Lê-vi Ký
16:18-19 chép: “Đoàn, người ra, đi đến Bàn Thờ ở trước mặt Đức Giê-hô-va, đặng làm lễ chuộc tội cho
Bàn Thờ; người lấy huyết con bò tơ đực và con dê đực, bôi chung quanh những sừng
của Bàn Thờ. Rồi dùng ngón tay rảy huyết bảy lần trên Bàn Thờ, làm cho Bàn Thờ
nên sạch và thánh, vì cớ những sự ô uế của dân I-xra-ên
Trong Lê-vi Ký
16:12-13 chép: “Đoạn lấy lư hương đầy than hực đỏ trên Bàn Thờ trước mặt Đức
Giê-hô-va, và một vốc hương bột, mà đem vào phía trong bức màn. Người phải bỏ
hương trên lửa, trước mặt Đức Giê-hô-va, hầu cho ngọn khói hương bao phủ nắp
thi ân ở trên hòm bảng chứng, thì người không chết”
Hai phân đoạn
trên cho thấy rằng thầy tế lễ trước hết cần làm lễ chuộc tội cho dân Đức Chúa
Trời tại Bàn Thờ cùng với huyết của con sinh trong của lễ chuộc tội. Sau đó,
khi thầy tế lễ bước vào Nơi Chí Thánh để xông hương, than lửa đỏ ông dùng phải
lấy từ Bàn Thờ.
Xuất Ai-Cập Ký
30:9-10 chép: “Trên Bàn Thờ nầy chớ xông hương lạ, hoặc dâng của lễ thiêu, của
lễ chay hay là lễ quán nào hết. Nhưng trải qua các đời, mỗi năm một lần, A-rôn
sẽ lấy huyết của con sinh tế chuộc tội, bôi trên sừng Bàn Thờ nầy đặng chuộc tội
cho nó. Ấy sẽ là một việc rất thánh cho Đức Giê-hô-va”
Phân đoạn trên
nói đến Bàn Thờ Xông Hương chứ không phải Bàn Thờ dâng của lễ. Đền tạm có hai
Bàn Thờ; phía ngoài là Bàn Thờ dâng của lễ, và phía trong là Bàn Thờ Xông
Hương. Bàn Thờ dâng của lễ làm bằng đồng, còn Bàn Thờ Xông Hương làm bằng vàng.
Hai Bàn Thờ này là nơi thực hiện sự chuộc tội, và cả hai đều dùng cùng một sinh
tế. Ngày 10 tháng 7 là ngày chuộc tội cho con cái I-xra-ên. Vào ngày đó, thầy tế
lễ thượng phẩm lấy huyết của con sinh trong của lễ chuộc tội và rảy trên bốn sừng
của Bàn Thờ phía ngoài. Ông cũng đem huyết đó vào Nơi Thánh và rảy trên bốn sừng
của Bàn Thờ Xông Hương; bởi đó, thực hiện sự chuộc tội trên cả hai Bàn Thờ
Trong Khải Thị
8:3 và 5 chép: “Có một Thiên Sứ khác đến, đứng bên Bàn Thờ, cầm lư hương vàng,
và được ban cho nhiều hương để pha vào lời cầu nguyện của cả các thánh đồ trên
Bàn Thờ Bằng Vàng ở trước ngai….Thiên Sứ lấy lư hương, bỏ đầy lửa của Bàn Thờ,
rồi đổ xuống đất, liền có sấm sét, tiếng lớn, chớp nhoáng và động đất”.
“Một Thiên Sứ
khác” ở đây chỉ về Chúa Jesus. Nhờ câu tiếp theo, tức câu 6, chúng ta biết rằng
bảy kèn bắt đầu thổi là kết quả của việc Thiên Sứ quăng lửa của Bàn Thờ xuống đất.
Nói cách khác, bảy kèn là sự đáp lại những lời cầu nguyện đó. Chúng ta cần chú
ý ở đây đề cập đến lư hương, hương và lời cầu nguyện.
Khải Thị 5:8
chép: “Khi đã lấy Sách rồi, bốn sanh vật và hai mươi bốn trưởng lão bèn sấp
mình xuống trước mặt Chiên Con, mỗi kẻ cầm một đờn cầm và những bát bằng vàng đầy
hương, tức là lời cầu nguyện của các thánh đồ”.
