I. MINH HỌA TRONG CỰU ƯỚC
Theo hình bóng của
Cựu Ước, cả Nơi Thánh và Nơi Chí Thánh đều chỉ về các từng trời, hay lĩnh vực
thiên thượng. Bàn Thờ dâng của lễ ở sân ngoài ngụ ý rằng thập tự giá được hoàn
tất trên đất; trong khi Bàn Thờ Xông Hương trong Nơi Thánh đơn giản bày tỏ rằng trị trí cầu nguyện phải ở trong lĩnh vực
thiên thượng. Cầu nguyện không được thực hiện trong lĩnh vực thuộc đất mà trong
lĩnh vực thiên thượng. Mặc dù con người chúng ta ở trên đất và dường như đang cầu
nguyện trên đất, nhưng để được Đức Chúa Trời chấp nhận thì mọi lời cầu nguyện
phải được cầu nguyện trong lĩnh vực thiên thượng. Sân ngoài chỉ tốt để dâng
sinh tế chứ không phải để xông hương. Việc xông hương phải được thực hiện trong
Nơi Thánh. Bàn Thờ Xông Hương không được đặt ở sân ngoài mà đặt trong Nơi
Thánh. Điều này cho chúng ta biết rằng sự cầu nguyện phải ở trong lĩnh vực
thiên thượng.
II. VỊ TRÍ THĂNG THIÊN
Sự phục sinh là
sự sống, trong khi sự thăng thiên là vị trí. Hễ khi nào nói về sự phục sinh,
chúng ta cần biết đó là vấn đề sự sống. Cũng vậy, hễ khi nào nói về sự thăng
thiên, chúng ta phải hiểu đó là vấn đề vị trí. Ê-phê-sô chương 2 nói rằng tín đồ
chúng ta đã được làm cho đồng sống động với Đấng Christ thì cũng được đồng phục
sinh, thăng thiên và đồng ngồi với Đấng Christ ở trên trời. Được làm cho sự sống
động nghĩa là nhận được sự sống; được phục sinh là sống trong sự sống; và được
thăng thiên là đạt được vị trí thiên thượng. Tuy nhiên, vì rõ ràng là chúng ta
đang ở trên đất thì làm thế nào có thể đồng ngồi với Đấng Christ trên trời?
Chúng ta phải biết rằng trong nguyên ngữ Hi-lạp, “trên trời” ở đây không chỉ về
trời thuộc vật chất mà ngụ ý đến loại tình trạng thiên thượng, bầu không khí
thiên thượng và bản chất thiên thượng. Tất nhiên, về mặt địa điểm, ngày nay
chúng ta chưa ở trên trời; nhưng theo tình trạng, bầu không khí và bản chất thì
rõ ràng chúng ta đang ở trên trời. Đó là ý nghĩa của “ở trên trời” được nói đến
trong Ê-phê-sô chương 2. Chúng ta đạt đến bản chất thiên thượng và tình trạng
thiên thượng trong Đấng Christ Phục Sinh và thăng thiên. Đó là vị trí của chúng
ta.
Có một minh họa ở
đây. Giả sử tôi đến thăm một khu thuộc địa của Mỹ tại Phi-líp-pin. Ở đây ngôn
ngữ, thực phẩm, nhà ở, con người và mọi điều họ làm đều mang tính đặc thù của
nước Mỹ. Nói về địa lý, tôi đang ở Phi-líp-pin chứ không đang ở Mỹ; nhưng bầu
không khí và bản chất đó làm tôi cảm thấy, không chút nghi ngờ rằng tôi đang ở
Mỹ. Như vậy, “ở trên trời” trong Ê-phê-sô chương 2 không nói đến nơi chốn mà
nói đến một loại bầu không khí và bản chất nào đó. Dĩ nhiên, một mặt “ở trên trời”
cũng chỉ về nơi chốn. Hễ ai cầu nguyện phải thấy rằng sự thăng thiên là vị trí,
và vị trí thiên thượng như vậy có nghĩa là một bầu không khí thiên thượng, một
bản chất thiên thượng.
