Thứ Tư, 16 tháng 11, 2016

Các nguyên tắc của sự cầu nguyện-5




- ( Ts Myles Munroe)
Phần 5-
Đức Chúa Trời nói, "Abraham, Ta đã có đủ lí do đối với Sô đôm và Gô-mô-rơ. Ta sẽ tiêu diệt chúng." Abraham nói: "Vậy tại sao Ngài đến với con làm chi?" "Bởi vì Ta cần một con người. Ta cần một ai đó để cho Ta được phép làm việc." Sau đó, Abraham tạo ra một thỏa thuận với Đức Chúa Trời. Và Đức Chúa Trời đã phối hợp với thỏa thuận này.
Đức Chúa Trời nói: "Môi-se, Ta đã nghe tiếng kêu la của dân Ta. Ta đã đến để giải cứu họ." Môi-se nói: "Vậy tại sao Chúa đến với con chi nữa?" Đức Chúa Trời nói, "Bởi vì con là một con người, Môi-se. Tôi cần sự cho phép của con". Cầu nguyện không phải là một lựa chọn. Đó là một điều cần thiết. Chủ đề của hội nghị này là "sự can thiệp siêu nhiên ». Và cách duy nhất để Chúa can thiệp cách siêu nhiên, là Ngài cần một con người. Và Giêsu nói: "con người phải cầu nguyện luôn và không bao giờ mệt mỏi."
Và Chúa Giêsu đã nói, "Tôi đã trao cho ngươi các chìa khoá của vương quốc". Sau đó, Ngài nói, "Ở đây họ đang có, bất cứ điều gì mà các ngươi buộc dưới đất, thì trời có thể buộc theo. Và bất cứ điều gì ngươi mở trên trái đất, khi đó trời có thể mở ra nữa.

Các nguyên tắc của sự cầu nguyện-4




- ( Ts Myles Munroe)
Phần 4-
-
Đó là những gì của một con người. Một “con người” là 2 từ ngữ (hu +man) đặt lại với nhau. Đó là con người đất mùn. Mùn có nghĩa là bụi đất, con người có nghĩa là sự ra đời. Đưa con người vào bên trong bụi đất, nó được gọi là một con người đất mùn. Chúng ta gọi nó là con người. Con người là một bí ẩn. Con người là một tâm linh ở trong một cơ thể bụi bẩn. Nói cách khác, con người là một tích hợp vật chất và thuộc linh. Bạn có một tâm linh, nhưng bạn sống trong một cơ thể. Cơ thể của bạn là đất mùn, đó là bụi bẩn. Nhưng bạn là một con người, tâm linh. Vì vậy, khi Đức Chúa Trời đặt chúng ta vào trong một cơ thể, mùn. Ngài đặt con người trong mùn. Và do đó, chúng ta đã trở thành một con người mùn hoặc một con người.
Với tạo vật mà Đức Chúa Trời nói, "hãy cho họ có sự chế ngự trái đất”. Vì vậy, là sinh vật duy nhất, ở đây là chìa khóa, có quyền pháp lý trên trái đất, là một con người. Tạo vật duy nhất mà Đức Chúa Trời nói, "hãy có sự quản trị, hãy chế ngự trái đất," là một con người. Con người là gì? Một tâm linh ở trong một cơ thể. Điều đó có nghĩa bất kỳ tâm linh nào mà không có một cơ thể là bất hợp pháp ở đây trên trái đất.
Hãy theo tôi cách cẩn thận. Vì vậy, để cho Đức Chúa Trời có được bất cứ điều gì được thực hiện trên trái đất, Ngài đã phải tuân theo lời của mình. Thực tế, Kinh Thánh nói, "Đức Chúa Trời nói rằng Ta đã đặt lời của Ta ở trên Danh của Ta." (Vì Chúa đã làm cho lời Chúa đựợc tôn cao hơn cả danh Chúa-Thi 138:2b). Bạn đã biết, tiếng Hê-bơ-rơ dùng cho chữ "tên--Danh" cũng có nghĩa là "có". Được. Trong tiếng Hê-bơ-rơ tên của một điều là một điều.

Các nguyên tắc của sự cầu nguyện-3




- ( Ts Myles Munroe)

Phần 3-

Bây giờ những người như bạn, như tôi đã đến Israel nhiều lần, và hầu hết chúng ta là những người đến từ phương đông nào biết ngày đó ở trung đông bắt đầu cho những người đi đến thị trấn và những người có hàng để bán ra thị trường như thế nào. Họ có thể bắt đầu từ 4:30 đến 5 buổi sáng. Đó là khi ngày mới bắt đầu ở phương đông. Vấn đề của thực tế, ngày bắt đầu với mặt trời mọc. Mặt trời thường mọc khoảng 4 giờ. Ngài thức dậy khi nào? Một khoảng thời gian trước ngày mới, có nghĩa là Ngài đã phải thức dậy khoảng 3 giờ mỗi buổi sáng để cầu nguyện. Và khi các môn đệ thức dậy thì Ngài đã hoàn thành sự thông công toàn bộ của mình với Cha. Ngài  đã cầu nguyện có lẽ 3,4,5,6, trung bình tối thiểu là 4 giờ cầu nguyện mỗi buổi sáng.
Các môn đồ đã ngạc nhiên. Mỗi khi họ thức dậy, Ngài đã làm điều này vừa xong. Ngài đã làm điều đó mỗi sáng trải mấy giờ. Rồi khi Ngài đã hoàn thành điều này mà được gọi là cầu nguyện, sau đó Ngài sẽ nói, "chúng ta hãy đi đến thị trấn." Ngài sẽ  xuống núi và đi bộ vào thành phố và Ngài sẽ làm một cái gì đó cách say mê. Có thể Ngài đến với một người mù và nói, "tôi có thể làm gì cho bạn?" Người mù nói: "Tôi muốn được sáng mắt" và Ngài sẽ chỉ nói cho  người đó, "Hãy nhìn thấy", và Ngài được điều đó cách dễ dàng . Một phần nhỏ của một giây, và đôi mắt của người đó đã được mở ra.

Thứ Ba, 8 tháng 11, 2016

PHÚC ÂM GIĂNG BÀI 30-




SỰ BAN PHÁT ĐỨC CHÚA TRỜI TAM NHẤT ĐỂ SINH RA NƠI CƯ NGỤ CỦA NGÀI (2)

C. Nhiều Chỗ Ở Là Nhiều Chi Thể Của Thân Thể Đấng Christ, Tức Là Hội Thánh
Trong nhà Cha có nhiều chỗ ở (14:2). Từ ngữ Hi Lạp mang ý nghĩa “chỗ ở” trong câu 2 là hình thức số nhiều của cùng một chữ được dịch là “chỗ ở” trong câu 23. “Chỗ ở” có nghĩa là gì? Nhiều chỗ ở tức là nhiều Chi thể của Thân thể Đấng Christ (La. 12:5), là đền thờ của Đức Chúa Trời (1 Côr 3:16-17). Thân thể của Chúa có nhiều Chi thể, và mỗi Chi thể là một chỗ ở. Nhiều chỗ ở là nhiều Chi thể của Thân thể. Điều này được câu 23 minh chứng cách đầy đủ. Câu này nói Chúa cùng với Cha sẽ lập chỗ ở với người yêu Ngài. Mỗi người yêu của Jesus là một chỗ ở. Tất cả chúng ta là những chỗ ở của công trình xây dựng của Đức Chúa Trời. Công trình xây dựng này là Thân thể Đấng Christ, và tất cả những chỗ ở là những Chi thể của Thân thể Đấng Christ.