Bốn sanh vật và
hai mươi bốn trưởng lão, mỗi kẻ cầm một đờn cầm và những bát bằng vàng. Đờn cầm
là để ngợi khen, trong khi những bát bằng vàng đầy hương là để dâng lời cầu
nguyện. Trong câu này, “tức là” chỉ về những bát, không chỉ về hương. Điều này
có nghĩa là những bát bằng vàng là lời cầu nguyện của các thánh đồ. Cách giải
thích này dựa trên sự kiện là trong chương 8, hương và lời cầu nguyện của các
thánh đồ được đề cập như hai điều khác nhau. Hương Đấng Christ được thêm vào lời
cầu nguyện của các thánh đồ. Vì vậy, những bát bằng vàng ở đây chỉ về lời cầu
nguyện của các thánh đồ.
Cả Xuất Ai-Cập
Ký lẫn Lê-vi Ký đều cho chúng ta thấy rằng không ai có thể bước vào đền tạm để
xông hương trước mặt Đức Chúa Trời và đến gần Đức Chúa Trời mà không trải qua
Bàn Thờ. Bàn Thờ là thập tự giá. Điều này có nghĩa là nếu không trải qua thập tự
giá, không một ai có thể đứng trước Đức Chúa Trời và dâng lời cầu nguyện như
hương thơm được Đức Chúa Trời chấp nhận. Do đó, chúng ta vẫn cần chú ý đến mối
liên hệ giữa thập tự giá và sự cầu nguyện.
I. HAI PHƯƠNG DIỆN CỦA THẬP TỰ GIÁ
Mặc dầu có rất
nhiều phương diện về thập tự giá, nhưng trong mối liên hệ với sự cầu nguyện, chủ
yếu có hai phương diện. Một phương diện được tượng trung bởi huyết đổ ra trên
Bàn Thờ, và phương diện kia được tượng trưng bởi lửa cháy trên Bàn Thờ. Khi người
nào dâng sinh tế trên Bàn Thờ, sau khi sinh tế ấy được Đức Chúa Trời chấp nhận
và được thiêu hóa, thì trước mặt người ấy chỉ có hai điều. Hai điều này là huyết
ở chung quanh Bàn Thờ và than ở trên Bàn Thờ. Vì tro và than lửa trộn lẫn với
nhau nên cuối cùng, những gì người dâng nhìn thấy chỉ là huyết và lửa.
Huyết và lửa là hai phương diện quan trọng
của thập tự giá trong mối liên hiện với sự cầu nguyện. Khả năng để một thầy tế
lễ bước vào Nơi Thánh để xông hương và cầu nguyện trước mặt Đức Chúa Trời được
dựa trên hai điều. Thứ nhất, ông phải đem huyết từ Bàn Thờ Của Lễ Thiêu ở bên
ngoài và bôi trên các sừng Bàn Thờ Xông Hương. Thứ hai, ông đem theo lửa mà đã
thiêu con sinh được dâng trên Bàn Thờ Của Lễ Thiêu phía ngoài và bỏ lửa ấy vào
lư hương trên Bàn Thờ Xông Hương để xông
hương. Huyết trên Bàn Thờ Xông Hương ở phía trong và huyết trên Bàn Thờ
Của Lễ Thiêu ở phía ngoài cũng là một và giống nhau. Than lửa trên Bàn Thờ Xông
Hương ở phía trong và than lửa trên Bàn Thờ Của Lễ Thiêu ở phía ngoài cũng là một
và giống nhau. Nói cách khác, huyết trên Bàn Thờ Xông Hương ở phía trong được dựa
trên huyết trên Bàn Thờ Của Lễ Thiêu ở phía ngoài. Lửa trên Bàn Thờ Của Lễ
Thiêu ở phía ngoài. Huyết là để cứu chuộc; lửa là để kết liễu. Bất cứ điều gì bỏ
vào lửa sẽ bị kết liễu. Lửa gây ra sự thiệt hại nặng nề nhất. Hễ khi nào vật gì
trải qua lửa thì đều bị thiêu rụi. Trên thập tự giá, Chúa đã đổ huyết Ngài để cứu
chuộc. Qua sự chết của Ngài, Ngài cũng đem đến một sự kết liễu lớn. Đó là hai
phương diện quan trọng nhất mà Chúa đã hoàn tất trên thập tự giá. Mỗi sinh tế
được đặt trên Bàn Thờ Của Lễ Thiêu không chỉ đổ huyết mà cũng trở thành tro. Thập
tự giá dẫn đến cả sự cứu chuộc lẫn sự kết liễu. Đây là hai phương diện của thập
tự giá.