III. UY QUYỀN THĂNG THIÊN
Vị trí thăng
thiên sản sinh uy quyền thăng thiên. Bất cứ ai ở bất kỳ loại vị trí nào đều có
uy quyền tương ứng với vị trí đó. Ngay cả một tôi tớ cũng có uy quyền cũng như
vị trí là một tôi tớ. Một cảnh sát viên có vị trí và uy quyền của một cảnh sát.
Một giáo viên có vị trí và uy quyền của một giáo viên. Vì vậy, chúng ta cần thấy
rằng sự thăng thiên là vị trí, và với một vị trí như vậy có uy quyền tương ứng.
Đời sống thuộc linh của Cơ-đốc nhân không chỉ là vấn đề sự sống mà còn là vấn đề
vị trí. Cho nên, đó không chỉ là vấn đề quyền năng mà còn là vấn đề uy quyền. Sự
sống đem đến quyền năng; trong vị trí đem đến uy quyền. Sự phục sinh là vấn đề
quyền năng; trong khi sự thăng thiên là vấn đề uy quyền. Để có một phạm vi hay
loại uy quyền nào đó, anh em cần ở trong một vị trí nào đó. Nếu ở trong lĩnh vực
thiên thượng, tự nhiên anh em sẽ có uy quyền thiên thượng trong vị trí thiên
thượng.
IV. VỊ TRÍ CẦU NGUYỆN
Vị trí cầu nguyện
là vị trí thăng thiên. Anh em chỉ có thể cầu nguyện trong lĩnh vực thiên thượng.
Hễ khi nào bỏ lĩnh vực thiên thượng, anh em mất vị trí cầu nguyện. Anh em có thể
cầu nguyện, nhưng lời cầu nguyện đó không được kể đến trước mặt Đức Chúa Trời.
Tôi cho anh em
vài ví dụ đơn giản mà đúng. Khi còn là cậu bé, tôi học trong một trường Cơ-đốc.
Lúc đó là thế Chiến thứ nhất. Tôi nghe một số người thông minh
hỏi mục sư: “Ở Đức có những Cơ-đốc nhân và ở Anh cũng có các Cơ-đốc nhân, nhưng
hai nước này là kẻ thù không đội trời chung của nhau. Chúng tôi nghe rằng những
Cơ-đốc nhân ở Đức đang cầu nguyện để nước Đức chiến thắng và những Cơ-đốc nhân ở
Anh cũng đang cầu nguyện để nước Anh chiến thắng. Xin cho chúng tôi biết lời cầu
nguyện của bên nào sẽ được Đức Chúa Trời đáp lời?”. Thưa anh chị em, ngày nay
tôi muốn hỏi anh chị em cùng một câu hỏi. Anh chị em sẽ trả lời thể nào? Nếu
tôi nhớ chính xác, thì mục sư đó đã khôn ngoan trả lời rằng: “Đức Chúa Trời chẳng
dại đâu. Là Đức Chúa Trời công chính, Ngài sẽ không dại gì đáp lời cầu nguyện
không đáng đó». Ông không nói rằng Đức Chúa Trời sẽ đáp lời cầu nguyện của người
Anh hay Đức Chúa Trời sẽ đáp lời cầu nguyện của người Đức. Ông chỉ đáp lại cách
mơ hồ rồi bỏ qua câu hỏi đó.
Sau này, sau khi
được cứu, câu hỏi này thường trở lại với tôi. Dần dần, tôi sáng tỏ hơn. Đức
Chúa Trời sẽ không nghe những Cơ-đốc nhân ở Đức, hay ở Anh vì họ cầu nguyện
trên vị trí đất nước họ. Nước Anh hay nước Đức đều không phải là vị trí cầu
nguyện. Người nào cầu nguyện bằng cách đứng trên vị trí nước Anh hay nước Đức,
lời cầu nguyện của người đó sẽ không bao giờ được Đức Chúa Trời đáp lời. Chỉ có
một vị trí để cầu nguyện– vị trí thăng thiên. Anh em phải cầu nguyện trong lĩnh
vực thiên thượng.