PHÚC ÂM GIĂNG BÀI 29 -




SỰ BAN PHÁT ĐỨC CHÚA TRỜI TAM NHẤT ĐỂ SINH RA NƠI CƯ NGỤ CỦA NGÀI (1)

Trong bài này chúng ta đến trọng tâm của Phúc Âm Giăng. Chương mười bốn là phần đầu của sứ điệp Chúa ban cho các môn đồ trước khi Ngài chết. Để hiểu sứ điệp ấy, chúng ta phải nhớ rằng Phúc Âm này khải thị hai điểm chính: một là Chúa đến để làm sự sống của chúng ta; hai là Chúa xây dựng chúng ta với nhau trong sự hiệp nhất với chính Ngài và với Đức Chúa Trời. Như chúng tôi đã đề cập, hai từ ngữ quan trọng nhất trong Phúc Âm này là sự sống và sự xây dựng. Từ ngữ xây dựng được nhắc đến cách rõ ràng trong chương hai, vì trong chương ấy chúng ta được biết trong ba ngày Chúa sẽ xây dựng đền thờ, là nhà của Đức Chúa Trời (c. 19). Kế đến, trong chương mười bảy, Chúa cầu nguyện để những người nhận Chúa làm sự sống có thể hiệp một trong Đức Chúa Trời Tam Nhất (cc. 21-23). Sự hiệp nhất trong Đức Chúa Trời Tam Nhất này là sự xây dựng thuộc linh. Khi chúng ta nhận Chúa làm sự sống, Chúa là Linh sẽ xây dựng chúng ta với nhau làm một trong Đức Chúa Trời Tam Nhất. Sự sống và sự xây dựng, tức tư tưởng trung tâm của Phúc Âm này, là hai điều dứt khoát chúng ta cần phải nhớ. Như chúng tôi đã nêu, Phúc Âm này được chia làm hai phần chính. Phần một cho thấy sự đến của Chúa, và phần hai cho thấy sự đi của Ngài. Sự đến của Chúa đem Đức Chúa Trời vào trong chúng ta bởi sự nhục hóa, và sự đi của Chúa đem chúng ta vào trong Đức Chúa Trời qua sự chết và sự phục sinh của Ngài. Bởi sự đến của Chúa, chúng ta nhận Ngài làm sự sống, và bởi sự đi của Ngài, Ngài xây dựng chúng ta vào trong Đức Chúa Trời. Nếu không sáng tỏ về điều ấy, chúng ta sẽ không bao giờ nhận biết được ý nghĩa thật và tư tưởng chính của Phúc Âm này.

PHÚC ÂM GIĂNG BÀI 28




SỰ SỐNG TẨY RỬA TRONG TÌNH YÊU ĐỂ DUY TRÌ MỐI TƯƠNG GIAO (2)

II. CÁC TÍN ĐỒ RỬA CHÂN CHO NHAU
Chúng ta đã thấy chính Chúa thực hiện việc rửa chân. Bây giờ tôi muốn chia sẻ về việc các tín đồ rửa chân cho nhau (cc. 12-17). Không những chúng ta cần được chính Chúa trực tiếp rửa sạch, mà còn cần rửa chân cho nhau cách hỗ tương. Chúa bảo chúng ta rửa chân cho nhau. Như tôi đã đề cập, đôi khi chúng ta phải giữ lời Chúa theo nghĩa đen. Tuy nhiên, thậm chí ở một mức độ cao hơn chúng ta phải giữ lời Ngài theo nghĩa thuộc linh. Chúng ta cần phải rửa chân cho nhau bằng cách cung ứng công tác của Thánh Linh, cung ứng sự soi sáng của Lời, và cung ứng sự vận hành của sự sống bề trong. Nhờ làm như vậy, tôi giúp đỡ anh em, anh em giúp đỡ tôi, và chúng ta giúp đỡ lẫn nhau để được rửa sạch trong công tác của Thánh Linh, trong ánh sáng của Lời, hoặc trong sự vận hành của sự sống bề trong. Mỗi khi anh em chúng ta nhóm lại để tương giao và cầu nguyện, chúng ta cần rửa chân cho nhau cách thuộc linh. Chính bởi rửa chân cho nhau cách thuộc linh, chúng ta được sạch bụi bặm do tiếp xúc với trần thế. Anh em thân mến, anh em có bao giờ xem xét mình cần sự rửa chân hỗ tương này đến mức độ nào không? Đang khi còn bước đi và làm việc trên đất này, không những anh em cần Chúa rửa chân cho mình trực tiếp trong linh, mà cũng cần các anh chị em rửa chân cho mình nữa.

PHÚC ÂM GIĂNG BÀI 27




SỰ SỐNG TẨY RỬA TRONG TÌNH YÊU ĐỂ DUY TRÌ MỐI TƯƠNG GIAO (1)

Trong bài này chúng ta đến chương 13, là một chương rất thú vị và đầy ý nghĩa. Có lẽ tất cả các Cơ Đốc nhân đều biết có một chương thuật về việc Chúa rửa chân cho các môn đồ trong các sách Phúc Âm. Người nào cũng thấy chương này có vẻ dễ hiểu, nhưng thật ra nhận biết ý nghĩa thật của chương này là điều không dễ chút nào. Thông thường các Cơ Đốc nhân chỉ tin rằng rửa chân cho người khác là bày tỏ tình yêu đối với họ. Thậm chí một số tín đồ còn nhất định giữ việc rửa chân mỗi khi đến bàn của Chúa. Tại bàn của Chúa, họ rửa chân cho nhau để bày tỏ tình yêu đối với nhau. Điều này chẳng có gì sai nếu không biến việc này thành lề luật. Nếu không làm thành lề luật, thì những cơ hội bày tỏ tình yêu đối với nhau bằng cách rửa chân cho nhau ấy cũng tốt. Trong quá khứ có vài lần tôi rửa chân cho những người khác, và những người khác rửa chân cho tôi. Thỉnh thoảng chúng ta phải để Chúa dẫn dắt và chỉ bảo mình làm điều này cho nhau. Nhưng việc rửa chân tượng trưng cho một điều quan trọng hơn. Như chúng ta đã thấy, mọi sự đề cập trong Phúc Âm này là dấu hiệu nói lên một điều gì đó thuộc linh và sâu xa hơn. Vì vậy, rửa chân cũng là dấu hiệu tượng trưng cho một điều gì đó thuộc linh và sâu xa hơn. Tìm ra ý nghĩa thuộc linh của dấu hiệu này là điều khá khó khăn. Như thế, ý nghĩa thuộc linh sâu hơn của dấu hiệu này là gì?

