Trong diễn trình giành lại lập trường, tín đồ phải quyết định bằng ý muốn
của mình và lựa chọn, từ chối. Người ấy phải kháng cự bằng ý muốn của mình.
Người ấy phải quyết định đánh trận chiến đó. Người ấy phải chọn sự tự do. Người
ấy phải từ chối mọi lập trường và chống cự để kẻ thù không chiếm thêm lập
trường và lấy đi sự tự do của mình. Trong việc quyết định, từ chối, lựa chọn và
chống cự như vậy, tín đồ đang chiến đấu vì chủ quyền của mình. Chúng ta đừng
bao giờ quên vấn đề ý muốn tự do. Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta một ý muốn
tự do. Do đó, chúng ta phải là ông chủ của chính mình. Nhưng bây giờ, các ác
linh đã tiếp quản các chi thể của chúng ta và các chức năng của chúng ta trở
thành ông chủ của “bản thể” chúng ta. Chúng ta đã đánh mất chủ quyền của mình.
Khi một tín đồ bắt đầu giành lại lập trường của mình, người ấy đang chống đối
các ác linh trong công tác “thay thế” người ấy của chúng. Vì vậy, người ấy phải
chiến đấu. Tín đồ phải liên tục tuyên bố rằng mình không cho phép các ác linh
xâm phạm quyền của mình. Người ấy không để cho các ác linh xâm phâm nhân cách
của mình. Người ấy không để cho các ác linh nhập vào mình. Người ấy không để
cho các ác linh tiếp quản bản thể mình. Người ấy sẽ không bước theo các ác linh
cách mù quáng. Người ấy sẽ không! Người ấy sẽ không ! Người ấy sẽ là chủ của
chính mình. Người ấy muốn biết điều mình đang làm. Người ấy sẽ kiểm soát bản
thể mình. Người ấy muốn toàn bản thể thuận phục mình. Người ấy từ chối mọi công
tác của các ác linh trên mình. Người ấy từ chối mọi quyền công tác của chúng
trên mình. Khi người ấy vận dụng ý muốn của mình để thốt ra quyết định, sự lựa
chọn và sự từ chối của mình, các ác linh sẽ không thể tiếp tục công tác. Vì ý
muốn đã quyết định, từ chối và lựa chọn nên người ấy phải giáng thêm một đòn
nữa là sự kháng cự của ý muốn.
Khi tín đồ giành lại lập trường bằng ý muốn của mình, nếp sống người ấy
sẽ kinh nghiệm một sự khởi đầu mới. Chuyện gì sai thì đã sai rồi. Bây giờ người
ấy có một sự khởi đầu tươi mới. Người ấy có thể giành lại mọi điều mình đã dâng
cho các ác linh. Linh, hồn và thân thể phải được lấy lại từ kẻ thù. Người ấy
phải dâng mình một lần nữa cho Đức Chúa Trời. Mọi lập trường được nhường cho
các ác linh qua sự thiếu hiểu biết phải được bác bỏ. Mọi quyền đã nhường cho
chúng phải được lấy lại. Phương cách như sau:
Từ chối mọi điều người ấy đã từng tiếp nhận. Lìa khỏi mọi điều người ấy
đã bám chặt.
Hủy bỏ mọi điều người ấy đã sắp xếp.
Bãi bỏ mọi điều người ấy đã hứa.
Không tin vào bất cứ điều gì người ấy đã tin.
Phá hủy mọi điều người ấy đã làm trước đây.
Rút lại mọi điều người ấy đã nói.
Giải tán mọi điều mà chính người ấy đã liên kết.
Nói ra mọi điều người ấy đã giữ im lặng.
Chống đối mọi sự người ấy đã hợp tác.
Từ chối ban cho những gì trước đây người ấy đã ban cho.
Lật đổ mọi sự suy xét, bàn luận và hứa hẹn trước đây.
Từ chối mọi lời cầu nguyện, câu trả lời và sự chữa lành trước đây.
