốn hiến tế như vậy phải trả tự do cho nô lệ.

Nhưng bất chấp một số điều khoản nhân đạo của bộ luật này, Olaf vẫn sử dụng vũ lực chết người và những hành vi cắt xẻo đáng sợ để buộc những người ngoại đạo làm lễ báp têm và thu được “sự cải đạo”. Điều này gây phẫn nộ cho các đối tượng của mình. Khi Vua Canute và người Đan Mạch xâm lược Na Uy, một số bá tước đã bỏ rơi Olaf và chạy trốn đến Kiev. Canute thành lập một vị vua bù nhìn ở Na Uy, nhưng người đàn ông này qua đời vào năm 1030, và Olaf nhìn thấy cơ hội giành lại ngai vàng của mình. Anh trở lại Na Uy, tỏ ra có lòng thương xót hơn ngày xưa. Tuy nhiên, hầu hết người Na Uy đứng về phía người Đan Mạch.


Khi các đội quân gặp nhau tại Stiklestad, Olaf đã chọn tiếng hô xung trận của mình: “Tiến lên, tiến lên, những người của Đấng Christ! Hỡi nhừng đần ông của thập giá! Người của nhà vua!” Đối phương đông hơn, anh ta chết ở đó. Vết thương chí mạng của anh ta là do một người đàn ông có con tàu mà anh ta đã bắt giữ để trả thù. Tuy nhiên, mặc dù kẻ thù của anh ta phần lớn thuộc đảng ngoại đạo cũ, nhưng họ đã chôn cất Olaf và người của anh ta , là câc Cơ Đóc nhân.

Mặc dù anh ta không đưa ra bằng chứng nào về sự thánh thiện khi còn sống, nhưng người dân Na Uy đã ghi nhận Olaf với những phép lạ sau khi anh ta chết. Khi Canute không giữ lời hứa và tăng thuế, ký ức về Olaf bắt đầu tốt đẹp hơn đối với những người đã nổi dậy chống lại anh ta. Bạn của ông, Giám mục Grimkell tuyên bố ông là một vị thánh tử vì đạo. Vào thế kỷ tiếp theo, Giáo hoàng Alexander III đã xác nhận tuyên bố này.

Những người cai trị Na Uy, đối mặt với nhu cầu thống nhất đất nước, đã tìm thấy trong ký ức của Olaf một biểu tượng của niềm tự hào dân tộc. Họ phong ông làm vị thánh bảo trợ của quốc gia, điều này đã chứng tỏ có tác dụng thống nhất mạnh mẽ. Những gì Olaf hy vọng đạt được trong cuộc sống đã đạt được nhờ tên tuổi của anh ấy sau khi anh ấy qua đời.

—Đan Graves