Các nguyên tắc của sự cầu nguyện-2




- (Ts Myles Munroe)
PHẦN 2.
-
Nếu bạn tin điều đó, sau đó bạn sẽ làm điều này mà được gọi là cầu nguyện. Khi bạn cầu nguyện. Và mọi tín nhân biết họ phải cầu nguyện. Sự nhóm họp ít người nhất tại mỗi nhà thờ vẫn là cuộc họp cầu nguyện. Bởi vì sự cầu nguyện được coi là cách cuộn các người cầu thay lại với nhau. Sách dạy cầu nguyện như là sách dạy cách nấu ăn. Chúng ta đọc các sách đó và sau đó chúng ta không hành động. Nhưng tôi có một số câu hỏi về sự cầu nguyện mà đã quấy rầy tôi trong nhiều năm qua. Một số câu hỏi mà có thể gây sốc cho bạn.

1.Nếu Đức Chúa Trời là tối thượng, tại sao ta còn phải cầu nguyện? Hãy suy nghĩ về điều đó một phút. Nếu Đức Chúa Trời có quyền tối cao, thì tại sao chúng ta nên cầu nguyện? Đó là một câu hỏi tốt. Nếu Đức Chúa Trời là tối thượng,  điều đó có nghĩa Ngài có thể làm bất cứ điều gì Ngài muốn làm. Vậy tại sao chúng ta nên cầu nguyện nếu Đức Chúa Trời  có quyền tuyệt đối rồi? Ngài sẽ làm những gì Ngài cảm thấy cần phải làm, như vậy tại sao cầu nguyện? Đó là một câu hỏi tốt.

Các nguyên tắc của sự cầu nguyện-1




- (Myles Munroe)

PHẦN 1

Một trong những điều mà tôi đã theo đuổi trong 32 năm qua là để hiểu tâm trí của Đức Chúa Trời. Tâm trí của Đức Chúa Trời  thì quan trọng hơn  bàn tay của Đức Chúa Trời. Bàn tay của Đức Chúa Trời đụng đến các hành động của Ngài. Nhưng tâm trí Đức Chúa Trời giao tiếp với cách thức của Ngài. Môi-se biết những đường lối  của Đức Chúa Trời . Dân chúng  biết hành động của Đức Chúa Trời.  Những người biết hành động của Đức Chúa Trời hiếm khi có một mối liên hệ với Đức Chúa Trời. Nhưng những người biết đường lối của Đức Chúa Trời , và tâm trí của Đức Chúa Trời, thì có một sự thân mật càng phát triển và tạo ra một sự tin cậy với Đức Chúa Trời mà chỉ có thiên đàng biết họ. Và môi-se đã có sự đáng tin đó. Và như tôi theo đuổi để hiểu vấn đề này về mục đích, tôi phát hiện ra rằng  mục đích nầy là điều quan trọng nhất trong cuộc sống. Tôi tin rằng  thảm kịch vĩ đại nhất trong cuộc sống không phải là sự chết, nhưng bi kịch lớn nhất trong cuộc sống là sống mà không có mục đích.

Thứ Hai, 7 tháng 11, 2016

NHỮNG AI ĐẬU VÀO NƯỚC NGÀN NĂM?- 29-




Những người bỏ mất mạng sống-
-
Ai tìm được mạng sống mình thì phải mất, còn ai vì cớ ta mà mất mạng sống mình thì sẽ tìm lại được-Mathio 10:39
-
Trong Kinh thánh tiếng Hi lạp có ba chữ  mà tiếng Việt có thể dịch tổng quát là: “sự sống”-
1.     zoe: sự sống đời đời của Đức Chúa Trời
2.     Bios: sự sống vật lí của sinh vật, như sự sống cơ thể chúng ta.
3.     Psuchē: sự sống hồn người, có thể dịch là hồn, sự sống của hồn người, mạng sống và bản ngã.
Trong chỉ một câu Kinh thánh nầy, Chúa Jesus nói rõ rằng ai tìm được sự sống hồn mình trong đời nầy thì đời sau là nước ngàn năm, anh ta không được tham dự. Còn những ai bỏ mất mạng sống hồn mình trong đời nầy thì đời sau anh ta sẽ tham dự nước ngàn năm của Chúa.
--Tìm được sự sống hồn là cho phép có sự vui hưởng thoải mái của nó trong đời nầy, như ham muốn vô độ về các phương diện kể cả ăn uống, và nhất là tìm cách cho hồn mình tránh chịu đau khổ vì Chúa.  Có nhiều tín đồ chân thật của Chúa cho hồn của minh “đi theo đường lối lòng mình muốn, và nhìn xem sự mắt mình ưa thích”. Truyền đạo 2:10 , vua Sa-lô-môn tự chứng, “Ta chẳng từ điều gì mắt mình ước ao, cũng chẳng cấm điều gì lòng mình ưa thích”
Đó là những hồn của tín đồ no nê mọi sở thích của hồn mình, thì họ sẽ mất hồn mình vào ngày Chúa quang lâm. Mất đây là họ không được cứu khỏi nơi hình phạt kỉ luật Chúa dành cho nhưng người có hồn thỏa mãn về đời sống vật dục hôm nay. Hồn họ sẽ chịu khổ trong nơi đó,
Nếu tín đồ của Chúa cho phép hồn họ có sự hưởng thụ trong thời đại nầy, họ sẽ làm cho hồn mình chịu đựng mất mát sự tận hưởng thời đại vương quốc sắp đến.
--Còn mất sự sống hồn là khiến cho hồn mất mọi sự hưởng thụ trần gian và còn chịu đau khổ vì Danh Chúa và hội thánh Ngài. Nếu họ cho hồn họ chịu mất sự hưởng thụ trong thời đại nầy vì cớ Chúa Jesus, họ sẽ có đủ khả năng làm cho hồn mình sống trong nước ngàn năm sắp đến, đó là dự phần niềm vui của Đức Vua và cai trị trên trái đất.
Minh Khải 6-11-2016

NHỮNG AI ĐẬU VÀO NƯỚC NGÀN NĂM?- 28-




Những người ngồi dựa bàn với Áp-ra-ham-
-
Mathio 8:11-12-Ta nói cùng các ngươi, có nhiều người từ đông, tây sẽ đến mà ngồi bàn với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp trong nước trời.  Nhưng con cái nước nhà sẽ bị quăng ra chốn tối tăm ở ngoài, tại đó sẽ có khóc lóc và nghiến răng."
-
Khi đọc trong trang Đức Tin Lẽ Thật, bạn tôi cũng như tôi thấy sao ít người đọc và like bài đăng trong đó, trong khi những bài có tính sơ cấp như Bài tín điều sứ đồ, thì cả trên 100 độc giả like. Tôi đáp với bạn tôi rằng vì đa phần dân Chúa còn non nớt, họ thích uống sữa, chứ không thể tiếp nhận nỗi đồ ăn cứng. Còn những người trưởng thành ăn được thứ ăn cứng trong ĐTLT thì họ đọc thì có đọc  nhưng không hề nhấp chữ like.