Mọi biện pháp này đều nhắm vào các ác linh. Trước đây, tín đồ xem các
ác linh là Thánh Linh. Vì vậy, đã có một mối tương giao thân mật. Bây giờ người
ấy sáng tỏ về mối liên hệ này, và sẽ đòi lại điều người ấy đã cho chúng trong sự
thiếu hiểu biết. Một người nhường lập trường cho các ác linh trong những sự
việc riêng biệt. Do đó, để giành lại lập trường, một người phải cất đi từng rào
cản một. Rào cản lớn nhất cho sự tự do đối với một tín đồ là thái độ giành lại
lập trường bằng ý muốn cách tổng quát, bao hàm và không rõ ràng; trong khi từ
chối để đòi lại lập trường thì phải theo cách cụ thể, từng điểm một và chi
tiết. Sự chống đối tổng quát đối với lập trường mà các ác linh đoạt lấy sẽ chỉ
cho tín đồ một thái độ đúng đắn. Để có được sự tự do, người ấy phải giành lại
mọi lập trường cách chi tiết. Điều này có thể rất khó. Nhưng nếu ý muốn thật sự
vì sự tự do, và nếu tín đồ xin ánh sáng của Đức Chúa Trời soi sáng, khi Thánh
Linh chỉ ra mọi điều trong quá khứ, người ấy chỉ cần kháng cự từng chi tiết
một, và mọi điều đó sẽ ra đi.Nếu tín đồ sẵn lòng kiên nhẫn tiến tới, người ấy
sẽ thấy rằng đây là phương cách thực tiễn để được giải cứu. Người ấy sẽ được
phóng thích từng điều một vào trong sự tự sự do. Một sự kháng cự tổng quát bày
tỏ rằng chúng ta chống đối công tác của các ác linh, còn sự kháng cự chi tiết
buộc các ác linh ra đi và từ bỏ lập trường mà chúng nắm giữ.
Việc một tín đồ trở nên thụ động trong ý muốn của mình giống như việc
đi xuống dốc; mọi sự đều tiến triển theo chiều hướng đi xuống cho đến khi người
ấy rơi xuống điểm thấp nhất. Để giành lại lập trường, người ấy phải xoay lại và
đi lên từng bước một. Người ấy phải leo lên bằng với số bước mà người ấy đã đi
xuống ban đầu; người ấy không thể bỏ qua một bước nào. Người ấy dần dần rơi vào
trong sự lừa dối và thụ động, vì vậy người ấy phải dần dần hiểu biết và sống
động. Mọi chỗ thụ động phải được lật đổ và giành lại, từng chỗ một. Khi chân
người ấy bước thêm một bước, người ấy đang giành lại thêm một bước. Trước đây,
người ấy đã bước từng bước đi xuống. Bây giờ, người ấy đang bước từng bước đi
lên. Chúng ta phải lưu ý là điều chúng ta nhường cho các ác linh gần đây nhất
là điều chúng ta đi xuống là bước đầu tiên mà chúng ta đi lên
Việc lật đổ lập trường trong tín đồ không được dừng lại cho đến khi
người ấy đạt đến vị trí tự do ban đầu. Tín đồ phải biết mình đi xuống từ đâu.
Người ấy phải trở lại tình trạng nguyên thủy. Người ấy phải biết tình trạng
bình thường của mình; người ấy phải biết ý muốn của mình năng động ra sao, tâm
trí của mình sáng tỏ thế nào và thân thể của mình mạnh mẽ bao nhiêu. Người ấy
phải biết tình trạng hiện tại của mình và so sánh cả hai. Khi đó, người ấy sẽ
nhận thức mình đã đi xuống bao xa qua sự thụ động. Người ấy phải đặt tình trạng
bình thường ở trước mặt mình mọi lúc, nhưng vẫn xem xét tình trạng bình thường
này như mục đích nhỏ nhất. Người ấy không nên thỏa mãn cho đến khi ý muốn người
ấy chủ động kiểm soát mọi phần của toàn bản thể mình; chừng nào đạt đến điều
này, người ấy mới đạt đến tình trạng bình thường trong diễn trình giành lại tự
do, một tín đồ phải nhận diện rõ tình trạng của mình. Chỉ khi đó người ấy mới
có thể không bị lừa dối để nghĩ rằng mình được tự do trong khi thực tế người ấy
chưa được khôi phục lại tình trạng bình thường.