Trong sự cứu chuộc
của Chúa, một mặt thập tự giá cứu chuộc chúng ta, và mặt khác, thập tự giá kết
liễu chúng ta. Người cầu nguyện với Đức Chúa Trời phải là người được Chúa cứu
chuộc trong hai phương diện này. Nếu một người không được rảy huyết thì trước mặt
Đức Chúa Trời, người ấy giống như Ca-in, không thể được Đức Chúa Trời chấp nhận
và cũng không thể cầu nguyện. Người nào được Đức Chúa Trời chấp nhận và có thể
cầu nguyện đều cần được rảy huyết. Nhưng xin nhớ rằng một người đến trước Đức
Chúa Trời để cầu nguyện không những cần sự cứu chuộc bởi huyết mà cũng phải là
người đã bị kết liễu tại thập tự giá. Na-đáp và A-bi-hu ngã chết trước mặt Đức
Chúa Trời do vấn đề lửa chứ không phải vấn đề huyết. Không bị thiêu rụi, không
bị kết liễu tại Bàn Thờ, họ đến trước Đức Chúa Trời cầu nguyện theo con người
thiên nhiên của mình. Vì vậy, lời cầu nguyện của họ không những không được Đức
Chúa Trời chấp nhận mà thậm chí chính họ còn bị Đức Chúa Trời đánh chết. Do đó,
người nào học tập cầu nguyện không những phải được cứu chuộc bởi huyết mà cũng
phải là người đã bị kết liễu và trở thành tro. Sự sống thiên nhiên của người ấy
đã bị kết liễu hoàn toàn bởi thập tự giá.
Hai phương diện
của thập tự giá thực ra không khó hiểu, vì các hình bóng trong Cựu Ước được
trưng bày ở đó như những bức tranh sang tỏ. Chúng ta thấy rằng không ai có thể
bước vào Nơi Thánh để xông hương và cầu nguyện với Đức Chúa Trời mà không bởi
huyết và lửa từ Bàn Thờ phía ngoài. Nếu ai muốn bước vào Nơi Thành để xông
hương mà không bởi lửa là lửa đốt sinh tế trên Bàn Thờ, chắc chắn ngườ ấy sẽ chịu
cùng một số phận như Na-đáp và A-bi-hu. Cũng vậy, không có huyết và lửa, không
ai có thể bước vào hiện diện của Đức Chúa Trời. Không có sự cứu chuộc và sự kết
liễu của thập tự giá thì không ai được quyền đến gần Đức Chúa Trời. Một người
có thể cầu nguyện rất nhiều trước mặt Đức Chúa Trời, nhưng người ấy không nên
quá tin rằng mọi lời cầu nguyện của mình đều được Đức Chúa Trời chấp nhận. Câu
chuyện về Na-đáp và A-bi-hu là một trường hợp tuyệt diệu về điểm này. Đừng bao
giờ chỉ nghĩ rằng: “Ô, không phải chúng tôi đã cầu nguyện trước mặt Đức Chúa Trời
sao?”. Không! Anh em vẫn cần hỏi: “Còn sự cứu chuộc và sự kết liễu của thập tự
giá thì sao?”. Nếu không kinh nghiệm về hai phương diện này của thập tự giá thì
không có cách nào để anh em đến trước mặt Đức Chúa Trời.
Trong Cơ-đốc
giáo suy thoái và lâm lạc ngày nay,quan niệm thông thường là Đức Chúa Trời đáp lại
mọi lời cầu nguyện của chúng ta. Đúng, thưa anh chị em, Đức Chúa Trời là một
Chúa Trời đáp lời cầu nguyện. Nhưng còn hơn thế, Ngài là Đức Chúa Trời không
đáp lời cầu nguyện. Ngày nay, nhiều người thường nói: “Xin cầu nguyện cho tôi”.