Để tôi cho anh
em một ví dụ khác. Giả sử một cặp vợ chồng nọ luôn cãi nhau. Cả hai đều đã được
cứu, song cá tính của họ rất xung khắc. Ngày nọ, người chồng cầu nguyện xin
Chúa xử lý vợ mình, và người vợ cũng cầu nguyện nài xin Chúa xử lý chồng mình.
Đức Chúa Trời sẽ đáp lời cầu nguyện của ai ? Đừng nghĩ rằng tôi đang dựng
chuyện này. Đây là một trường hợp có thật. Lau nước mắt, người vợ cầu nguyện với
Đức Chúa Trời: “Ôi Đức Chúa Trời, Ngài là Đức Chúa Trời công chính. Ngài biết mọi
sự. Ngài biết những điều bất công mà con phải chịu đựng. Hãy thi hành sự công bằng
cho con”. Anh em nghe người vợ cầu nguyện như vậy trong phòng, rồi đến một
phòng khác, anh em nghe người chồng cầu nguyện cũng lời cầu nguyện đó từ quan
điểm của mình. Thưa anh chị em, Đức Chúa Trời sẽ đáp lời cầu nguyện của
ai ? Không của ai cả. Vì họ đã từ trời rớt xuống đất. Vì họ mất vị trí cầu
nguyện nên Đức Chúa Trời không thể đáp lời cầu nguyện của họ.
Ngay cả một số
người cầu nguyện cho Hội Thánh tại địa phương họ hay cho Phúc Âm ở đó. Những điều
này là rất tốt trong chính họ; nhưng chúng ta vẫn cần hỏi, họ đang cầu nguyện
trong lĩnh vực thiên thượng hay trên đất? Có nhiều người cầu nguyện cho những
điều như vậy trên đất chứ không trong lĩnh vực thiên thượng hay trên đất? Có
nhiều người cầu nguyện cho những điều như vậy trên đất chứ không trong lĩnh vực
thiên thượng.
Một số anh em có
thể cầu nguyện cho sự nghiệp của họ, và một số chị em có thể cầu nguyện cho
công việc của chồng họ, dầu vậy họ cầu nguyện trên đất chứ không trong lĩnh vực
thiên thượng. Đôi khi thấy nan đề giữa các anh chị em có ý định cầu nguyện cho
họ. Tuy nhiên, anh em nhận thức rằng nan đề của họ chạm đến anh em và anh em bị khấy động bên trong trước khi cầu nguyện. Anh
em không ở trong lĩnh vực thiên thượng mà ở trên đất.
Vì vậy, trong sự
cầu nguyện trước hết cần giải quyết vấn đề vị trí. Nếu vẫn còn ở trên đất sẽ
không cách gì để anh em cầu nguyện, vì vị trí cầu nguyện không ở trên đất.
Không có vị trí cụ thể, một người không thể thực hiện nhiệm vụ cụ thể. Nhiều lần
có người hỏi: “Tại sao Đức Chúa Trời không đáp lời cầu nguyện của chúng
tôi ?» Thưa anh chị em, rất có khả năng là vì anh chị em đã mất chỗ đứng cầu
nguyện. Có thể là anh em vẫn còn một chút tức giận hay bối rối khiến anh em
tranh cãi vì chính mình mà xin Đức Chúa Trời trả thù và minh oan. Điều này chứng
tỏ anh em đã bỏ lĩnh vực thiên thượng.