Chúng ta phải hoàn toàn giành lại những gì chúng ta không còn có thể
kiểm soát, những điều dường như nằm ngoài quyền hạn của chúng ta, dù đó là ý
tưởng, trí nhớ, sự tưởng tượng, sự biện biệt, sự phán xét, tình yêu, khả năng
chọn lựa và chống cự, hoặc bất cứ phần nào của thân thể chúng ta rơi vào trong
sự thụ động và mất đi tình trạng bình thường của nó, đều khiến chúng ta không
thể làm chủ chính mình. Chúng ta phải sử dụng ý muốn của mình để sử dụng các
quan năng của chúng ta. Giây phút chúng ta sa vào trong sự thụ động, các ác
linh sẽ nắm giữ các quan năng thụ động của chúng ta và sử dụng chúng thay cho
chúng ta hoặc với sự giúp đỡ của chúng ta. Khi chúng ta nhìn thấy tình trạng
thật của mình và muốn giành lại lập trường và sử dụng quan năng của mình một
lần nữa, chúng ta sẽ cảm thấy điều này rất khó thực hiện. Đây là vì: (1) ý muốn
của chúng ta vẫn yếu đuối và không thể kiểm soát mọi sự, và (2) các ác linh sẽ
dốc hết sức để chiến đấu với chúng ta. Thí dụ, một tín đồ có thể rơi vào trong
sự thụ động trong vấn đề quyết định. Mặc dù người ấy bác bỏ lập trường này và
không để cho các ác linh công tác nữa, và mặc dù người ấy quyết định vận dụng
quyết định của mình và không ở dưới sự kiểm soát của các ác linh nữa, nhưng
người ấy sẽ thấy rằng: (1) người ấy không thể tự quyết định điều gì, và (2) các
ác linh sẽ không để cho người ấy quyết định điều gì hay hành động theo bất cứ
cách nào. Khi một tín đồ ám cố gắng lật đổ quyền bính của các ác linh, các ác
linh sẽ cố gắng ngăn không cho tù nhân của chúng tự do hành động.
Bây giờ tín đồ phải lựa chọn có tiếp tục thụ động, để cho các ác linh
tiếp tục chuyển động hay không. Nếu người ấy không sẵn lòng để cho các ác linh
sử dụng mình theo cách này, mặc dù người ấy tạm thời không thể “quyết định” bất
cứ điều gì, nhưng người ấy sẽ không để cho các ác linh sử dụng khả năng quyết
định của mình. Vì vậy, trận chiến vì sự tự do bắt đầu. Cuộc chiến này hoàn toàn
là một trận đấu của ý muốn. Vì ý muốn đã sa vào trong sự thụ động nên nó để cho
mọi quan năng của toàn bản thể mình rơi vào trong sự thụ động. Ý muốn (thân vị)
đã đánh mất chủ quyền của nó và không còn có thể tự do kiểm soát và điều khiển
mọi quan năng của toàn thể bản thể nữa. Kết quả là các ác linh buớc vào thay
thế ý muốn (thân vị) để kiểm soát và chỉ đạo mọi quan năng của toàn bản thể. Do
đó, nếu tín đồ muốn được tự do, ý muốn cần chỗi dậy: (1) chống đối sự cai trị
của các ác linh, (2) khôi phục lập trường đã mất, và (3) công tác cách tính cực
với Đức Chúa Trời và vận dựng toàn bản thể mình. Mọi sự đều lệ thuộc vào ý
muốn. Khi ý muốn chống đối các ác linh và không để cho chúng chiếm hữu các quan
năng của mình thì chúng sẽ rút lui. Như chúng ta đã đề cập trước đây, các ác
linh có thể bước vào vì tín đồ đã cho phép chúng. Vì vậy, sự từ chối hiện tại
của người ấy là cần thiết để hủy bỏ sự tán thành trước đây hầu cho các ác linh
sẽ phải mất lập trường tấn công của chúng. Khi người ấy cẩn thận chống cự, các
ác linh không thể công tác nữa.
Mỗi tấc lập trường phải được khôi phục. Mỗi điểm lừa dối phải được vạch
trần. Tín đồ phải có sự kiên nhẫn để chiến đấu với kẻ thù trong mọi sự và chiến
đấu đến cuối cùng. Người ấy phải biết rằng việc từ chối mọi lập trường không có
nghĩa là người ấy đã khôi phục mọi lập trường rồi, vì không phải mọi lập trường
đều được khôi phục ngay khi người ấy từ chối. Các ác linh vẫn sẽ tranh đấu đến
cùng. Ý muốn của tín đồ cần trải qua trận chiến rất khốc liệt trước khi có thể
trở nên mạnh mẽ, đầy quyền năng, và tự do. Do đó, tín đồ phải liên tục thực
hiện việc lật đổ lập trường. Hơn nữa, người ấy cần lật đổ cách kiên trì, cho
đến khi mỗi điểm lập trường đều được phơi bày, từ chối và bãi bỏ, cho đến khi
mọi quan năng của toàn bản thể người ấy có thể xoay chuyển theo ý muốn con
người. Mọi quan năng thụ động phải được khôi phục lại tình trạng làm việc bình
thường của chúng. Tâm trí cần suy nghĩ rõ ràng; tâm trí cần phải có thể suy
nghĩ về các chủ thể để mà ý muốn muốn suy nghĩ. Hơn nữa, không một ý tưởng nào
được nằm ngoài tầm kiểm soát của ý muốn. Trí nhớ cần phải có thể ghi nhớ những
việc mà một người muốn nhớ và không đầy các ý tưởng mà người ấy không muốn. Các
hành động khác của thân thể - ca hát, phát ngôn, đọc và cầu nguyện – cũng cần
được kiểm soát bởi ý muốn. Ý muốn cần năng động để có thể làm chủ toàn bản thể.