Đó là khẩu hiệu của rất nhiều Cơ-đốc nhân ngày nay. Anh em có thể gặp một ai đó
từ vũ trường bước ra, nhưng nói với anh em: “Cầu nguyện cho tôi nhé!”. Có thể
cô ấy đang mặc trang phục rất thời trang và trang điểm đủ màu. Anh em có thể gặp
một ai đó đang chuẩn bị dự tiệc đêm Nô-ên. Lúc rời khỏi nhà, có thể cô ấy nói với
người bạn: “Xin cầu nguyện cho tôi”. Anh em nghĩ là Đức Chúa Trời sẽ đáp những
lời cầu nguyện như vậy không? Không bao giờ! Ô, đừng tự tin rằng Đức Chúa Trời
sẽ đáp mọi lời cầu nguyện của chúng ta. Nhiều lần lời cầu nguyện của chúng ta
trước mặt Đức Chúa Trời không những không được đáp lời, mà trong cách nhìn của
Ngài có thể những lời cầu nguyện đó trở thành tội chống lại Ngài. Chúng ta đã
thấy Đức Chúa Trời xử lý các thầy tế lễ cách nghiêm khắc thể nào khi đền tạm lần
đầu tiên được dựng lên và những thầy tế lễ đó bước đến trước Đức Chúa Trời để
dâng sinh tế. Nếu ngày nay Đức Chúa Trời xử lý Hội Thánh cùng một cách như vậy,
hẳn nhiều người không những phải chết cách thuộc linh mà thậm chí còn chết cách
thuộc thể trước mặt Đức Chúa Trời.
Giai đoạn đầu của
bất cứ vấn đề nào, Đức Chúa Trời rất nghiêm khắc để làm nổi bật nguyên tắc như
là luật thép. Vào thời điểm ngày Ngũ Tuần, A-na-nia và Sa-phi-ra nói dối Thánh
Linh và đã ngã chết trước mặt Đức Chúa Trời. Điều đó không có nghĩa là sau đó bất
cứ ai nói dối Linh đều sẽ ngã chết. Về sau nhiều người nói dối nhưng không ngã
chết. Tuy nhiên, trong cách nhìn của Đức Chúa Trời, họ đã gánh lấy sự chết cho
mình. Na-đáp và A-bi-hu ngã chết vì họ phạm nguyên tắc thập tự giá. Cho đến
ngày nay, nhiều người vẫn đang cầu nguyện theo cách vi phạm nguyên tắc thập tự
giá. Kết cuộc của họ là như nhau. Không những lời cầu nguyện của họ không được
Đức Chúa Trời chấp nhận, mà chính họ cũng không được Ngài chấp nhận. Những lời
cầu nguyện không được đáp lời và Đức Chúa Trời không chấp nhận, về nguyên tắc,
thì giống như việc gánh lấy cái chết thuộc thể trong thời Cựu Ước. Nghịch lại
nguyên tắc của Đức Chúa Trời, họ gánh chịu sự chống cự của Đức Chúa Trời.
II. SỰ CỨU CHUỘC CỦA THẬP TỰ GIÁ
Càng là người cầu
nguyện, anh em sẽ càng thấy mình tội lỗi, và nhận thức nhu cầu cứu chuộc. Chẳng
hạn, chúng ta có thể xem tình trạng nầy trong Đa-ni-ên. Một trong những lời cầu
nguyện của ông được ghi lại trong Đa-ni-ên chương 9. Trong lời cầu nguyện đó,
ông đề cập rất ít đến điều ông cầu thay. Trái lại, phần lớn lời cầu nguyện là sự
xưng tội, không những tội của ông mà mà còn tội của cả quốc gia I-xra-ên. Ông
thực sự hiểu cầu nguyện trước mặt Đức Chúa Trời bởi huyết của con sinh của lễ
chuộc tội nghĩa là gì.
Nếu một anh em
thấy một chị em không xưng nhận chút nào về các tội phạm mình trong sự cầu nguyện
thì không chắc rằng người ấy đã bước vào hiện diện của Đức Chúa Trời. Một người
không cảm nhận về tội lỗi không những ở bên ngoài Nơi Thánh mà rất có thể thậm
chí không bước vào sân ngoài. Người ấy vẫn còn ở phía ngoài bức màn vải gai trắng.
Nếu không, người ấy không thể kiềm chế lời xưng tội của mình. Đây là những gi
được nói đến trong 1Giăng chương 1: Đức Chúa Trời là sự Sự Sáng, nếu chúng ta
tương giao với Đức Chúa Trời và ở trong
sự sáng, chắc chắn chúng ta sẽ thấy các tội phạm của mình và tiếp nhận
huyết của Jesus, Con Đức Chúa Trời để tẩy sạch chúng ta.