Tân Ước nói rằng
con cái Đức Chúa Trời chỉ nên chúc phước và đừng rủa sả. Bất kể người khác gây
khó khăn và bắt bớ anh em bao nhiêu, nếu anh em vẫn có thể chúc phước họ, điều
đó chứng tỏ anh em ở trong lĩnh vực thiên thượng. Khi Ê-tiên đang chịu tuận đạo
và bị ném đá, ông vẫn có thể xin Đức Chúa Trời tha thứ họ! Mặt ông giống như mặt
thiên sứ; ông ở trong lĩnh vực của trời. Nếu sống trong lĩnh vực thiên thượng,
một người có thể yêu kẻ thù mình. Bất kể
anh em gây rắc rối cho người đó vẫn thương yêu anh em. Nếu một Cơ-đốc nhân ghét
kẻ thù và nói lời rủa sả khi bị ngược đãi hay bị bắt bớ, chắc chắn đó là người
thuộc đất.
Thưa anh chị em,
có thể anh em muốn cầu nguyện cho Hội Thánh tại địa phương hay công tác rao giảng
Phúc Âm của anh em. Đây là những đề tài cầu nguyện rất tốt, nhưng nếu không được
xử lý, anh em vẫn cảm thấy rằng Hội Thánh đó và công tác đó là “của anh em”.
Anh em muốn Hội Thánh “của anh em” ở đây thịnh vượng và gia tăng số lượng để
công tác “của anh em” ở đây có thể kết quả. Điều này cũng chứng tỏ rằng anh em
không ở trong lĩnh vực thiên thượng mà đã rớt xuống đất. Nếu muốn cầu nguyện
cho những vấn đề này, trước hết anh em phải bước vào vị trí thiên thượng. Không
chỉ trong những vấn đề này, mà ngày cả khi anh em bị bệnh hay gặp nan đề ở nhà
và trong nếp sống hằng ngày, trước hết anh em
phải bước vào lĩnh vực thiên thượng khi anh em sắp cầu nguyện.
Vị trí cầu nguyện
hoàn toàn là vị trí thiên thượng. Anh em không thể có một chút ganh ghét, thù
oán hay tức giận đối với người khác. Một khi thấy có những điều này trong lời cầu
nguyện của mình, lập tức anh em không đang ở trong lĩnh vực thiên thượng. Anh
em không đang xông hương trong Nơi Thánh. Có thể anh em đang xông hương ngoài
đường phố, hoàn toàn ở trên đất và trong thế giới. Vì vậy, chúng tôi nói rằng anh em có thể tự do
làm và nói nhiều điều trong mọi lúc và mọi cơ hội, ngoại trừ trong lúc cầu nguyện.
Cầu nguyện không chỉ là lập trường thánh, mà còn hơn thế, đó là lĩnh vực thuộc
linh. Vị trí cầu nguyện là trên trời. Một khi bỏ lĩnh vực thiên thượng, anh em
mất vị trí cầu nguyện.
V. UY QUYỀN CẦU NGUYỆN
Vì vị trí cầu
nguyện là sự thăng thiên nên uy quyền cầu nguyện cũng là sự thăng thiên. Với vị
trí cầu nguyện thì có uy quyền cầu nguyện. Bất cứ điều gì một Cơ-đốc nhân làm
không chỉ là vấn đề quyền năng, mà còn hơn thế, là vấn đề uy quyền năng, mà còn
hơn thế, là vấn đề uy quyền. Chẳng hạn, khi giảng Lời, anh em không chỉ cần quyền
năng mà cũng cần uy quyền. Điều nầy đúng với một số người cầu nguyện trước mặt
Đức Chúa Trời. Họ không chỉ có quyền năng mà cũng có uy quyền, vì họ ở trong vị
trí thiên thượng.