Mọi khả năng khác của toàn bản thể con
người đều cần phải tác nhiệm bình thường.
Một tín đồ không chỉ phải từ chối lập trường bị các ác linh chiếm giữ,
mà còn phải từ chối mọi công tác được thực hiện bởi các ác linh. Một tín đồ cần
vận dụng ý muốn của mình để nhận lấy chỗ đứng chống lại mọi công tác của các
linh. Điều này sẽ làm khổ các ác linh. Khi đó, tín đồ cầu xin Đức Chúa Trời ban
cho mình ánh sáng để nhận biết các công tác của các ác linh và từ chối chúng
từng điểm một. Công tác của các ác linh trên tín đồ bao gồm: (1) thay thế các
hoạt động của tín đồ và (2) tác động đến các hoạt động của tín đồ. Vì vậy, tín
đồ phải từ chối công tác của chúng bằng cách không cho phép (1) các hoạt động
của mình bị thay thế hoặc (2) các hoạt động của mình bị ảnh hưởng. Tín đồ phải
từ chối không chỉ lập trường tạo cơ hội cho các ác linh mà còn phải từ chối lập
trường bảo tồn chúng trong vị trí hiện tại. Khi một tín đồ chống cự theo cách
này, người ấy sẽ thấy chúng dùng mọi phương tiện của chúng để chống đối người
ấy. Nếu không gây chiến với chúng bằng mọi sức lực của mình, người ấy không thể
trở lại tình trạng bình thường và giành lại tự do. Khi một tín đồ đánh trận
theo các này, người ấy sẽ khám phá ra rằng ban đầu mình không thể sử dụng các
quan năng của mình. Nhưng khi người ấy dùng mọi sức lực của mình để tấn công
toàn bộ quyền lực của chúng, ý muốn người ấy hoàn toàn có thể khôi phục từ thụ
động trở lại năng động, và người ấy một lần nữa có thể cai trị trên toàn bản
thể mình. Cả sự thụ động lẫn việc bị quỷ ám đều bị tiêu diệt trong chiến trận
này.
Khi tín đồ đánh trận để giành lại lập trường, người ấy sẽ trải qua
những thời kỳ rất đau khổ. Trong việc quyết tâm cố gắng giành lại tự do của
mình, người ấy sẽ cảm thấy đau đớn vô cùng và cảm nhận được một sự tranh đấu dữ
dội vì sự kháng cự của quyền lực tối tăm. Khi người ấy cố gắng sử dụng ý muốn
của mình để (1) chống đối quyền bính của các ác linh và (2) thực hiện bổn phận
của mình, người ấy sẽ kinh nghiệm cường độ kháng cự của các ác linh đang chiếm
hữu người ấy. Khi người ấy bắt đầu chiến đấu, người ấy chưa nhận thức được mình
sa ngã bao nhiêu. Chỉ khi nào người ấy chiến đấu với các ác linh từng chút một
và giành lại lập trường từng chút một, cảm nhận sự chống đối và ách nô lệ từ
các ác linh, người ấy mới nhận thức được mức độ sa ngã của mình. Vì các ác linh
chống đối quá dữ dội và vì chúng rất miễn cưỡng từ bỏ ách nô lệ của chúng, nên
các triệu chứng của người ấy càng trở nên tệ hơn khi người ấy khởi xướng chiến
tranh để giành lại lập trường. Dường như càng chiến đấu, người ấy càng ít có
quyền năng và các lĩnh vực bị kẻ thù ám càng rối reng và hỗn loạn hơn. Tình
trạng này là dấu hiệu của chiến thắng. Mặc dù tín đồ cảm thấy tệ hơn trước,
nhưng thật ra tình trạng của người ấy đang được cải thiện vì các triệu chứng
này chỉ tỏ rằng sự kháng cự của tín đồ đã sản sinh các hiệu quả, và các ác linh
đang cảm nhận được sự tấn công của tín đồ. Cho nên, chúng chổi dậy kháng cự
lại. Tuy nhiên, đây chỉ là sự vùng vẫy cuối cùng của chúng mà thôi. Nếu tín đồ
cứ kiên trì, các ác linh nhất định sẽ chạy trốn.
