SỰ CHUẨN BỊ CỦA CỨU CHÚA – NÔ LỆ CHO SỰ
PHỤC VỤ MANG TÍNH CỨU CHUỘC CỦA NGÀI
(2)
Kinh Thánh: Mác 11:1-26
Trong bài này, chúng ta sẽ tiếp tục xem
xét sự chuẩn bị của Cứu Chúa – Nô Lệ để phục vụ sự cứu chuộc của Ngài. Trong
bài trước, chúng ta đã thấy bước đầu tiên trong sự chuẩn bị của Ngài là vào Giê
– ru – sa – lem cách vinh hiển và Ngài đã đón nhận sự thừa nhận, tán thành của
dân chúng.
RỦA CÂY VẢ VÀ TẨY SẠCH ĐỀN THỜ
Trong 11:12-26, chúng ta có sự kiện rủa
cây vả và tẩy sạch đền thờ. Chúa nhìn thấy cây vả mà trên đó không có gì ngoài
lá, thì trong câu 14, Ngài phán rằng: “Từ rày về sau mãi chớ hề có ai ăn trái của
mầy nữa!” Sau khi rủa cây vả, Ngài bước vào đền thờ và “đuổi những kẻ bán người
mua trong đó, đổ bàn của kẻ đổi bạc và ghế của người bán bồ câu” (c. 15). Sau
đó, Ngài phán: “Há chẳng có chép: Nhà Ta phải gọi là nhà cầu nguyện của muôn
dân’ hay sao? Nhưng các ngươi làm cho nó thành hang trộm cướp” (c. 17).
Hai hành động này – rủa cây vả và tẩy sạch
đền thờ cho thấy rằng toàn thể quốc gia Israel mà đã được Đức Chúa Trời chọn vì
mục đích của Ngài đã trở nên không kết quả và hư hoại. Cây vả bị Chúa rủa chỉ
có lá mà không có trái. Nó có vinh hiển bề ngoài nhưng không có trái. Nó không
có bất cứ thực tại nào. Nó không có điều gì làm thỏa mãn khát vọng của Đức Chúa
Trời. Đền thờ lẽ ra là nhà cầu nguyện cho muôn dân, cả người ngoại bang lẫn người
Do Thái, thì đã trở thành hang trộm cướp. Theo cách nhìn của Đức Chúa Trời, những
người thờ phượng trong đền thờ là quân trộm cướp. Nhà Đức Chúa Trời trên đất đã
thật sự trở thành hang trộm cướp. Vì vậy, sau khi rủa cây vả để kết liễu sự sống
của nó, Chúa tẩy sạch đền thờ để loại trừ sự hư hoại.
Khi Chúa làm những điều này thì bề ngoài
không ai dám chống đối vì ngài đã nhận được sự tán đồng của dân chúng rồi. Về
điều này, câu 18 chép: “Các thầy tế lễ cả và các kinh luật gia nghe vậy, bèn
tìm cách diệt Ngài; vì họ sợ Ngài, tại cả quần chúng đều kinh ngạc về sự dạy dỗ
của Ngài”.
Hành động rủa cây vả tượng trưng cho việc
kết liễu sự sống của quốc gia Israel.
Từ lúc ấy trở đi, đối với cuộc gia tể Tân
Ước của Đức Chúa Trời, quốc gia Israel đã bị kết thúc. Ngoài việc rủa sả cây vả,
Chúa còn tẩy sạch sự hư hoại khỏi nhà của Đức Chúa Trời.
Trong mười chương đầu của Phúc Âm Mác,
Chúa nhơn từ, đầy thương xót và cảm thong. Nhưng ở đây, trong 11:12-26, dường
như Ngài rất khác, trước hết Ngài rủa cây vả rồi sau đó tẩy sạch đền thờ, thậm
chí còn đổ bàn của kẻ buôn bạc. Theo câu 16: “Lại không cho ai được đem một vật
dụng nào đi ngang qua đền thờ”. Chúa rất dạn dĩ, mạnh mẽ và thậm chí nghiêm khắc.
Dường như Ngài không thể hiện sự thương xót nào cả.