Nhiều người thường
nói rằng trong sự cầu nguyện, anh em cần loại bỏ các tội phạm, có đức tin và nắm
chặt lời hứa của Đức Chúa Trời. Nhưng dần dần anh em sẽ thấy rằng những điều
này không luôn công hiệu. Có thể anh em đầy đức tin, nhưng Đức Chúa Trời làm
cho điều anh em cầu nguyện không xảy ra. Anh em nắm chặt lời hứa của Đức Chúa
Trời, nhưng lời hứa ấy cũng không được thực hiện. Nếu sẵn lòng học những bài học
cầu nguyện nào đó, dần dần anh em sẽ thấy rằng đó không phải là vấn đề tin hay
nắm chặt lời hứa; mà đúng ra, đó là vấn đề thấy được vị trí cầu nguyện qua sự
viếng thăm của Đức Chúa Trời. Khi ấy, anh em sẽ thực hiện nhiệm vụ cầu nguyện
trong lĩnh vực thiên thượng. Vào lúc này, lời cầu nguyện của anh em là lời cầu nguyện uy quyền.
Vấn đề không phải là anh em tin hay nắm chặt lời hứa mà là anh em có vị trí và
uy quyền để thực hiện nhiệm vụ này. Đức Chúa Trời không có sự chọn lựa nào khác
ngoài việc chấp nhận lời cầu nguyện như vậy, và chắc chắn Ngài sẽ chấp nhận lời
cầu nguyện đó.
Khi đạt đến vị
trí, anh em sẽ biết có những điều nào đó
mà mình không thể cầu nguyện, vì Đức Chúa Trời không cho phép anh em làm như thế.
Hầu hết những gì anh em có thể làm là nói với Đức Chúa Trời về vấn đề đó rằng:
“Đức Chúa Trời ơi, con có thể cầu nguyện
cho vấn đề này không? Nếu Ngài muốn, xin làm cho điều đó xảy ra”. Anh em không
được nói: “Đức Chúa Trời ơi, Ngài phải
làm điều này, vì con nắm chặt lời hứa của Ngài”. Tại sao có những lúc khi anh
em cầu nguyện theo cách này thì không được đáp lời? Đó là vì Đức Chúa Trời
không ban cho anh em lời hứa đó. Đây không chỉ là vấn đề xử lý các tội phạm hay
xưng nhận những sai trái, mà vấn đề được đặt ra là: Anh em ở đâu? Bản chất của
anh em là gì? Và anh em ở trong loại bầu không khí nào? Nếu anh em ở trong lĩnh
vực thiên thượng, tôi chắc chắn rằng tám trong mười lời cầu nguyện của anh em sẽ
bị loại bỏ vì chúng không cần thiết, và anh em sẽ không thể cầu nguyện cho những
điều đó. Anh em biết rằng chúng không phải là những điều đáng để mình cầu nguyện
trong chỗ đứng như vậy.
Không một điều
gì đòi hỏi chúng ta nhiều bằng cầu nguyện. Chỉ trong sự cầu nguyện, anh em mới
thấy rõ anh em là gì, tình trạng của anh em là thể nào, và anh em ở đâu. Nói
chung trong những hoàn cảnh khác, không cách gì để anh em biết mình ở đâu,
nhưng một khi ở trong sự cầu nguyện, anh em có thể phát hiện mình hoàn toàn ở
ngoài lĩnh vực thiên thượng. Vì lý do có thể phát hiện mình hoàn toàn ở lĩnh vực
thiên thượng. Vì lý do này, khi một người tin Chúa, lúc đầu người ấy dám cầu
nguyện cho bất cứ điều gì; nhưng về sau, đi theo Chúa càng lâu, lĩnh vực cầu
nguyện của người ấy càng hẹp dần và người ấy càng ít bạo dạn trong sự cầu nguyện.
Người ấy không dám cầu nguyện cho điều này cũng không dám cầu nguyện cho điều
kia. Càng lớn lên trong Chúa, anh em càng nhận thức rằng cầu nguyện có vị trí
và lĩnh vực của nó. Trong vị trí như vậy và trong một lĩnh vực như vậy mới có
thể có uy quyền như vậy.