Trong chiến trận này điều quan trọng là tín đồ phải luôn luôn đứng trên
Rô-ma 6:11, công nhận rằng mình là một với Chúa và vì Chúa đã chết nên mình
cũng đã chết. Đức tin này sẽ giải phóng người ấy khỏi quyền bính của các ác
linh vì chúng không có quyền bính trên người chết. Đây phải là chỗ đứng vững
chắc của tín đồ. Trong suốt thời gian này, người ấy cũng phải học tập sử dụng
lời của Đức Chúa Trời để xử lý mọi lời nói dối của kẻ thù, vì chúng sẽ nói với
người ấy rằng người ấy đã sa ngã sâu đến nỗi không thể được phục hồi. Trong sự
chịu khổ vì sự xung đột, nhất là khi các
ác linh vùng vẫy lần cuối và tín đồ kinh nghiệm sự đau khổ cực điểm,
chúng sẽ khiến người ấy chán nản và cảm thấy mình vô vọng và không thể được tự
do. Nếu tín đồ nghe theo ma quỷ, người ấy sẽ rơi vào trong mối nguy hiểm lớn
nhất. Tín đồ phải nhận thức rằng Golgotha đã
hủy diệt Satan và các ác linh của hắn (Heb. 2:14; Col 2:14-15; John 12:31-32).
Sự cứu rỗi đã được hoàn thành. Mỗi tín đồ có thể được giải cứu ra khỏi quyền
bính của sự tối tăm và được chuyển dời vào trong vương quốc của Con yêu dấu
Ngài trong kinh nghiệm của mình (Col.1:13). Hơn nữa, dựa trên sự thật là việc
đòi lại lập trường sẽ đem đến nỗi khổ lớn hơn, nên chúng ta biết rằng các ác
linh đang run rẩy vì công tác đòi lại này. Vì vậy, những gì đã làm là đúng đắn
và lập trường phải càng được chiếm lại nhiều hơn. Bất kể các ác linh đưa ra các
sự biểu lộ mới gì, và bất kể chúng khiến một người chịu khổ hay hành động bao
nhiêu, hễ người ấy nhận thức được nguồn là các ác linh, người ấy phải từ chối
các sự biểu lộ và phớt lờ chúng. Đừng cảm thấy tiếc cho chúng hay bàn bạc về
chúng. Sau khi một người từ chối chúng, người ấy không nên chú ý đến chúng nữa.
Nếu một tín đồ thật trung tín phớt lờ bất cứ sự buồn rầu tạm thời nào
và dạn dĩ đòi lại lập trường bằng ý muốn của mình, người ấy sẽ thấy sự tự do
của mình dần dần trở lại. Nếu lập trường được từ chối và giành lại cách chi
tiết, mức độ quỷ ám cũng sẽ giảm từng chút một. Nếu một tín đồ không nhường lập
trường mới cho các ác linh thì quyền lực của việc bị quỷ ám sẽ giảm tương xứng
với sự thu hẹp lại của lập trường. Mặc dù có thể phải mất một thời gian tín đồ
mới có thể hoàn toàn tự do. Có thể trong quá khứ, người ấy không có cảm nhận gì
cho chính mình, cho các giác quan, diện mạo hoặc nếp sống hằng ngày của mình.
Bây giờ, dần dần có các cảm nhận trở lại. Tín đồ không nên bị làm cho hiểu sai
rằng nếp sống thuộc linh của người ấy đang thụt lùi vì lại cảm thấy những điều
này. Người ấy phải nhận thức rằng mình đã đánh mất ý thức về những điều này khi
bị quỷ ám. Vì người ấy bắt đầu được tự do nên các cảm nhận về những điều đó
đang trở lại. Các cảm nhận này bày tỏ rằng các ác linh đã nhập vào các giác
quan của người ấy nhưng bây giờ chúng đang lìa khỏi người ấy. Khi một tín đồ
đạt đến bước này, người ấy phải trung tín tiến lên, vì người ấy sẽ sớm kinh
nghiệm sự giải phóng đầy đủ. Tuy nhiên, trước khi trở lại tình trạng bình
thường, người ấy không nên thỏa mãn với chút ít thành công. Nếu muốn trục xuất
các quỹ hoàn toàn, lập trường phải hoàn toàn được khôi phục.
SỰ DẪN DẮT THẬT
Chúng ta phải hiểu cách Đức Chúa Trời dẫn dắt cũng như mối liên hệ giữa
ý muốn con người và ý muốn Đức Chúa Trời.
Chúng ta phải nhận thức rằng sự thuận phục của một tín đồ đối với Đức
Chúa Trời phải là vô điều kiện. Hơn nữa, khi nếp sống thuộc linh của một tín đồ
đạt đến đỉnh cao, ý muốn của người ấy phải làm một với ý muốn của Đức Chúa Trời.