PHÚC ÂM GIĂNG BÀI 26




KẾT QUẢ VÀ SỰ GIA TĂNG BỘI PHẦN CỦA SỰ SỐNG (2)

II. SỰ SỐNG GIA TĂNG GẤP BỘI NHỜ SỰ CHẾT VÀ SỰ PHỤC SINH
Trong bài này chúng ta đến phần thứ hai của sách Giăng chương mười hai. Trong phần đầu của chương ấy, theo hình bóng chúng ta thấy, Hội thánh hiện hữu nhờ Chúa là sự sống phục sinh. Chúng ta có Hội thánh bởi sự sống phục sinh của Ngài. Nhưng làm thế nào Chúa phát triển Hội thánh? Điều này được bày tỏ trong phần thứ hai của chương ấy (cc. 12-36a). Phần đầu cho thấy làm thế nào để có Hội thánh. Còn phần thứ hai cho thấy thế nào Chúa phát triển Hội thánh qua sự chết và sự phục sinh của Ngài.

A. Thời Hoàng Kim Của Jesus
Vào thời điểm này, theo cái nhìn của thế gian, Jesus đang ở giai đoạn hoàng kim của đời mình. Việc Ngài làm cho La-xa-rơ từ người chết sống lại là một phép lạ gây chấn động cho mọi người. Thật là một phép lạ khi một người chết, chôn đã bốn ngày, thậm chí đã có mùi, mà sống lại. Vì Chúa đã làm cho La-xa-rơ từ người chết sống lại, nên nhiều người Do Thái tôn cao Ngài và nồng nhiệt chào đón Ngài (cc. 12-19). Họ chào mừng Ngài bằng cách tung hô: “Hô-sa-na, chúc tụng Đấng đến trong danh Chúa, là Vua của Israel!” Nói theo loài người, đó là giờ vinh hiển nhất của Chúa khi Ngài ở trên đất. Mọi người ngợi khen Ngài, chào đón Ngài, tôn trọng Ngài, và kính nể Ngài. Ngay cả người Hi Lạp cũng đến tìm Ngài (cc. 20-22). Người Do Thái chào đón Ngài, và người Ngoại Bang, tức người Hi Lạp muốn theo Ngài. Chúa có thể sản sinh ra Hội thánh và phát triển Hội thánh bằng cách nhận lấy sự chào mừng và tôn trọng ấy không? Không, đó không phải là phương cách sản sinh hay phát triển Hội thánh. Đó không phải là cách làm cho Hội thánh hiện hữu và gia tăng trong sự sống.

PHÚC ÂM GIĂNG BÀI 25




KẾT QUẢ VÀ SỰ GIA TĂNG BỘI PHẦN CỦA SỰ SỐNG (1)

Trong bài này chúng ta đến một phân đoạn chính khác trong Phúc Âm Giăng. Chúng ta đã thấy Phúc Âm này gồm có hai phần: Lời đời đời nhục hóa đến để đem Đức Chúa Trời vào trong con người (chương 1–13), và Jesus bị đóng đinh và Đấng Christ phục sinh đi dọn đường đem con người vào trong Đức Chúa Trời, và là Linh đến để cứ ở và sống trong các tín đồ để xây dựng nơi ở của Đức Chúa Trời (chương 14–21). Chúng ta đã bàn đến ba phân đoạn đầu của phần chính thứ nhất: giới thiệu sự sống và sự xây dựng (1:1-51); nguyên tắc của sự sống và mục đích của sự sống (2:1-22); và sự sống đáp ứng nhu cầu của con người trong mọi trường hợp (2:23–11:57). Nguyên tắc của sự sống là thay đổi sự chết thành ra sự sống (2:1-11), và mục đích của sự sống là xây dựng nhà Đức Chúa Trời (2:12-22). Bắt đầu với chương ba, chúng ta thấy chín trường hợp minh họa cách Đấng Christ là sự sống có thể đáp ứng mọi nhu cầu của loài người để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời. Điều đó đem chúng ta đến cuối chương mười một. Sau đó trong chương 12, Phúc Âm này khải thị kết quả của việc Đấng Christ trở nên sự sống cho con người, đó là sản sinh ra Hội thánh. Hội thánh, là nhà yến tiệc, là nơi Chúa có thể nghỉ ngơi và được thỏa mãn. Kết quả của việc Đấng Christ trở nên sự sống cho con người là Hội thánh. Như vậy thì sự gia tăng bội phần của sự sống là gì? Trong chương mười hai chúng ta thấy một Hội thánh nhỏ. Hội thánh ấy nhỏ về số lượng, về tầm cỡ, và về sự tăng trưởng của sự sống. Làm thế nào Hội thánh ấy có thể gia tăng bội phần? Ấy là bởi sự gia tăng bội phần của sự sống. Kết quả của sự sống là sản sinh ra Hội thánh, và sự gia tăng bội phần của sự sống là làm gia tăng Hội thánh về tầm cỡ, về số lượng và về sự tăng trưởng của sự sống.

PHÚC ÂM GIĂNG BÀI 24




NHU CẦU CỦA NGƯỜI CHẾT – SỰ SỐNG LÀM SỐNG LẠI (2)

Qua việc xem xét các dấu lạ trong Phúc Âm Giăng, chúng ta có thể nhận thức trước hết Chúa đến với chúng ta như sự sống. Loại chướng ngại đầu tiên mà Ngài gặp là tôn giáo của người Do Thái, và loại thứ hai là các ý kiến loài người mà những người yêu Ngài nắm giữ. Ngày nay trong Hội thánh của Ngài, chướng ngại đến từ những ý kiến con người cũng y hệt như vậy. Vô số ý kiến của những người yêu Chúa nhất đang ngăn trở Chúa, khiến cho Ngài không làm sự sống phục sinh trong Hội thánh được. Bên ngoài Hội thánh, tôn giáo cản trở Chúa làm sự sống. Nhưng bên trong Hội thánh, những ý kiến bất tận cũng cản trở Ngài làm sự sống của chúng ta.

Chín trường hợp ấy rất ý nghĩa vì đã bày tỏ rằng Chúa là sự sống bắt đầu với sự tái sinh và kết thúc với sự phục sinh. Tất cả những trường hợp này là những dấu lạ cho thấy Chúa đến với chúng ta như sự sống trong các phương diện khác nhau. Kinh nghiệm về Chúa là sự sống của chúng ta bắt đầu với sự tái sinh và đạt đến đỉnh điểm ở sự phục sinh.