Những kinh nghiệm
thật về cầu nguyện thì giống như vây. Hễ khi nào bước vào hiện diện của Đức
Chúa Trời, anh em cần kinh nghiệm sự cứu chuộc của thập tự giá và tẩy sạch của
huyết. Càng bước sâu vào hiện diện của Đức Chúa Trời, ý thức của anh em về tội
càng nhạy bén, và sự hiểu biết của anh em về tội càng sâu sắc. Những điều nào
đó trước đây có thể anh em xem là những đức tính và phẩm chất đáng khen, thì
bây giờ anh em thấy là tội lỗi. Lúc đó, anh em nói với Đức Chúa Trời: “Đức Chúa
Trời ơi, con chỉ có thể bước vào hiện diện Ngài để cầu nguyện dưới huyết của
Con Ngài và với huyết của Con Ngài. Nếu không, con không thể thậm chí đến đây
huống chi là để cầu nguyện”. Luôn nhận thức rằng hễ khi nào cầu nguyện, anh em
cần kinh nghiệm sự cứu chuộc của thập tự giá. Nếu không, anh em là dơ bẩn, ô uế
và đầy những vi phạm.
Một điều chắc chắn
là nếu Linh muốn cầu nguyện qua anh em về một vấn đề quan trọng nào đó, trước hết
Ngài sẽ đến để soi sáng cho anh em và thanh tẩy bản thể anh em. Hễ khi nào Linh
sắp đem anh em vào sự cầu nguyện với Ngài, Ngài cần thanh tẩy anh em một lần nữa.
Và sự thanh tẩy của Ngài trước hết là để anh em thấy những tội lỗi và quá phạm
của anh em, sau đó dẫn anh em đến chỗ tiếp nhận sự tẩy sạch của huyết. Dưới huyết
quí báu, anh em xưng tội mình từng tội một với Đức Chúa Trời . Có thể anh em
xưng tội trong một tiếng đồng hồ và kết thúc bằng lời cầu xin chỉ trong năm
phút. Anh em cần xưng các tội phạm mình cách kỹ lưỡng cho đến khi không có sự sợ
hãi và được thuần khiết, được chiếu sáng bên trong. Khi đó, anh em có thể cầu
nguyện: “Đức Chúa Trời ơi, Hội Thánh có một nan đề ở đây, công tác gặp khó khan
ở đây, v.v… Con đặt tất cả những điều này trước mặt Ngài”.
Ngay cả trong việc
dâng lời cảm tạ và ngợi khen trong buổi nhóm Bàn Chúa, chúng ta cũng nên kinh
nghiệm sự cứu chuộc của thập tự giá. Trước khi bước vào hiện diện Chúa để thờ
phượng và nhớ Ngài, anh em cần đến thập tự giá. Không ai có thể bước vào Nơi
Thánh mà không đi đến Bàn Thờ. Anh em không thể nói: “Ô, cách đây vài ngày, tôi
đã trải qua Bàn Thờ rồi, vì thế, hôm nay toi có thể đi thẳng vào”. Nếu làm như
vậy, anh em sẽ chết cách thuộc linh trước mặt Đức Chúa Trời. Dù hôm qua anh em
đã xưng các tội phạm mình, nhưng sáng nay vẫn phải làm như vậy khi cầu nguyện;
anh em vẫn phải xưng tội mình chiều nay khi anh em cầu nguyện. Và chẳng ích chi
nếu chỉ xưng nhận bằng những lời trống rỗng. Anh em cần có cảm nhận về tội lỗi.
Hễ khi nào một người chạm được Đức Chúa Trời, chắc chắn người ấy sẽ có cảm nhận
về tội. Khi Phi-e-rơ thấy Chúa làm phép lạ, bởi đó tỏ chính Ngài là Đức Chúa Trời
thì lập tức ông nói: “Lạy Chúa, xin lìa khỏi tôi, vì tôi là người có tội’ (Lu.
5:8). Chính tại đây sự cứu chuộc là cần thiết. Chúng ta không thể đứng trước mặt
Đức Chúa Trời bất cứ lúc nào bởi chính mình, nhưng bởi huyết cứu chuộc của thập
tự giá.
III. SỰ KẾT LIỄU CỦA THẬP TỰ GIÁ
Một người biết
cách cầu nguyện và có thể cầu nguyện luôn luôn là người được cứu chuộc dưới huyết
và bị kết liễu trên thập tự giá. Khi đến trước mặt Đức Chúa Trời để cầu nguyện,
anh em cần hỏi mình có bị kết liễu hay không. Giả sử anh em muốn cầu nguyện về
Phúc Âm, về gia đình anh em, về việc dâng hiến của cải vật chất hay về vấn đề
hôn nhân. Trong mỗi trường hợp, anh em cần hỏi rằng mình đã bị kết liễu trong vấn
đề cụ thể đó chưa. Anh em phải hỏi liệu mình có đang cầu nguyện vì tư lợi hay
không. Bất cứ điều gì anh em cầu nguyện, anh em cần bị kết liễu trong vấn đề
đó.