Điều này không có nghĩa là tín đồ không còn có ý muốn của mình nữa. Quan năng ý
muốn vẫn hiện hữu, nhưng tính khí thiên nhiên ra đi. Đức Chúa Trời vẫn cần quan
năng ý muốn của con người để công tác với Ngài vì sự hoàn thành ý muốn của
Ngài. Khi nhìn vào khuôn mẫu của Chúa Jesus, chúng ta có thể thấy rằng một
người làm một với Đức Chúa Trời vẫn có khả năng có ý muốn “Ta không tìm kiếm ý
muốn riêng mà tìn ý muốn của Đấng đã sai ta” (John 5:30) “Chẳng phải để làm
theo ý muốn riêng của Ta mà là theo ý muốn của Đấng đã sai Ta” (6:38) “Nhưng không theo ý Con, mà ý Cha
được nên” (Luke 22:42). Do đó, chúng ta có thể thấy rằng Chúa Jesus, Đấng làm
một với Cha, vẫn có ý muốn riêng của Ngài bên cạnh ý muốn của Cha. Các câu này
không nói rằng Ngài không có ý muốn của Ngài; đúng hơn, lời kinh thánh nói rằng
Ngài không tìm kiếm, thực hiện hoặc hoàn thành ý muốn riêng của Ngài. Vì vậy,
ai thật sự làm một với Đức Chúa Trời đều không được kết liễu chức năng của ý
muốn; đúng hơn, người ấy phải đặt ý muốn của mình về phía ý muốn của Đức Chúa
Trời.
Sự dẫn dắt đích thực không có nghĩa là tín đồ phải vâng phục Đức Chúa
Trời như một cái máy. Đúng hơn, điều đó có nghĩa là tín đồ phải chủ động thực
hiện ý muốn của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không muốn tín đồ bước theo Ngài
cách mù quáng; Ngài muốn tín đồ sử dụng toàn bản thể mình cách hợp lý để thực
hiện ý muốn của Ngài. Những người lười biếng thích nhìn thấy Đức Chúa Trời hành
động thay cho họ, còn họ thì thụ động bước theo. Nhưng Đức Chúa Trời không muốn
các tín đồ lười biếng. Đức Chúa Trời muốn các tín đồ hăng hái chuẩn bị các chi
thể của mình và chủ động vâng phục khi họ đã dành thời gian kiểm tra và hiểu
được ý muốn của Đức Chúa Trời. Trước đây chúng ta đã nói về cách nhận biết ý
muốn của Đức Chúa Trời qua trực giác. Vì vậy, chúng ta sẽ không lặp lại điều đó
ở đây. Nếu một tín đồ ao ước vâng phục Đức Chúa Trời, người ấy phải trải qua
các bước sau: (1) người ấy phải quyết tâm vâng phục ý muốn của Đức Chúa trời
(John 7:17); (2) người ấy phải tiếp nhận sự khải thị về ý muốn của Đức Chúa
Trời qua trực giác (Eph 5:17) (3) người ấy phải được Đức Chúa Trời làm cho vững
mạnh để quyết tâm thực hiện điều đó (Phil 2:13); và (4) người ấy phải được Đức
Chúa Trời làm cho vững mạnh để thực thi điều đó (phil 2:13) Đức Chúa Trời sẽ
không thay thế tín đồ trong việc thực hiện ý muốn của Ngài. Sau khi một tín đồ
hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời , người ấy phải làm vững lập ý muốn của mình
để thực hiện điều đó. Sau khi ý muốn được vững lập, người ấy phải xin quyền
năng của Thánh Linh thực hiện điều đó cách thực tiễn.
Một tín đồ phải xin quyền năng của Thánh Linh vì ý muốn của người ấy
quá yếu đuối không thể một mình hành động. Luôn luôn là “việc muốn thì có ở
trong tôi, còn việc thực hiện điều thiện thì không” (Roma 7:18). Vì vậy, cần phải
có Thánh Linh để làm vững mạnh người bên trong của chúng ta để chúng ta vâng
phục Đức Chúa Trời cách thực tiễn. Trước hết Đức Chúa Trời vận hành bên trong
chúng ta, làm cho chúng ta sẵn lòng. Kế tiếp, Đức Chúa Trời vận hành bên trong
chúng ta vì niềm vui thích tốt lành của Ngài (Phil 2:13).