PHÚC ÂM GIĂNG BÀI 23




NHU CẦU CỦA NGƯỜI CHẾT – SỰ SỐNG LÀM SỐNG LẠI (1)

Trường hợp làm cho La-xa-rơ sống lại từ người chết chắc chắn là một trường hợp kỳ diệu. Ở đây chúng ta thấy trường hợp của một người đã chết, đã chôn bốn ngày và bắt đầu có mùi. Tuy nhiên, người ấy đã được sống lại. Tại sao ba sách Phúc Âm kia không ghi lại trường hợp kỳ diệu này? Dầu trường hợp này rất kỳ diệu, ba sách Phúc Âm kia không nói gì về trường hợp này cả. Trường hợp phục sinh này không thích hợp với mục đích của ba sách Phúc Âm kia, mà chỉ phù hợp với Phúc Âm Giăng mà thôi. Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca là những Phúc Âm được viết ra với mục đích khác hơn là trình bày về sự sống. Giăng là Phúc Âm về sự sống. Vì vậy, Thánh Linh giữ trường hợp này lại cho Giăng. Sự kiện này chứng minh Phúc Âm Giăng là sách sự sống.

PHÚC ÂM GIĂNG BÀI 22




NHU CẦU CỦA NGƯỜI MÙ TRONG TÔN GIÁO – THỊ GIÁC CỦA SỰ SỐNG VÀ SỰ CHĂN DẮT CỦA SỰ SỐNG (2)

Bây giờ chúng ta đến Giăng chương 10. Đây là chương rất thích thú, nhưng cũng là chương bị hiểu lầm. Chương này thật sự là phần tiếp theo chương chín. Câu 21 giúp chúng ta nhận biết điều này, vì câu hỏi được nêu lên: “Quỉ há có thể mở mắt kẻ mù được sao?” Cả hai chương đều xoay quanh bản ký thuật về trường hợp người mù bẩm sinh. Ý tưởng của chương này thật sâu sắc. Ở bề mặt, dường như chương này dễ hiểu, nhưng thật ra hiểu được ẩn dụ hay tỉ dụ này không phải là dễ. Chúa đưa ra tỉ dụ về chuồng chiên ngay sau khi Ngài chữa lành người mù, là người bị người Do Thái đuổi ra khỏi nhà hội. Vì vậy, biến cố này trở nên bối cảnh cho ẩn dụ về chuồng chiên.

PHÚC ÂM GIĂNG BÀI 21





NHU CẦU CỦA NGƯỜI MÙ TRONG TÔN GIÁO –THỊ GIÁC CỦA SỰ SỐNG VÀ SỰ CHĂN DẮT CỦA SỰ SỐNG (1)

Như chúng tôi đã đề cập, chín trường hợp trong Phúc Âm Giăng được chia ra làm hai nhóm. Sáu trường hợp đầu bày tỏ thế nào Chúa, là sự sống của chúng ta, có thể ứng xử với những điều tích cực, trong khi ba trường hợp sau bày tỏ thế nào Chúa, là sự sống của chúng ta, có thể xử lý những điều tiêu cực. Chúng ta hãy ôn lại các trường hợp ấy một lần nữa. Sáu trường hợp đầu bày tỏ Chúa là sự sống để tái sinh, làm thỏa mãn, chữa lành, làm sống động, nuôi dưỡng và làm hết khát. Sáu dấu hiệu này tạo thành một nhóm vì bàn đến những phương diện tích cực của sự sống Ngài. Ba trường hợp sau giải quyết những điều tiêu cực về tội, sự đui mù và sự chết. Tội gây nên sự đui mù và dẫn đến sự chết. Vì vậy, ba điều đó – tội, sự đui mù và sự chết – tạo thành một nhóm bày tỏ thế nào Chúa, là sự sống của chúng ta, giải quyết những điều tiêu cực này. Trong sáu trường hợp đầu Chúa đem chúng ta đến những điều tích cực, nhưng trong ba trường hợp sau, Ngài giải cứu chúng ta khỏi những điều tiêu cực vì Ngài giải cứu chúng ta khỏi tội, sự đui mù và sự chết.

Chủ Nhật, 30 tháng 10, 2016

PHÚC ÂM GIĂNG BÀI 20


NHU CẦU CỦA NHỮNG NGƯỜI Ở DƯỚI ÁCH NÔ LỆ CỦA TỘI – SỰ SỐNG GIẢI THOÁT (2)

F. Phương Cách Giải Thoát
1. Nhờ Ánh Sáng Của Sự Sống
Chúa Jesus giải thoát chúng ta khỏi tội bằng cách nào? Ngài làm điều đó bằng cách vào trong chúng ta như ánh sáng của sự sống. Ánh sáng này không phải ở bên ngoài chúng ta; mà ở bên trong chúng ta. Khi chúng ta tiếp nhận Chúa, Ngài vào trong chúng ta làm sự sống của chúng ta. Đó là sự sống cư ngụ bên trong bây giờ chiếu sáng chúng ta. Đó là ánh sáng. Sự chiếu sáng của sự sống cư ngụ bên trong này sẽ dần dần và tự phát làm cho chúng ta được tự do. Được tự do khỏi ách nô lệ của tội không phải là vấn đề một sớm một chiều, mà đòi hỏi phải có thời gian. Mặc dầu anh em được làm cho sống động trong một giây, nhưng được tự do khỏi tội thì không đơn giản như vậy.

Chúng ta có thể dùng tính nóng nảy của mình để minh họa. Mọi người đều nóng tính. Nếu không nóng tính, anh em không phải là người. Cái bàn không nóng tính. Dầu anh em đập cái bàn bao nhiêu chăng nữa, nó sẽ không bao giờ mất bình tĩnh vì nó đâu có bình tĩnh để mà mất. Còn anh em thì sao? Mỗi người ít nhiều đều nóng nảy, và tính nóng nảy này là biểu hiện đầu tiên của bản chất rắn độc trong chúng ta. Biểu hiện chủ yếu của Sa-tan trong chúng ta là tính nóng nảy. Khi một người nổi nóng, bề ngoài của người ấy trông giống con rắn. Khi nổi nóng, không ai trông giống thiên sứ cả. Khi nổi nóng với vợ mình, anh em trông giống như một con quỉ. Khi một bà mẹ nhân từ nổi nóng với con mình, đứa con sẽ sợ hãi vì bà trông giống như một con quỉ. Khi chúng ta nổi nóng, bản chất rắn độc bày tỏ ra. Tánh nóng nảy của chúng ta quấy rầy chúng ta rất nhiều; nó làm chúng ta bối rối luôn. Suốt năm mươi năm làm một Cơ Đốc nhân tìm kiếm Chúa, không điều gì quấy rầy tôi nhiều hơn là tính nóng nảy của mình. Thật khó thoát khỏi tính nóng nảy của mình biết bao! Qua kinh nghiệm bản thân, tôi có thể làm chứng rằng từ ngày Chúa Jesus vào trong tôi, Ngài đã trở nên sự sống của tôi. Sự sống ấy liên tục chiếu sáng trong tôi. Jesus càng chiếu sáng trong tôi, tôi càng thoát khỏi tính nóng nảy của mình. Thỉnh thoảng khi tôi nổi nóng, ánh sáng này chiếu sáng cách mạnh mẽ. Anh em không kinh nghiệm điều này sao? Khi anh em nổi nóng với vợ mình thì ánh sáng chiếu đến. Những người không tin Chúa càng nổi nóng thì càng có tính nóng để mà nổi nóng. Nhưng khi chúng ta, là các Cơ Đốc nhân tìm kiếm Chúa, bắt đầu nổi nóng, thì chúng ta thấy mình càng ít tính nóng để nổi nóng. Đôi khi một anh em hay chị em đang nổi nóng thì bị sự chiếu sáng bên trong ngăn chặn mình lại. Có một điều gì đó ở bên trong chiếu sáng trên mình, giết chết bản chất rắn độc của mình. Sau năm mươi năm kinh nghiệm, tôi có thể nói bây giờ tôi rất khó nổi nóng. Suốt năm mươi năm, chất “phóng xạ thiên thượng” đã và đang giết chết bản chất rắn độc nóng nảy của tôi.