Chúng ta cần thấy rằng việc rủa cây vả và
tẩy sạch đền thờ là phần chuẩn bị của Cứu Chúa – Nô Lệ cho sự chết cứu chuộc của
Ngài. Ngài đã chuẩn bị con đường để người Pha – ri – si và các kinh luật gia đặt
Ngài vào chỗ chết.
Khi Chúa tẩy sạch đền thờ thì trời đã tối.
Câu 19 chép: “Khi chiều tà thì Ngài ra khỏi thành”. Có thể suốt đêm đó, Ngài trọ
tại Bê – tha – ni.
LỜI VỀ ĐỨC TIN VÀ SỰ CẦU NGUYỆN
Mác 11:20 chép: “Sáng lại, khi Ngài và các
môn đồ đi ngang qua, thấy cây vả đã héo từ gốc héo lên”. Nhớ lại những lời Chúa
Jesus đã nói từ hôm trước, Phi – e – rơ nói với Ngài rằng: “Ra – bi, coi kìa!
Cây vả thầy đã nguyền rủa nay héo đi rồi”. (c. 21). Chúa đáp: “Hãy có đức tin đến
Đức Chúa Trời. Quả thật, ta nói cùng các ngươi, hễ ai bảo núi này rằng: Hãy cất
mình lên mà gieo xuống biển đi, nếu trong lòng chẳng hồ nghi, nhưng tin rằng điều
mình nói sẽ được nên, thì người chắc được điều đó”. (cc. 22-23). Sau đó Chúa
nói tiếp về sự cầu nguyện. Đặc biệt, Ngài chỉ ra việc chúng ta cần tha thứ người
khác: “Khi các ngươi cầu nguyện, nếu có sự gì bất bình cùng ai, thì hãy tha thứ
để Cha các ngươi ở trên trời cũng tha thứ sự qua phạm của các ngươi” (c. 25). Ở
đây chúng ta thấy rằng tha thứ sự xúc phạm của người khác là nền tảng để Cha
thiên thượng tha thứ chúng ta. Điều này đặc biệt đúng vào lúc chúng ta cầu nguyện.
Nói cách nghiêm túc, chúng ta không thể cầu nguyện với tấm lòng giữ lại bất cứ
điều gì nghịch lại người khác, tức là với một tấm lòng cảm thấy bị người nào đó
xúc phạm hay nhớ lại sự xúc phạm từ người khác.
CHÚA XỬ LÝ ISRAEL
Về việc rủa cây vả mà chúng ta đang nhấn mạnh
cho thấy rằng Đức Chúa Trời đã quyết định từ bỏ dân Israel để đến với một dân
khác là Hội Thánh. Hội Thánh bao gồm những người đã được đem vào trong sự chết
và phục sinh của Đấng Christ để vui hưởng Đấng Christ cách trọn vẹn. Dân này
bao gồm cả người Do Thái lẫn người phi Do Thái.
Mác 11:12 nói rằng Chúa đói. Điều này có
nghĩa là Ngài đang đói về bông trái ra từ con cái Israel để Đức Chúa Trời có thể
được thỏa mãn. Tuy nhiên, cây vả không có trái nào cả. Chúng ta đã thấy rằng
cây vả này biểu tượng về quốc gia Israel (Giê. 24:2, 5, 8). Sự kiện cây vả này
chỉ toàn lá mà không có trái có nghĩa là vào thời ấy, dân Israel đầy dẫy sự phô
trương bề ngoài mà không có điều gì làm Đức Chúa Trời thỏa lòng.
Trong 11:12-26, sự kiện Cứu Chúa – Nô Lệ rửa
cây vả và rửa sạch đền thờ được nhập chung lại. Điều này cho thấy rằng cùng một
lúc, Ngài xử lý dân tộc Israel hư hoại và phản loạn trong nhiều phương diện
khác nhau. Cây vả là biểu tượng về quốc gia Israel, còn đền thờ là trung tâm của
quốc gia này trong mối quan hệ của họ với Đức Chúa Trời. Là cây vả được Đức
Chúa Trời trồng nhưng dân tộc này đã không ra trái cho Ngài; và là trung tâm
trong mối quan hệ với Đức Chúa Trời, đền thờ đầy dẫy mọi hư hoại. Vì vậy, Cứu
Chúa – Nô Lệ đã rủa cây vả không trái và tẩy sạch đền thờ bị ô uế. Việc xử lý
như vậy có thể được xem là lời báo trước về sự hủy diệt được dự ngôn trong 12:9
và 13:2.