Đức Chúa Trời khải thị ý muốn của Ngài qua trực giác của chúng ta. Nếu
ý muốn của một tín đồ liên hiệp với Ngài, Đức Chúa Trời sẽ gia tăng sức lực cho
tín đồ và khiến tín đồ có thể để cho ý muốn của mình đi theo ý muốn của Đức Chúa
Trời và thực hiện điều đó. Đức Chúa Trời muốn các tín đồ làm một với ý muốn của
Ngài. Nhưng Ngài không muốn thay thế con cái Ngài trong sự áp dụng ý muốn của
họ. Chủ đích của Đức Chúa Trời trong việc sáng tạo và cứu chuộc con người là để
con người hoàn toàn tự do trong ý muốn của mình. Qua sự cứu rỗi được Chúa Jesus
hoàn thành trên thập tự giá, các tín đồ ngày nay có thể tự do lựa chọn và bước
theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Đây là lý do tại sao nhiều lệnh truyền trong Tân
ước (tất cả đều gắn liền với sự sống và sự tín kính) đều đòi hỏi về phía tín đồ
phải có sự luyện tập ý muốn để lựa chọn hay từ chối. Nếu Đức Chúa Trời muốn kết
liễu quan năng ý muốn, thì các lệnh truyền này còn có ý nghĩa gì?.
Một tín đồ thuộc linh là người hoàn toàn có khả năng vận dụng ý muốn
của mình. Người ấy phải liên tục lựa chọn ý muốn của Đức Chúa Trời và từ chối ý
muốn của Satan. Mặc dù nhiều lần người ấy không thể nói được điều gì từ Đức
Chúa Trời và điều gì từ Satan, nhưng người ấy vẫn có thể lựa chọn và từ chối.
Người ấy có thể nói: “mặc dù tôi không biết điều gì thuộc về Đức Chúa Trời và
điều gì thuộc về ma quỷ, nhưng tôi chọn Đức Chúa Trời và từ chối ma quỷ”. Mặc
dù người ấy không biết điều gì thuộc về Đức Chúa Trời, nhưng người ấy có thể
chọn Đức Chúa Trời trong “động cơ” của mình và chọn bất cứ điều gì thuộc về Đức
Chúa Trời. Người ấy có thể nhận lấy thái độ là không muốn bất cứ điều gì ra từ
ma quỷ, bất kể đó là điều gì. Bất kể điều gì đến trên người ấy, người ấy phải
lựa chọn và từ chối. Nếu người ấy không biết cũng không sao; người ấy vẫn phải
luôn luôn chọn ý muốn của Đức Chúa Trời. Người ấy có thể nói: “Mỗi khi tôi biết
ý muốn của Đức Chúa Trời, tôi muốn ý muốn đó. Tôi sẽ luôn luôn chọn ý muốn của
Đức Chúa Trời và từ chối ý muốn của Satan”. Bởi làm như vậy, Thánh Linh của Đức
Chúa Trời sẽ công tác bên trong người ấy và Ngài sẽ làm vững mạnh ý muốn đứng
chống lại Satan hằng ngày đến mức Satan buông mất quyền lực của hắn hằng ngày.
Khi đó, Đức Chúa Trời sẽ có thêm một đầy tớ trung tín trong một thế giới phản
loạn. Khi một người liên tục từ chối ý muốn của Satan trong động cơ của mình và
xin Đức Chúa Trời chứng thực điều gì là theo Ngài, người ấy sẽ nhận thức trong
linh mình rằng thái độ của ý muốn đóng một vai trò to lớn trong nếp sống thuộc
linh.
TỰ TRỊ
Khi nếp sống thuộc linh của tín đồ đạt đến đỉnh cao, người ấy có thể tự
cai trị chính mình. Khi chúng ta nói rằng Thánh Linh bên trong chúng ta chủ trị
chúng ta, chúng ta không có ý nói là chính Thánh Linh trực tiếp cai trị trên
bất cứ phần nào của con người chúng ta. Nếu tín đồ có sự hiểu lầm này, người ấy
hoặc sẽ bị quỷ ám hoặc sẽ chán nản khi không thấy Thánh Linh cai trị trên nếp
sống của mình theo cách này. Nếu một tín đồ nhận thức rằng Thánh Linh đang dẫn
dắt người ấy vào trong sự tự trị, người ấy sẽ không rơi vào trong sự thụ động;
trái lại, người ấy sẽ tiến bộ nhiều trong nếp sống thuộc linh của mình.