Hãy luôn ghi nhớ
rằng lửa cháy trên Bàn Thờ Của Lễ Thiêu chính là lửa để đốt hương trên Bàn Thờ
Xông Hương. Chỉ lửa đốt con sinh thành tro mới có thể là lửa dùng để đốt hương.
Nếu lửa được đem đến Bàn Thờ Xông Hương để xông hương không phải là lửa đốt con
sinh thành tro thì lửa đó gọi là lửa lạ. Anh em có thể thấy tính nghiêm trọng của
vấn đề này qua số phận của Na-đáp và A-bi-hu. Nếu anh em không bị kết liễu
trong một vấn đề nào đó, nhưng lại đem vấn đề đó vào hiện diện của Đức Chúa Trời
trong sự cầu nguyện thì đó là một sự xúc phạm lớn đối với Đức Chúa Trời.
Nói cách nghiêm túc,
nếu một người chưa bị thập tự giá kết liễu một vần đề nào đó, người ấy thực sự
không thể cầu nguyện cho vấn đề đó. Nếu chưa bị thập tự giá kết liễu về chồng
hay vợ anh em, thì thành thật mà nói, anh em không đủ tư cách để cầu nguyện cho
chồng hay vợ mình. Tại sao nhiều lần Chúa không nghe lời cầu nguyện của chúng
ta cho gia đình mình? Câu trả lời là chúng ta chưa trở thành tro. Những lời cầu
nguyện đó chỉ là thiên nhiên, lời cầu nguyện bởi lửa lạ. Nhiều lần chúng ta cầu
nguyện cho Hội Thánh của Đức Chúa Trời và công tác của Chúa, Chúa không đáp lời.
Anh em cầu nguyện để Chúa ban phước, song anh em không thấy phước hạnh. Anh em
đã cầu nguyện nhiều năm xin Chúa làm Hội Thánh lớn lên, nhưng Hội Thánh vẫn
không lớn lên. Lời cầu nguyện của anh em không được đáp lời vì đó là cầu nguyện
bởi lửa lạ, lời cầu nguyện thiên nhiên.
Chúng ta luôn có
quan niệm rằng chắc chắn Đức Chúa Trời sẽ nghe lời cầu nguyện của chúng ta vì
Ngài đầy thương xót và hay làm ơn cho chúng ta. Quan niệm này không đúng. Đức Chúa Trời thường không nghe lời cầu nguyện của
nhiều người. Lý do Ngài không nghe là vì chúng ta, những người cầu nguyện chưa
trải qua Bàn Thờ. Một số người chỉ đem theo huyết từ Bàn Thờ, nhưng không đem lửa.
Họ trải qua sự cứu chuộc, nhưng chưa trải qua sự kết liễu của Bàn Thờ.
Xin nhớ rằng, hễ
khi nào một người đến xông hương tại Bàn Thờ Xông Hương, người ấy phải hoàn
thành hai điều kiện căn bản. Người ấy phải kinh nghiệm huyết là điều cho chúng
ta biết rằng tất cả những người đến cầu nguyện đều đã được cứu chuộc và được tẩy
sạch. Người ấy cũng phải kinh nghiệm lửa là điều nói với chúng ta rằng tất cả
những người đến đó cầu nguyện đều đã bị thiêu rụi và trở thành tro.
Vì vậy, thưa anh
chị em, nếu ánh sáng của Chúa chiếu trên anh em cách mạnh mẽ, lập tức anh em sẽ
không thể cầu nguyện cho nhiều điều. Việc giảm đi nhiều lời cầu nguyện của anh
em chứng tỏ anh em đang được thanh tẩy. Nếu nhìn nhận những lời cầu nguyện đó
là bởi lửa lạ, anh em sẽ thấy lời cầu nguyện đó không cần thiết, cũng không
dung đắn. Anh em sẽ không dám cầu nguyện những lời cầu nguyện vì chính minh,
không vì cớ Đức Chúa Trời vì chúng do anh em khởi xuóng chứ không do Đức Chúa
Trời khởi xướng. Sau khi anh em bị kết liễu bởi thập tự giá, sẽ có sự thanh tẩy
lớn trong lời cầu nguyện của anh em.
Một số người có
thể hỏi: “Vì theo cách đó chúng ta đã bị kết liễu, tại sao chúng ta lại cần xem
xét sự cầu nguyện? vì chúng ta đã trở thành tro, không biết nói cũng chẳng
nghĩ, nên mọi sự đã chấm dứt. Thế thì, chúng ta cần cầu nguyện về điều gì nữa?”.