NHÂN CÁCH CAO TRỌNG VÀ SỰ CHÂN THẬT
CỦA CHÚA SỰ KHÔN NGOAN THẦN THƯỢNG
VÀ UY QUYỀN CỦA NGÀI
Trong chức vụ lan rộng phúc âm tại Ga – li
– lê được ghi lại trong 1:14-10:52, cồn tác của Cứu Chúa – Nô Lệ là rao giảng
phúc âm, dạy lẽ thật, đuổi quỉ và chữa lành người đau yếu. Trong công tác ấy,
các mỹ đức con người cùng với các thuộc tính thần thượng của Ngài được biểu lộ
như là vật chất và vẻ đẹp trong sự phục vụ thần thượng để dâng tội nhân cho Đức
Chúa Trời. Trong sự chuẩn bị của Ngài tại Giê – ru – sa – lem (11:15-14:42) cho
công tác cứu chuộc thì công việc chính yếu của Ngài là đương đầu với những người
lãnh đạo Do Thái chống đối, tức những người lẽ ra là thợ xây nhà Đức Chúa Trời
(12:9-10), nhưng thật ra họ đã bị kẻ thù của Đức Chúa Trời là Sa – tan chiếm đoạt
và xúi giục để âm mưu giết Cứu Chúa – Nô Lệ. Trong sự đương đầu này, dưới sự chất
vấn, thử nghiệm và tra xét quỉ quyệt, gian ác của họ, nhân cách cao trọng của
Ngài được bày tỏ trong sự chân thật đầy nhân tính của Ngài (11:15-18), và sự
khôn ngoan thần thượng cùng uy quyền của Ngài được bày tỏ trong cách cư xử đầy
nhân tính và sự hoàn hảo của Ngài (11:27-12:37) để cuối cùng những người tìm kiếm
lỗi của Ngài trở nên những người chứng minh cho phẩm chất của Ngài. Điều này tạo
điều kiện để Ngài cho những người chống đối mù lòa này thấy rằng Ngài là Đấng
Christ, là Con Đa – vít, là Chúa của Đa – vít, là chính Đức Chúa Trời
(12:35-37) để họ có thể biết thần tính trong nhân tính của Ngài hầu có thể biết
rằng Ngài là Đức Chúa Trời đang sống trong con người.
Khi đối phó với những người chống đối,
nhân cách cao trọng của Chúa chắc chắn được bày tỏ trong con người đích thực của
Ngài. Trong khi đang bị họ tra xét, Ngài bày tỏ phẩm cách cao trọng trong sự
chân thực. Hơn nữa cùng lúc ấy, sự khôn ngoan thần thượng và uy quyền của Ngài
được bày tỏ trong hành vi và sự hoàn hảo con người của Ngài. Kết quả là, những
người đến với ý định tìm ra lỗi lầm của Ngài đều đã trở thành những người có thể
chứng minh cho những phẩm chất của Ngài.
MỘT NGẠC NHIÊN LỚN ĐỐI VỚI CÁC MÔN ĐỒ
Trong 11:1-26, có ba điểm chính: vào Giê –
ru – sa – lem và trọ tại Bê – tha – ni, rủa cây vả và tẩy sạch đền thờ. Cả ba
điều này chắc hẳn đã làm các môn đồ của Cứu Chúa – Nô Lệ hết sức ngạc nhiên, thậm
chí làm cho họ sững sờ. Phi – e – rơ, Giăng và Gia – cơ và những môn đồ khác đã
theo Chúa Jesus ba năm rưỡi. Trong suốt những năm tháng ấy, họ đã quan sát cách
Chúa cư xử, cách Ngài làm điều này điều kia, và cách Ngài đối đãi với người
khác. Họ đã đến với Ngài từ Ga – li – lê, một vùng bị khinh dể, để đến xứ Giu –
đê, thậm chí đến thành Giê – ru – sa – lem là nơi quan trọng nhất của đất nước ấy.