“Bông trái của Linh là….tự chủ” (Gal 5:22-23 KJV) Nghĩa gốc của từ tự
chủ là tự cai trị. Công tác của Thánh linh là dẫn dắt người bên ngoài của tín
đồ vào trong sự thuận phục đầy đủ với sự tự trị của người ấy. Thánh Linh lệ
thuộc vào ý muốn được đổi mới của tín đồ để cai trị trên chính người ấy. Mỗi
khi một tín đồ hành động theo xác thịt, người bên ngoài phản loạn với linh. Sự
phản loạn này không đến như một sự phản loạn hợp nhất, nhưng như các hành động
phản loạn rời rạc. Khi một tín đồ thật sự thuộc linh và khi người ấy sản sinh
bông trái của Linh, không chỉ có sự nhân từ, vui mừng, nhu mì,…v…v…, được tìm
thấy trong người ấy (trong hồn người ấy), mà khả năng tự cai trị cũng được tìm
thấy trong người ấy. Mặc dù người bên ngoài đôi lúc bị bối rối, nhưng bây giờ
nó hoàn toàn được khuất phục và ở dưới sự cai trị của chính người ấy theo ý
muốn của Thánh Linh.
Trước hết, một tín đồ phải kiểm soát linh mình để linh người ấy luôn
luôn ở trong tình trạng, đúng đắn. Tâm linh không nên quá nóng hay quá chán
nản, nhưng phải ở trong vị trí đúng đắn. Linh chúng ta, giống như các phần
khác, cần ở dưới sự kiểm soát của ý muốn. Một tín đồ chỉ có thể kiểm soát linh
mình và giữ linh trong vị trí đúng đắn khi tâm trí người ấy được đổi mới và khi
người ấy đầy quyền năng của Thánh Linh. Một tín đồ có kinh nghiệm sẽ biết rằng
khi linh bị kích động, người ấy phải vận dụng ý muốn của mình để kiểm soát
linh. Khi linh quá chán nản , người ấy phải vận dụng ý muốn của mình để nâng đỡ
linh. Chỉ theo cách này tín đồ mới có thể bước đi trong linh mỗi ngày. Lời này
không mâu thuẫn với điều chúng ta đã nói trước đây về việc linh cai trị toàn
bản thể. Khi nói rằng linh cai trị toàn bản thể chúng ta, chúng ta có ý nói rằng
trực giác của linh biểu hiện ý muốn của Đức Chúa Trời. Cho nên, linh kiểm soát
toàn bản thể chúng ta (bao gồm ý muốn) qua ý muốn của Đức Chúa Trời. Khi chúng
ta nói rằng ý muốn chúng ta kiểm soát toàn bản thể, chúng ta có ý nói ý muốn
chúng ta trực tiếp kiểm soát toàn bản thể chúng ta (bao gồm linh chúng ta) theo
ý muốn của Đức Chúa Trời . Trong kinh nghiệm, hai điều này hoàn toàn tương
thích với nhau. “Ai không cai trị trên linh của mình thì giống như một thành
phố bị đạp đổ, và không có các bức tường” (Châm 25:28)
Thứ hai, tín đồ phải kiểm soát tâm trí của mình và các quan năng khác
của hồn mình. Mọi ý tưởng phải thuận phục sự kiểm soát của ý muốn. Mọi ý tưởng
lang thang phải đến dưới sự kiểm soát của ý muốn. “Bắt giam mỗi ý tưởng hầu dẫn
đến sự vâng phục Đấng Christ’ (2 Cor 10:5) “Hãy đặt tâm trí anh em trên những
điều ở trên trời” (Col 3:2)
Thứ ba, thân thể phải ở dưới sự kiểm soát. Thân thể con người phải là
công cụ cho người đó và không trở thành chủ của người đó qua các sự khao khát
và dục vọng hoang dã. Tín đồ phải dùng ý muốn của mình để kiểm soát, huấn luyện
và bắt phục thân thể để nó có thể hoàn toàn vâng phục và chờ đợi ý muốn của Đức
Chúa Trời mà không kháng cự. “Nhưng tôi đánh (khắc khổ) thân thể mình và bắt nó
là nô lệ” (1 Cor 9:27). Khi ý muốn của tín đồ đạt đến tình trạng hoàn toàn tự
kiểm soát, người ấy sẽ không bị ngăn trở bởi bất cứ phần nào của bản thể mình.
Một khi nhận biết ý muốn của Đức Chúa Trời, người ấy có thể liên tục đáp lại.
Cả Thánh Linh và linh con người đều cần một ý muốn tự trị như vậy để thực hiện
sự khải thị của Đức Chúa Trời. Do đó, về một mặt, chúng ta phải làm một với Đức
Chúa Trời; mặt khác, chúng ta phải khắc khổ toàn bản thể mình để nó vâng phục
chúng ta cách hoàn toàn. Điều nay rất quan trọng đối với nếp sống thuộc linh
của chúng ta.
Watchman Nee (Người huộc linh)