Tro có nghĩa là mọi sự đã bị kết liễu. Tuy nhiên, đừng quên rằng lửa đốt thành
tro vẫn còn ở đó để xông hương trước mặt Đức Chúa Trời. Khi nghiên cứu các hình
bóng Cựu Ước, chúng ta được sáng tỏ rằng hương nói đến sự phục sinh của Chúa và
hương thơm của Chúa trong sự phục sinh của Ngài. Nơi nào có Chúa, nơi đó có sự
phục sinh. Nơi nào anh em và tôi bị kết liễu, nơi đó có sự hiển lộ của Đấng
Christ. Trước hết, chúng ta trải qua sự cứu chuộc của thập tự giá, và thực sự
trở thành tro trước mặt Đức Chúa Trời. Khi đó, lập tức Christ trở nên hương để
cúng ta xông trước mặt Đức Chúa Trời.
Vì vậy, nói cách
nghiêm túc, cầu nguyện vừa là chính Đấng Christ vừa là sự biểu lộ của Đấng
Christ. Lời cầu nguyện tốt, đúng đắn, thích đáng, chân thật và được Đức Chúa Trời
chấp nhận là sự biểu lộ Đấng Christ. Nếu anh em bị kết liễu trên thập tự giá
thì Đấng Christ sẽ sống ra từ sự kết liễu như vậy. Trong sự cầu nguyện, Đấng
Christ sẽ sống ra trong lời cầu nguyện. Trong nếp sống, Đấng Christ Phục Sinh
là nếp sống. Trong chức vụ, Đấng Christ Phục Sinh là chức vụ. Chỉ lời cầu nguyện
như vậy mới có thể chấp nhận trước mặt Đức Chúa Trời và được xem là lời cầu
nguyện có hương thơm ngọt ngào. Đó là lời cầu nguyện của người đã trải qua sự tẩy
sạch của huyết và sự kết liễu của lửa, bởi đó cho chép Đấng Christ lộ ra từ bên
trong.
Vì vậy, thưa anh
em, nếu thật sự có khải tượng về điều này, anh em sẽ phủ phục trước Đức Chúa Trời,
xưng nhận sự dơ bẩn và tình trạng thiên nhiên của mình. Anh em sẽ không thể khởi
xướng để thốt ra bất cứ lời cầu nguyện
nào khác. Anh em sẽ thấy nhu cầu được tẩy sạch bởi huyết và được thiêu rụi bởi
lửa. Anh em sẽ nói với Đức Chúa Trời rằng “Con là một kẻ ô uế, và con cũng là
người thiên nhiên. Cho đến hôm nay, con vẫn còn trong bản ngã thiên nhiên của
mình. Con cần huyết của Ngài tẩy sạch con và lửa của Ngài thiêu tụi con. Con cần
thập tự giá để cứu chuộc và cũng để kết liễu con”. Thưa anh em, khi cho phép thập
tự giá kết liễu mình, anh em có thể kinh nghiệm Đấng Christ lộ ra từ anh em
cách thực tế. Chính Đấng Christ Phục Sinh này trở nên lời cầu nguyện của anh
em, là hương mà anh em xông trước mặt Đức Chúa Trời.Có thể anh em không cầu
nguyện nhiều, nhưng những điều anh em cầu nguyện sẽ được Đức Chúa Trời đáp lời.
IV. HƯƠNG ĐƯỢC THÊM VÀO LỜI CẦU NGUYỆN
Khải Thị chương
8 cho chúng ta thấy rõ hai điều: lời cầu nguyện của các thánh đồ, và Thiên Sứ,
tức Chúa Jesus mang nhiều hương. Hương chỉ về Đấng Christ Phục Sinh. Hương này
được thêm vào lời cầu nguyện của các thánh đồ.
Thưa anh chị em,
cho phép tôi hỏi, Chúa Jesus có thể thêm hương vào mọi lời cầu nguyện của anh
em không? Không. Nếu muôn để Chúa Jesus trong sự phục sinh được thêm vào lời cầu
nguyện của anh em, chắc chắn lời cầu nguyện đó phải qua sự cứu chuộc của huyết
và sự kết liễu của thập tự giá. Những lời cầu nguyện trong Khải Thị chương 8 là
những lời cầu nguyện của sự chết và sự phục sinh, vậy nên, một khi hương của những
lời cầu nguyện đó được dâng trước mặt Đức Chúa Trời, lập tức có sấm chớp đổ xuống
đất. Điều này có nghĩa là Đức Chúa Trời nghe và đáp lại những lời cầu nguyện đó
của chúng ta, những người ở trong sự chết và sự phục sinh.