Giê – ru – sa – lem là nơi có đền thờ và là nơi Công Hội, tức hội đồng lớn nhất
của người Do Thái, hội họp. Có nhiều nhân vật quan trọng sống tại Giê – ru – sa
– lem. Thế mà có một nhóm người Ga – li – lê bị khinh thường, được một người thợ
mộc lãnh đạo, đã đi vào thành phố lớn ấy.
Khi Chúa và các môn đồ “gần tới Giê – ru –
sa – lem, vừa đến Bết – pha – ghê và Bê – tha – ni bên núi Ô – liu, Jesus sai
hai môn đồ, mà bảo rằng: “Hãy đi đến làng đối diện các ngươi, khi vào đó, tức
thì sẽ thấy một con lừa con đương cột chưa hề có ai cưỡi, hãy mở ra, dắt về
đây”.Những môn đồ này vâng lời Chúa mà không nói gì cả. Họ đã được huấn luyện
không bày tỏ ý kiến. Nếu trước đó Chúa yêu cầu như vậy, hẳn họ đã hỏi Ngài vì
sao Ngài muốn làm một điều như thế. Nhưng bây giờ vì đã trải qua quá nhiều điều,
đặc biệt là sự chữa lành tại Giê – ri – cô, nên họ chỉ vâng phục Chúa khi Ngài
bảo họ đi vào làng mở lừa con dắt về. Điều này cho thấy việc huấn luyện các môn
đồ trong cấc chương trước có hiệu quả. Chúa ban một mạng lịnh bất thường cho
hai môn đồ này, một mạng lịnh mà đa số mọi người sẽ không tin hay không chấp nhận.
Tuy nhiên, sau khi đã được Chúa huấn luyện, các môn đồ không bày tỏ một ý kiến
nào về những gì Chúa bảo họ làm.
Mác 11:7 chép: “Đoạn, họ dắt lừa con về
cho Jesus, trải áo mình trên nó, rồi Ngài cỡi lên”. Trong bài trước, chúng tôi
đã chỉ ra rằng khi người mù Ba – ti – mê nghe Chúa gọi thì ông quăng áo. Ở đây,
chúng ta thấy các môn đồ trải áo trên lừa con. Điều này có nghĩa là họ không
còn quan tâm về địa vị. Họ sẵn lòng dành mọi địa vị cho Chúa. Các môn đồ tuyệt
đối tôn cao Đấng này.
Câu 8 chép: “Nhiều người trải áo mình trên
đường”. Chúng ta có thể nói rằng quần chúng làm theo các môn đồ trong việc
quăng áo. Sau đó, người ta tiến đến hoan nghênh Chúa và reo lên: “Hô – sa – na!
Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến! Chúc tụng nước hầu đến, là nước của Đa –
vít, tổ phụ ta! Hô – sa – na nơi chí cao!” (cc. 9-10).
Các môn đồ ắt hẳn ngạc nhiên bởi sự tiếp
đón dành cho Cứu Chúa – Nô Lệ. Chắc chắn họ không hề tưởng tượng được rằng Chúa
Jesus, một người thợ mộc từ Ga – li – lê, lại được đám đông ở Giê – ru – sa –
lem đón tiếp nồng hậu như thế.
Các môn đồ hẳn cũng ngạc nhiên về việc
Chúa rủa cây vả. Những môn đồ người Ga – li – lê của Chúa có lẽ đã tự nhủ:
“Chúng ta đã theo Chúa ba năm rưỡi, chưa bao giờ thấy Ngài làm một việc như thế.
Sao Ngài lại rủa cây vả? Cây vả là biểu tượng của quốc gia chúng ta, và chúng
ta rất tôn trọng biểu tượng này. Thế mà Chúa lại rủa sả nó. Hành vi của Ngài chắc
hẳn đã thay đổi. Bây giờ thì rất khác với những gì trong quá khứ”.