PHÚC ÂM GIĂNG BÀI 19


NHU CẦU CỦA NHỮNG NGƯỜI Ở DƯỚI ÁCH NÔ LỆ CỦA TỘI – SỰ SỐNG GIẢI THOÁT (1)

Trong bản ký thuật của Phúc Âm này, chín trường hợp đã được chọn lựa để minh chứng Chúa Jesus là sự sống và là nguồn cung ứng sự sống cho con người. Trong các chương từ ba đến bảy có sáu trường hợp hình thành một nhóm về dấu lạ. Về phương diện tích cực, sáu trường hợp này tượng trưng cho các phương diện của Chúa là sự sống và nguồn cung ứng sự sống cho chúng ta, ấy là tái sinh, làm thỏa mãn, chữa lành, làm sống động, nuôi dưỡng và làm hết khát. Ba trường hợp sau, trong các chương từ tám đến mười một, hình thành một nhóm khác về dấu lạ. Về phương diện tiêu cực, ba trường hợp ấy tượng trưng cho Chúa là sự sống cho chúng ta để giải cứu chúng ta khỏi ba điều tiêu cực chính, ấy là tội lỗi, sự đui mù và sự chết.

Là những con người sa ngã, chúng ta thường xuyên bị tội lỗi, sự đui mù và sự chết quấy nhiễu. Sự đui mù thật ra có nghĩa là sự tối tăm. Khi bị mù, anh em ở trong bóng tối, vì không có điều gì tạo nên bóng tối nhiều cho bằng sự đui mù. Sự đui mù, tối tăm và sự chết ra từ tội. Tội là nhân tố cơ bản gây nên sự đui mù, tối tăm và sự chết. Nếu chúng ta phạm tội, chắc chắn chúng ta đui mù vì sự đui mù luôn luôn đi đôi với những điều tội lỗi. Tội đem đến sự chết, nhưng giữa tội và sự chết luôn luôn có sự đui mù. Sau khi phạm tội và trước khi gặt lấy sự chết, anh em có sự tối tăm. Vì vậy, tội, sự đui mù và sự chết là ba điều tiêu cực mà Chúa phải xử lý. Cách duy nhất để xử lý những điều tiêu cực này là Chúa cần phải trở nên sự sống đời đời và thiên thượng của chúng ta.

PHÚC ÂM GIĂNG BÀI 18


NHU CẦU CỦA NGƯỜI KHÁT – SỰ SỐNG GIẢI KHÁT (2)

Trong chương năm chúng ta đã thấy sự tương phản giữa sự sống và tôn giáo, nhưng sự bắt bớ thật sự vẫn chưa bắt đầu. Sự bắt bớ bắt đầu trong chương bảy.

II. SỰ SỐNG DƯỚI SỰ BẮT BỚ CỦA TÔN GIÁO
A. Âm Mưu Của Tôn Giáo Và Lễ Tiệc Của Tôn Giáo
Đang khi các nhà tôn giáo dự lễ, họ âm mưu giết Jesus (7:1-2). Đó là hình ảnh chính xác về tôn giáo ngày nay, vì theo nguyên tắc, tôn giáo ngày nay cũng giống như vậy. Một mặt, các nhà tôn giáo thờ phượng Đức Chúa Trời, trong khi mặt khác, họ âm mưu giết những người thật sự tìm kiếm Đức Chúa Trời. Nếu là một người thật sự tìm kiếm sự sống, anh em phải được chuẩn bị để nhìn biết tôn giáo đang nỗ lực giết anh em. Điều này xảy ra từ thế kỷ đầu tiên mãi cho đến ngày nay. Trong mọi thế kỷ, những người thật tìm kiếm sự sống đã bị những nhà tôn giáo bắt bớ. Chẳng hạn như Madame Guyon trong thời mình đã bị những nhà tôn giáo bỏ tù. Hễ anh em đi với Chúa theo sự sống bề trong và không theo những điều bề ngoài, anh em sẽ bị những con người nặng tinh thần tôn giáo bắt bớ.

Chúa là Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa (1:1, 10). Tuy nhiên, là một con người, Ngài chịu đựng sự bắt bớ từ các tạo vật của Ngài (7:1). Đấng Tạo Hóa mà phải chịu đựng sự bắt bớ của các tạo vật thì không phải là điều dễ. Ngài kiên nhẫn biết bao! Ngài khiêm nhường biết bao! Nhưng Chúa đã làm như vậy. Ngay cả những lễ tiệc tôn giáo cũng cung cấp cơ hội cho sự bắt bớ này (7:2, 11). Những nhà tôn giáo lợi dụng lễ tiệc tôn giáo để bắt bớ Chúa Jesus.

PHÚC ÂM GIĂNG BÀI 17


NHU CẦU CỦA NGƯỜI KHÁT – SỰ SỐNG GIẢI KHÁT (1)

Chúng ta đã bàn đến năm trong chín trường hợp của Phúc Âm này. Trong trường hợp thứ nhất, Chúa nói chuyện với một người thượng lưu, đạo đức về sự tái sinh của sự sống. Qua sự tân sinh của chúng ta, Chúa là sự sống thứ hai của chúng ta, tức sự sống thần thượng. Trong trường hợp thứ hai, Chúa nói với một người đàn bà thấp kém, vô luân về sự thỏa mãn của sự sống. Chính Chúa là nước sống làm thỏa mãn những tấm lòng không thỏa mãn. Trong trường hợp thứ ba, Chúa chữa lành cho một đứa bé hấp hối. Chúa chữa lành những người đang hấp hối bởi lời ban sự sống của Ngài qua đức tin của họ. Trong trường hợp thứ tư, Chúa làm sống động một người bất năng đã bị bệnh ba mươi tám năm. Điều này cho thấy Chúa làm sống động người bất năng bởi sự sống. Trong trường hợp thứ năm, Chúa nuôi năm ngàn người bằng bánh sự sống. Điều này bày tỏ Ngài là bánh sống thiên thượng làm thỏa mãn đoàn dân đói. Vì vậy, nói tóm lại, Chúa tái sinh bằng sự sống thần thượng trong trường hợp thứ nhất, ban nước sống trong trường hợp thứ hai, chữa lành người hấp hối bởi lời ban-sự-sống trong trường hợp thứ ba, làm sống động người bất năng trong trường hợp thứ tư, và nuôi dưỡng đoàn dân đông bằng bánh sự sống trong trường hợp thứ năm.