Khải Thị chương
8 cho chúng ta thấy Đức Chúa Trời trong sự quản trị của Ngài sẽ phán xét thời đại
này như thế nào. Nhưng sự phán xét này đang chờ lời cầu nguyện của những người
đã tiếp nhận sự cứu chuộc của huyêt và sự kết
liễu bởi thập tự giá. Sự phán xét này đang chờ nhiều lời cầu nguyện của
những người đã được phục sinh để theo đuổi tấm lòng Ngài và đứng trên vị trí sự
chết, bởi đó cho phép Đấng Christ Phục Sinh được kết hiệp với lời cầu nguyện của
họ. Vì vậy, đó sẽ là những lời cầu nguyện lớn có thể phán xét và kết thúc thời
đại này. Chúng tôi xin lặp lại, lý do họ có thể cầu nguyện cho những điều cao
trọng và lớn lao nư vậy là vì họ đã bị kết liễu tại thập tự giá và có thể để
cho Đấng Christ Phục Sinh được thêm vào lời cầu nguyện của họ. Đó là ý nghĩa của
việc hương được thêm vào lời cầu nguyện.
Trước đây, chúng
tôi đã nói rằng lời cầu nguyện thật là Đấng Christ trong chúng ta cầu nguyện với
Đấng Christ trên trời. Ở đây, chúng ta có một nan đề. Là những người đầy ý kiến,
làm thế nào Đấng Christ có thể tìm đường để biểu lộ ra từ lời cầu nguyện của
chúng ta? Để Ngài có con đường, chúng ta cần trải qua sự tẩy sạch của huyết và
sự kết liễu bởi lửa. Những người bị kết liễu thì không có ý kiến. Tại thập tự
giá, chúng ta nhận được sự cứu chuộc và sự kết liễu. Khi ấy, Đấng Christ trong
chúng ta có thể liên hiệp với chúng ta và mặc lấy chúng ta để cầu nguyện. Vì vậy,
lời cầu nguyện của chúng ta là Đấng Christ biểu lộ Ngài qua chúng ta thì đó là
hương được thêm vào lời cầu nguyện của chúng ta.
Có người nói rằng
hương ở đây chỉ về phẩm chất đáng khen của Đấng Christ. Thật như vậy, nhưng còn
hơn thế, hương nói đến Đấng Christ Phục Sinh. Hương bao gồm những phẩm chất
đáng khen của Ngài, tất cả những gì Ngài là, tất cả những gì Ngài đã hoàn
thành, và tất cả những gì Ngài đã thực hiện. Đấng Christ Phục Sinh cùng với
toàn bộ công tác và thành quả của Ngài là hương. Hễ khi chúng ta tiếp nhận sự cứu
chuộc của huyết và ở trong sự kết liễu của thập tự giá thì Đấng Christ trong chúng
ta được kết liễu với chúng ta. Khi chúng ta cầu
nguyện, ấy là Christ cầu nguyện. Lúc đó, lời cầu nguyện của chúng ta là sự biểu
lộ của Đấng Christ. Kết quả là, trước mặt Đức Chúa Trời những lời cầu nguyện
này là hương có thể được Đức Chúa Trời chấp nhận và sẽ được Đức Chúa Trời đáp lời.
Những lời cầu nguyện trước mặt Đức Chúa Trời phải có hai
phương diện. Chúng bao gồm lời cầu nguyện của con người, và hương của Đấng
Christ Phục Sinh được thêm vào lời cầu nguyện đó. Trong Khải Thị chương 5 chỉ
có lời cầu nguyện của các thánh đồ- chỉ có những bát bằng vàng mà không có
hương được thêm vào trong. Vì vậy, không có sự đáp lời cầu nguyện. Sự đáp lời cầu
nguyện được dựa trên sự kiện hương được thêm vào lời cầu nguyện đó. Trong
chương 8, có một bức tranh trọn vẹn. Có lời cầu nguyện của các thánh đồ, và
cũng có Đấng Christ Phục Sinh như hương được thêm vào những lời cầu nguyện đó.
Cả hai được dâng trước mặt Đức Chúa Trời. Đồng thời, cũng có sự đáp lời cầu
nguyện được đổ xuống. Đó là kết quả sau cùng của lời cầu nguyện dựa trên kinh
nghiệm thập tự giá.