VI. LỜI CẦU NGUYỆN UY QUYỀN
Tất cả những lời
cầu nguyện trong sự thăng thiên đều là những lời cầu nguyện uy quyền. Chúng ta
biết rằng cầu nguyện trong sự thăng thiên là ra lệnh cho Đức Chúa Trời. Lời cầu
nguyện của chúng ta không phải là lời van xin mà là ra lệnh. Tất cả chúng ta đều
nhớ trong Êsai 45:11, Đức Chúa Trời phán: “Các ngươi hãy bảo (ra lệnh cho) Ta”.
Đôi khi việc ra lệnh này là lời ra lệnh trực tiếp cho Đức Chúa Trời, và có lúc
đó là lời ra lệnh gián tiếp cho môi trường. Chẳng hạn, Môi-se đứng trên bờ Biển
Đỏ ra lệnh cho nước phải rẽ ra, Chúa Jesus trong thuyền truyền cho gió và biển
phải yên lặng, và Chúa truyền cho sự đau yếu phải ra khỏi nhiều người. Nếu họ cầu
nguyện bằng cách đứng trong lĩnh vực thăng thiên, thậm chí anh em có thể ra lệnh
cho sự nghèo thiếu phải lìa khỏi anh em. Anh em không ở đó để khẩn nài, cầu xin
sự thương xót và viếng thăm của Đức Chúa Trời như kẻ ăn mày xin một ít tiền. Nếu
đạt đến vị trí thiên thượng cùng với uy quyền thiên thượng, thậm chí anh em có
thể nói: “Ta truyền cho sự nghèo thiếu phải lìa khỏi ta”. Đây không phải là sự
tưởng tượng của chúng ta. Rõ ràng là một số người có kinh nghiệm như vậy.
Trong Kinh
Thánh, một mặt, nói rằng chúng ta nên cầu nguyện không thôi, nhưng mặt khác,
Kinh Thánh không cho chúng ta thấy sự đáp lời cầu nguyện sẽ y như điều họ mong
đợi. Nhiều lần khi các anh chị em đến nhờ tôi cầu nguyện cho họ. Tôi thực sự
không biết phải cầu nguyện cho họ thể nào, vì tôi biết đang họ ở trên trời hay
dưới đất. Thưa anh chị em, bất cứ ai cầu nguyện cách tùy tiện đều không biết cầu
nguyện là gì. Nếu thật sự biết vị trí và uy quyền cầu nguyện, anh em sẽ biết để
có lời cầu nguyện xứng đáng không phải là chuyện dễ.
Tất nhiên, Đức
Chúa Trời đầy ân điển với chúng ta trong mọi sự và Ngài luôn lắng nghe lời cầu
nguyện của chúng ta. Tôi thừa nhận điều này. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời cũng bày
tỏ rằng cầu nguyện là vấn đề ở trong sự thăng thiên. Nếu thật sự muốn có những
lời cầu nguyện xứng đáng trước mặt Đức Chúa Trời, anh em cần có khả năng ra lệnh
đầy thẩm quyền trước mặt Đức Chúa Trời. Đứng trước Đức Chúa Trời, tôi có thể
nói với anh em rằng trong những năm qua ở một số nơi , khi đương đầu với một số
nan đề trong công tác hay trong Hội
Thánh, chúng tôi đã cầu nguyện loại cầu
nguyện truyền lệnh này. Chúng tôi dạn dĩ bày tỏ trước Đức Chúa Trời, rằng:
“Đức Chúa Trời ơi, chúng con không cho phép vấn đề này”. Nếu vị trí của anh em
sai và tình trạng của anh em không ở trong lĩnh vực thiên thượng thì lời cầu
nguyện như vậy sẽ là một sự xúc phạm Đức Chúa Trời. Nhưng nếu vị trí của anh em
đúng và tình trạng của anh em ở trong lĩnh vực thiên thượng thì lời cầu nguyện như vậy sẽ là một niềm vui thật sự cho
Ngài. Lời cầu nguyện của anh em tương
đương với sự quản trị Đức Chúa Trời; lời cầu nguyện ấy tương đương với việc thi
hành lệnh truyền của Ngài. Tôi có thể làm chứng rằng Đức Chúa Trời sẽ đáp lời cầu
nguyện như vậy.