Bây giờ trong chương bảy chúng ta đến trường hợp thứ sáu – nhu cầu của người khát. Trường hợp này tương phản với trường hợp thứ năm – nhu cầu của người đói. Trong trường hợp trước, rõ ràng Chúa được bày tỏ là bánh sự sống để thỏa mãn người đói, nhưng trong trường hợp này Chúa đem dòng nước sống đến để làm cho chúng ta hết khát. Trong trường hợp thứ năm thì người ta đói, nhưng trong trường hợp thứ sáu thì người ta khát. Trường hợp thứ năm trình bày bánh sống, và trường hợp thứ sáu giới thiệu nước sống. Bánh sự sống dành cho người đói, và những sông nước sống dành cho người khát. Đối với người khát, Đấng Christ là sự sống giải khát. Ngài chính là sự sống có khả năng làm cho người ta hết khát.

PHÚC ÂM GIĂNG BÀI 16


NHU CẦU CỦA NGƯỜI ĐÓI – SỰ SỐNG NUÔI DƯỠNG (2)

II. THẾ GIỚI RỐI LOẠN VÀ ĐẤNG CHRIST
BAN SỰ BÌNH AN
Chúng ta sống trong một thế giới rối loạn. Thế giới này chỉ toàn là rắc rối. Đời sống gia đình, đời sống học đường và mọi loại nghề nghiệp, tất cả đều rắc rối. Ai được bình an? Tổng thống, các thượng nghị sĩ, các thành viên quốc hội? Ai được bình an? Không ai bình an cả. Dầu anh em là ai đi nữa, anh em cũng bị bối rối. Tất cả chúng ta đều có những điều rắc rối. Đừng khoe khoang rằng cuộc hôn nhân của anh em là tốt đẹp nhất. Tôi không tin có một cuộc hôn nhân nào hoàn toàn tốt; cuộc hôn nhân nào cũng có ít nhiều thiếu hụt. Bởi sự định trước có tính cách tể trị của Chúa, tất cả chúng ta phải lập gia đình – không cách nào thoát – nhưng người nào lập gia đình cũng thấy mình mắc phải những điều rắc rối.

Đấng Christ đến trong thế giới rối loạn này với tư cách là Đấng Christ ban bình an (6:16-21). Giăng chương 6 không những mô tả một thế giới đói khát mà còn mô tả một thế giới rối loạn nữa. Đấng Christ là Đấng Christ nuôi dưỡng đối với một thế giới đói khát và là Đấng Christ ban bình an cho một thế giới rối loạn. Thế giới có thể quấy rối mọi người, nhưng không thể quấy rối Ngài.

Thứ Sáu, 28 tháng 10, 2016

PHÚC ÂM GIĂNG BÀI 15


NHU CẦU CỦA NGƯỜI ĐÓI – SỰ SỐNG NUÔI DƯỠNG (1)

Phúc Âm Giăng là một sách đầy hình ảnh, nói về sự sống thần thượng và các chức năng của sự sống thần thượng. Cả sự sống thần thượng và các chức năng của sự sống ấy đều là những điều thuộc linh. Vì rất khó mô tả những điều ấy bằng ngôn ngữ loài người, sứ đồ Giăng đã nhận được sự khôn ngoan từ nơi Chúa để viết Phúc Âm của mình, không những bằng từ ngữ suông, nhưng bằng nhiều nhân vật nữa. Từ ngữ suông không đầy đủ, cho nên Giăng cũng dùng các nhân vật và hình ảnh. Theo một ý nghĩa, mỗi trường hợp là một bức tranh. Trong chương năm, chúng ta thấy bức tranh linh động về một người bất năng được trở nên sống động. Trong chương sáu chúng ta có một bức tranh khác bày tỏ nhu cầu của người đói và khả năng nuôi dưỡng của sự sống.

PHÚC ÂM GIĂNG BÀI 14




NHU CẦU CỦA NGƯỜI BẤT NĂNG – SỰ SỐNG LÀM CHO SỐNG ĐỘNG

Trong bài này chúng ta xem xét đến trường hợp thứ tư – nhu cầu của người bất năng (Gi. 5:1-47). Trường hợp này phơi bày sự hư không của tôn giáo.

I. TÌNH TRẠNG THẤT BẠI CỦA VIỆC GIỮ LUẬT PHÁP TRONG TÔN GIÁO VÀ SỰ ĐẦY ĐỦ CỦA VIỆC
CON BAN CHO SỰ SỐNG
Trường hợp của người bất năng này phơi bày sự bất lực của tôn giáo (5:1-9). Không có tôn giáo nào trên đất tốt hơn Do Thái giáo, vì đó là tôn giáo thật và tiêu biểu được thành lập theo sấm ngôn thánh của Đức Chúa Trời. Do Thái giáo được thành lập theo Lời thần thượng. Tôn giáo này thờ phượng một Đức Chúa Trời chân thật cách đúng đắn, không một tôn giáo nào có thể sánh kịp.

PHÚC ÂM GIĂNG BÀI 13




NHU CẦU CỦA NGƯỜI HẤP HỐI – SỰ CHỮA LÀNH CỦA SỰ SỐNG

I. JESUS TRỞ VỀ NƠI Ở CỦA NHỮNG CON NGƯỜI YẾU ĐUỐI VÀ MONG MANH
Jesus trở về Ca-na thuộc xứ Ga-li-lê, là nơi ở của những con người yếu đuối và mong manh (Gi. 4:43-46). Ca-na ở tại Ga-li-lê, là nơi bị khinh miệt (7:41, 52), tượng trưng cho thế giới trong tình trạng thấp kém, đê hèn, nơi ở của những con người yếu đuối, mong manh. Chúa đã có mặt tại đó một lần [khi thực hiện] dấu lạ thứ nhất là đổi nước sự chết thành ra rượu sự sống. Bây giờ Ngài trở lại chính nơi ấy để làm dấu lạ thứ hai, theo nguyên tắc sự sống, dấu lạ này tương ứng với dấu lạ thứ nhất – đổi sự chết thành sự sống.

PHÚC ÂM GIĂNG BÀI 12




NHU CẦU CỦA NGƯỜI VÔ LUÂN – SỰ THỎA MÃN CỦA SỰ SỐNG (2)

III. CÁCH NHẬN LẤY NƯỚC SỰ SỐNG
Trong Giăng 4:15-26 chúng ta thấy phương cách nhận lấy nước sống. Nước sống rất tốt, nhưng nếu chúng ta không có cách nào để lấy, thì nước ấy không có ý nghĩa gì đối với chúng ta. Nếu có một điều gì đó kỳ diệu, tuyệt hảo trên các từng trời mà chúng ta không thể với tới được thì ích lợi gì? Nhưng ở đây chúng ta tìm được nước sống và cách nhận lấy nước sống ấy.