Sau khi rủa cây vả, Chúa đi vào đền thờ và
bắt đầu đuổi những người buôn bán ở đó. Thậm chí Ngài còn đổ bàn của những người
đổi bạc và ghế của những người bán bồ câu (c. 15). Hãy tưởng tượng các môn đồ
đã suy nghĩ gì khi họ thấy điều này. Có thể họ tự hỏi: “Đây có phải là Thầy của
chúng ta không? Ngài luôn nhơn từ, dịu hiền và đầy lòng trắc ẩn. Ngài đang làm
gì vậy?” Dĩ nhiên, các môn đồ không dám nói gì với Chúa cả.
CHÚA CHUẨN BỊ VỀ MÔI TRƯỜNG, NHỮNG NGƯỜI
CHỐNG ĐỐI VÀ NHỮNG NGƯỜI THEO NGÀI
Chúng ta đã thấy bởi rủa sả cây vả và tẩy
sạch đền thờ mà Chúa đã thực hiện sự chuẩn bị cần thiết để phục vụ cho sự cứu
chuộc của Ngài. Đặc bệt là việc Ngài tẩy sạch đền thờ đã khuấy động các thầy tế
lễ cả và các kinh luật gia, là những người tìm cách diệt Ngài (c. 18). Thật ra,
việc Chúa tẩy sạch đền thờ đã làm cho những kẻ chống đối càng đẩy nhanh nỗ lực
giết Ngài. Bằng cách thúc đẩy hoạt động của kẻ chống đối, công tác chuẩn bị này
nhằm bảo đảm rằng Chúa phải chết vào ngày lễ Vượt Qua. Vì vậy, việc tẩy sạch đền
thờ chắc chắn là một sự chuẩn bị cho cái chết cứu chuộc của Chúa.
Giả sử Chúa Jesus vào đền thờ mà chỉ nhìn
quanh, cư xử theo cách rất lịch sự thì có lẽ môn đồ nói rằng: “Chúa ơi, mọi việc
rất tốt. Chúng ta hãy đi đến một nơi nào đó để nghỉ”. Nếu như vậy, tôi không
nghĩ rằng những kẻ chống đối sẽ ra sức giết Chúa. Thậm chí có lẽ họ đã để Ngài yên
một thời gian dài. Trong trường hợp đó, Chúa đã không bị đóng đinh vào lễ Vượt
Qua. Vì vậy, Chúa đã chuẩn bị tình hình bằng cách tẩy sạch đền thờ, và vì làm
như vậy nên Ngài đã khuấy động những kẻ chống đối để họ giết Ngài vào đúng thời
điểm Đức Chúa Trời chỉ định.
Chúa không những chuẩn bị những kẻ chống đối
mà còn chuẩn bị những người theo Ngài. Chắc chắn việc rủa cây vả và tẩy sạch đền
thờ đã tạo một ấn tượng sâu đậm trên những người theo Chúa. Dĩ nhiên, họ không
hiểu ý nghĩa của những điều này. Nhưng sau đó, sau khi Chúa chịu đóng đinh và
phục sinh, chắc họ đã nhớ lại những điều này. Lúc ấy họ mới bắt đầu hiểu tại
sao Ngài rủa cây vả và tẩy sạch đền thờ.
Trong Mác chương 11, chúng ta có thể thấy
Phi – e – rơ, Giăng và Gia – cơ và các môn đồ khác đã chịu ảnh hưởng truyền thống
rất nhiều. Đối với họ, Giê – ru – sa – lem được Đức Chúa Trời ban phước và cây
vả là biểu tượng của quốc gia Israel, một dân tộc được Chúa chọn. Tâm trí của họ
đầy những hiểu biết truyền thống. Chắc họ đã sửng sốt khi Chúa rủa cây vả và tẩy
sạch đền thờ. Bây giờ, chúng ta cần ý thức rằng khi làm điều này, không những
Chúa khuấy động những kẻ chống đối để họ giết Ngài, mà cũng gây ấn tượng trên
các môn đồ là Đức Chúa Trời muốn hoàn toàn dứt bỏ Israel. Quốc gia Israel bị rủa
sả, định tội và chẳng bao lâu sẽ bị lật đổ.