Đó không phải là
khi một ai đó đi ra đường và cầm gậy ra hiệu lệnh thì xe cộ sẽ ngừng lại; đúng
ra, đó là khi một cảnh sát giao thông cầm gậy ra hiệu lệnh thì mọi người sẽ dừng
lại, vì ông có vị trí và uy quyền. Lời cầu nguyện đơn giản nhất và dễ nhất là
loại cầu nguyện ra lệnh này, lời cầu nguyện có thẩm quyền. Nhưng để có những lời
cầu nguyện như thế, anh em phải đạt đến vị trí thăng thiên. Lời cầu nguyện uy
quyền là gì? Đó là lời cầu nguyện bởi người có thể ra lệnh bằng cách đứng trong
vị trí thăng thiên.
Vì tình trạng
thuộc linh của chúng ta ngày nay quá thấp nên rất ít người giữa vòng con cái Đức
Chúa Trời biết và thậm chí người thực hành loại cầu nguyện này càng ít hơn nữa.
Nhưng nếu tiến lên cách đúng đắn trong Chúa, sẽ nhận thức rằng chúng ta ở trong
Nơi Thánh chứ không ở nơi sân ngoài. Chúng ta cũng sẽ nhận thức rằng chúng ta ở
trong Nơi Thánh chứ không ở nơi sân ngoài. Chúng ta cũng sẽ nhận thức rằng chúng
ta ở trong lĩnh vực thăng thiên và không thể bị vô số điều khác chạm đến. Chúng
ta hoàn toàn ở với Chúa trong lĩnh vực thăng thiên và trên ngai. Vì vậy, chúng
ta có thể ra lệnh và truyền lệnh cho mọi điều theo ý chỉ của Chúa. Bất cứ điều
gì chúng ta cầu nguyện tự vị trí như thế là một lời ra lệnh, một mạng lệnh.
VII. LỜI CẦU NGUYỆN TRÊN NGAI
Khi đạt đến điểm
có vị trí thiên thượng và uy quyền thiên thượng, và bởi đó có thể thốt ra lời cầu
nguyện có thẩm quyền, anh em là người ở trên ngai, đứng trong vị trí đồng cai
trị với Chúa. Như Ngài cai trị bên hữu Đức Chúa Trời thì anh em cũng cai trị với
Ngài trong lĩnh vực thiên thượng. Vào lúc này, lời cầu nguyện của anh em không
những là lời cầu nguyện có thẩm quyền mà còn là lời cầu nguyện cai trị. Lời cầu
nguyện của anh em là để cai trị bằng uy quyền, thực thi mạng lệnh của Đức Chúa
Trời. Cho nên vào lúc này tất cả lời cầu nguyện của anh em trở nên sự quản trị
của Đức Chúa Trời, thi hành sự cai trị của Đức Chúa Trời. Có lẽ tôi đã đi quá
cao, nhưng tôi biết rằng nếu sẵn sàng học tập, chúng ta sẽ đạt đến vị trí tại
đó chúng ta có thể thốt ra những lời cầu nguyện như thế.
Tóm lại, chỉ có
một vị trí để cầu nguyện đó là lĩnh vực thiên thượng. Một khi rời bỏ lĩnh vực
này, anh em mất vị trí cầu nguyện. Cầu nguyện chỉ liên quan đến những vấn đề
nào đó; mà hơn thế nữa, cầu nguyện liên quan đến vị trí nào đó. Anh em cần ở trong lĩnh vực thiên thượng. Khi có vị trí
cầu nguyện, anh em có thể cầu nguyện với uy quyền và anh em là người ở trên
ngai, thốt ra những lời cầu nguyện trên ngai