PHÚC ÂM GIĂNG BÀI 11




NHU CẦU CỦA NGƯỜI VÔ LUÂN – SỰ THỎA MÃN CỦA SỰ SỐNG (1)

Trong bài này chúng ta đến với trường hợp của người đàn bà Sa-ma-ri trong Giăng chương 4. Đây là trường hợp thứ hai trong chín trường hợp. Có một sự tương phản rất lớn giữa trường hợp này với trường hợp của Ni-cơ-đem trong chương ba. Ni-cơ-đem là một người đạo đức, thuộc giai cấp thượng lưu; còn người đàn bà Sa-ma-ri là người vô đạo đức, thuộc giai cấp thấp hèn. Trường hợp đầu giới thiệu một người có những thành đạt cao trong khi trường hợp thứ hai nêu lên một phụ nữ có những việc làm đáng xấu hổ. Người đàn ông ấy là người Do Thái trong khi phụ nữ kia là người Sa-ma-ri. Tôn giáo của người Do Thái rất tốt, đúng đắn, thật và chân chính, nhưng tôn giáo của người Sa-ma-ri thì giả dối và hư hoại. Đây cũng là một điều rất hay khi chúng ta nhận thấy Chúa nói chuyện với người đàn ông vào ban đêm, nhưng lại nói chuyện với người đàn bà vào giữa ban ngày. Vào ban đêm, người đàn ông đến gặp Ngài; vào ban ngày Chúa đến gặp người đàn bà. Địa điểm Chúa nói chuyện với người đàn ông là ở trong nhà hay một tòa nhà nào đó, trong khi Ngài lại nói chuyện với người đàn bà ở ngoài trời.

Thứ Ba, 25 tháng 10, 2016

PHÚC ÂM GIĂNG BÀI 10




SỰ GIA TĂNG CỦA ĐẤNG CHRIST VÀ ĐẤNG CHRIST KHÔNG THỂ DÒ LƯỜNG ĐƯỢC

Khi còn trẻ, nhiều điều trong Kinh Thánh làm tôi bối rối, một trong những điều ấy là Giăng chương 3. Mặc dầu chương này rất cao quí, nói về sự tái sinh, nhưng dường như đối với tôi, bắt đầu từ câu 22, chương này bất ngờ hạ xuống khá thấp. Câu 22 chép: “Sau việc đó Jesus cùng môn đồ đến xứ Giu-đê, ở lại tại đó mà làm báp-têm”. Khi còn thanh niên, đọc đến câu này, tôi nghĩ rằng không cần phải có câu ấy. Đối với tôi, dường như phần ký thuật này không cần thiết. Tôi cũng cảm thấy như vậy về câu 23, là câu nói rằng Giăng đang làm báp-têm tại Ê-nôn gần Sa-lim vì tại đó có nhiều nước. Tôi cũng bối rối về câu 24, là câu nói rằng Giăng chưa bị bỏ tù. Tôi hỏi: “Những câu này nói lên điều gì? Sau khi đề cập đến những điều thiên thượng và thuộc linh, sao lại đề cập đến những việc như là bỏ tù?” Lý do giải thích điều này xuất hiện trong câu 26: “Họ đến cùng Giăng mà nói rằng: Ra-bi, kìa, người ở cùng thầy bên kia Giô-đanh, mà thầy đã làm chứng cho đó, nay đang làm báp-têm, và ai nấy đều đến cùng người”. Vì sao sách Giăng bao gồm tất cả những câu này? Đơn giản là để phơi bày cái đuôi của con chồn. Cái đuôi ấy là gì? Đó là vấn đề ai sẽ lôi cuốn được đám đông theo mình. Ngày nay thái độ của người ta là: “Người này đi theo tôi. Tất cả những người này đều theo tôi. Tại sao có một vài người trong số đó lại đến với ông?” Những gì chúng ta thấy ngày nay cũng đã xảy ra trong thời Giăng Báp-tít.

PHÚC ÂM GIĂNG BÀI 9 -




NHU CẦU CỦA NGƯỜI ĐẠO ĐỨC –SỰ TÁI SINH CỦA SỰ SỐNG (2)

3. Xác Thịt Sinh Ra Xác Thịt
Ni-cơ-đem nghĩ rằng được sanh lại là trở vào lòng mẹ và được sinh ra một lần nữa. Ông không nhận biết rằng ngay cả nếu có làm được điều đó, ông vẫn là xác thịt. Dầu một người sinh ra từ trong lòng mẹ bao nhiêu lần đi nữa, người ấy vẫn là xác thịt vì xác thịt sinh ra xác thịt. Vì vậy Chúa bảo Ni-cơ-đem: “Hễ chi sanh bởi xác thịt là xác thịt” (3:6). Xác thịt ở đây chỉ về con người thiên nhiên với sự sống thiên nhiên. Dầu cha mẹ có sinh chúng ta ra bao nhiêu lần đi nữa, chúng ta vẫn là con người thiên nhiên với sự sống thiên nhiên. Điều đó không thay đổi bản chất của chúng ta. Sinh lại không phải là được cha mẹ sinh chúng ta một lần nữa, mà là được sinh bởi Đức Chúa Linh để chúng ta có sự sống thần thượng với bản chất thần thượng của Ngài, một sự sống với một bản chất hoàn toàn khác với sự sống thiên nhiên của chúng ta với bản chất của nó.

PHÚC ÂM GIĂNG BÀI 8




NHU CẦU CỦA NGƯỜI ĐẠO ĐỨC – SỰ TÁI SINH CỦA SỰ SỐNG (1)

Sau khi nguyên tắc sự sống và mục đích sự sống đã được đề ra trong Giăng chương 2, người viết đã đề cập đến chín trường hợp được chép trong chương ba đến chương mười một để minh chứng nguyên tắc sự sống như đã được đưa ra trong dấu lạ đầu tiên ở chương hai. Ông dùng những trường hợp này tượng trưng cho một vài điểm thuộc linh và đầy ý nghĩa. Những trường hợp này trước hết bày tỏ tình trạng và nhu cầu của con người, sau đó chúng bày tỏ thế nào Chúa có thể giải quyết mọi tình trạng và đáp ứng mọi nhu cầu của con người. Sự sống đáp ứng nhu cầu của con người trong mọi trường hợp. Chúng ta cần phải nhận biết rằng sự sống ở đây có nghĩa là chính Chúa, là Lời, là chính Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt. Mặc dầu Chúa có thể đã giải quyết hàng ngàn cảnh huống của con người, Giăng chỉ lựa chọn chín trường hợp trong số đó để minh họa thế nào Chúa là sự sống, và Ngài đã có thể và hiện đang có thể đáp ứng nhu cầu của mọi hoàn cảnh của con người.