Vào ngày Chúa Jesus rủa cây vả và tẩy sạch
đền thờ, các môn đồ không hiểu nhiều về những điều đã xảy ra. Tuy nhiên, sau đó
chắc chắn họ bắt đầu nhớ lại những điều này và có thể hiểu được rằng Chúa đã từ
bỏ Israel. Vì vậy, rủa cây vả và tẩy sạch đền thờ là chuẩn bị cho những người sắp
giết Chúa và cũng chuẩn bị cho các môn đồ để họ có thể nhận lấy sự chết của
Ngài và nhận lãnh sự phục sinh của Ngài.
Quang cảnh trong chương 11 rất khác với
khung cảnh trong các chương từ 1 đến 10. Trong chương đầu của sách Mác, Chúa
Jesus thật nhu mì, đầy thương xót, nhẹ nhàng và đầy lòng trắc ẩn. Nhưng trong
chương 11, Ngài cư xử một cách hoàn toàn khác. Mục đích của Chúa trong chương
này là chuẩn bị môi trường, hoàn cảnh, những kẻ chống đối và những người theo
Ngài cho sự kiện vĩ đại là sự chết cứu chuộc của Ngài.
Công tác chuẩn bị này kéo dài 6 ngày.
Chúng ta có thể so sánh sáu ngày này với sáu ngày Đức Chúa Trời tạo dựng vũ trụ.
Trong suốt sáu ngày trước khi chết, Chúa đã chuẩn bị hoàn cảnh và mọi người
liên quan đến cái chết của Ngài. Ngài đã làm công tác chuẩn bị này không phải bằng
cách dạy dỗ, rao giảng hay giải thích. Trái lại, Ngài đã làm điều này bằng hành
động.
PHẢN ỨNG CỦA CÁC MÔN ĐỒ
Trong khi các môn đồ trọ tại Bê – tha –
ni, họ hẳn đã nói với nhau về những gì Chúa đã làm trong việc rủa cây vả và tẩy
sạch đền thờ. Có lẽ Phi – e – rơ đã nói với Giăng và Gia – cơ rằng: “Sao Chúa rủa
cây vả và tẩy sạch đền thờ vậy? Cây vả là biểu tượng của dân tộc chúng ta thế
mà Ngài rủa sả nó. Sau đó Ngài liền vào đền thờ, ngăn chặn việc buôn bán và lật
đổ bàn đổi bạc. Thậm chí Ngài nói rằng họ đã làm cho đền thờ thành hang trộm cướp.
Tất cả những điều này có nghĩa gì? Tốt hơn là đừng hỏi Chúa. Chúng ta hãy chờ đến
ngày mai để xem điều gì sẽ xảy ra. Chúng ta không biết Ngài còn làm điều gì nữa”.
Tôi tin rằng các môn đồ đã nói chuyện riêng với nhau như thế.
Nếu ở với các môn đồ, anh em không trao đổi
với họ về những điều đã xảy ra sao? Nếu ở đó, tôi e rằng mình không ăn ngon ngủ
yên được. Có lẽ tôi đã đến với người khác và hỏi cảm nghĩ của họ về những điều
đã xảy ra ngày hôm đó. Hơn nữa, chắc chắn tôi đã nôn nóng chờ đến hôm sau, tự hỏi
rằng Chúa sẽ làm thêm điều gì nữa. Ở đây, tôi muốn nói rằng Chúa đang chuẩn bị
mọi sự và mọi người một cách khác thường cho sự chết của Ngài, đặc biệt là những
người theo Ngài.
Khi đọc Kinh Thánh, nhiều Cơ Đốc nhân đã
nghiễm nhiên chấp nhận những điều này. Có lẽ họ đọc về việc Chúa vào Giê – ru –
sa – lem, Chúa rủa cây vả và tẩy sạch đền thờ mà không cần biết ý nghĩa của những
điều này là gì. Chúng ta phải học tập nghiên cứu Kinh Thánh, không xem bất cứ
điều gì là đương nhiên. Chúng ta cần đào sâu các vấn đề ấy, suy xét và tìm cách
để hiểu. Khi suy xét ý nghĩa của các sự kiện được ghi lại trong 11:1-26, chúng
ta thấy rằng Chúa đang chuẩn bị thực hiện một hành động vĩ đại nhất trong vũ trụ;
đó là sự chết cứu chuộc của Ngài.