Thứ Năm, 19 tháng 7, 2012

TÀ GIÁO MORMON-4



XV. TƯƠNG LAI.
Dù Kinh Thánh nói rõ ràng đến hai, và chỉ hai nơi để người ta đến sau khi chết - Thiên đàng và Địa ngục -, nhưng giáo phái Mormon thì tin có bốn nơi: 
1. Địa Ngục.

Đây là nơi dành cho những kẻ gian ác nhất trên đất, cho Satan và một phần ba con cái Đức Chúa Trời (các con thần linh của Đức Chúa Trời đã nổi loạn và đi theo Satan). Mormon không dám nhắc tới Địa ngục, mà thích gọi là “nơi tối tăm bên ngoài”. Trái với sự dạy dỗ của Kinh Thánh, họ cho rằng hình phạt ở đây không phải đời đời. Sau một khoảng thời gian nào đó, người bị hình phạt ở đây có thể đi từ Địa ngục vào Âm phủ (Telestrial Kingdom) - bậc thấp nhất của ba từng trời Mormon. 


2. Âm Phủ.

Đây là từng trời thấp nhất, dành cho những kẻ ngoại đạo chối bỏ Tin lành. 
3. Địa Đàng.

Từng trời thứ hai, dành cho Cơ đốc nhân và những tín đồ các tôn giáo khác -những người không theo giáo phái Mormon. 
4. Thiên Đàng.

Đây là từng trời cao nhất và là nơi Đức Chúa Trời ngự, tự nó lại chia làm ba phần. Phần cao nhất dành cho những ai đã được đóng ấn bằng “lễ cưới thiêng liêng” ở đền thờ giáo phái Mormon trên đất. Những người này sẽ trở thành Đức Chúa Trời và sẽ cai trị một hành tinh cùng với gia đình mình.
KẾT LUẬN.
Ngày nay Mormon thường dông dài kể lể những điểm giống nhau giữa Cơ đốc giáo chân chính với giáo phái Mormon. Họ hay trưng dẫn (và trưng dẫn sai) Kinh Thánh và Sách Mormon để giải thích các giáo lý của họ. Nếu có thể, họ cố không nhắc tới những giáo lý tương phản nhất và khác biệt nhất với Kinh Thánh. Dẫu thế, Cơ đốc nhân chúng ta cũng phải biết rõ giáo phái Mormon thực sự tin những gì.
Một vấn đề tối quan trọng khi nghiên cứu giáo phái Mormon là sự khải thị thiên thượng. Giáo phái Mormon dựa vào hai niềm tin về khải thị thiên thượng:
1. Kinh Thánh với tư cách là nguồn khải thị thiên thượng thì không đáng tin cậy, vì nó đã bị sai lạc và dịch sai.
2. Joseph Smith dịch Sách Mormon với sự giúp đỡ trực tiếp của Đức Chúa Trời, do đó nó hoàn toàn vô ngộ, và do đó là nguồn khải thị Thiên thượng đáng tin cậy.
Do đó tín đồ Mormon tin rằng chỉ có họ mới có được sự hiểu biết đúng đắn về lời Đức Chúa Trời. Họ quyết định theo sự dạy dỗ của Joseph Smith, người đã tìm ra và dịch Sách Mormon bằng cách dùng các kỹ thuật thần bí mà trước kia ông đã sử dụng để tìm kho báu. Họ theo Sách Mormon, là sách dù được xem là được dịch bởi Đức Chúa Trời, nhưng chứa đựng 4000 chỗ sai và đã phải hiệu đính trong các ấn bản sau.
Trái lại, Cơ đốc nhân chúng ta theo Kinh Thánh, là sách vô cùng vượt trội hơn sách Mormon. Đây là vài lý do cho thấy tại sao:
1. Kinh Thánh được thần cảm của Đức Chúa Trời, và do đó chứa đựng tất cả những gì chúng ta cần biết. Kinh Thánh không cần phải hiệu đính:
“Cả Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình, hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành” (II Ti-mô-thê 3:16,17).
2. Trong khi Joseph Smith áp đặt ý muốn của mình trên khải thị (ví dụ lời tiên tri nói rằng vợ ông sẽ bị hư mất nếu không chịu chấp nhận cho ông lấy nhiều vợ khác), thì các tác giả Kinh Thánh không dạy ý riêng mình, mà chỉ bày tỏ ý chỉ của Đức Chúa Trời. Lời Đức Chúa Trời đã được bày tỏ cho các trước giả Kinh Thánh, không phải bằng những phương pháp thần bí hay bằng kính vàng, mà là bởi sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh:
“Vì chẳng hề có lời tiên tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời” (II Phi-e-rơ 1:21).
3. Trong khi khảo cổ học đã không chứng minh được gì cho Sách MORMON, thì lại thường xuyên xác nhận Kinh Thánh là đúng. Một trong số nhiều ví dụ đó là việc khám phá ra đường hầm mà vua Ê-xê-chia đã cho xây để dẫn nước vào Giêrusalem từ khe suối Gi-hôn (II Các Vua 20:20).
4. Trong khi Sách Mormon thay đổi nhiều chỗ trong vòng có vài năm, Kinh Thánh thì không thế. Việc khám phá ra các văn bản Biển Chết năm 1947 chỉ ra rằng Kinh Thánh đã được bảo tồn chính xác. Ví dụ, trước khám phá này, bản xưa nhất của sách Ê-sai là vào khoảng năm 900 SC. Trong những cuộn sách Biển Chết có trọn một cuộn sách Ê-sai có niên đại 100-200 TC. Khi so sánh hai bản này với nhau, người ta thấy phần này của Kinh Thánh đã được lưu truyền hết sức chính xác trong suốt thời gian hơn 1000 năm. 
“Một chấm một nét trong luật pháp cũng không qua đi được cho đến khi mọi sự được trọn” (Ma-thi-ơ 5:18b)

Sau khi đã xác định Kinh Thánh là nguồn khải thị duy nhất đúng, chính xác, và đáng tin cậy, thì chúng ta thấy những khác biệt giữa giáo lý Mormon với Cơ đốc giáo Kinh Thánh rất rõ ràng. Bản sau đây minh họa một số khác biệt chủ yếu:
GIÁO LÝ

MORMON NÓI

KINH THÁNH PHÁN





ĐỨC CHÚA TRỜI
Có nhiều ĐCT, và nhiều thế hệ ĐCT.
Chỉ có một ĐCT (Ê-sai 43:11; 44:6; 45:5; 45:21).
ĐCT xưa vốn là người được trở thành Chúa Trời.
ĐCT luôn là ĐCT (Thi 90:2), Ngài không hề thay đổi (Thi 102:7; Mal 3:6).
Đức Chúa Trời có thân xác.
ĐCT là thần linh (Giăng 4:24) và vô hình (I Ti 1:7), Ngài không có thân xác.
Đức Chúa Trời là A-đam.
ĐCT dựng nên A-đam (Sáng 1:7).

Đức Chúa Cha là cha thuộc thể của Chúa Giê-xu, và là chồng của bà Mari.
Chúa Giê-xu được thọ thai bởi Thánh Linh (Math 1:18).

 CHÚA GIÊ-XU
Trước khi sinh ra trong xác thịt, Chúa Giê-xu đã được sinh ra, là con thần linh của Đức Chúa Cha với một trong các vợ của Ngài.
Con Đức Chúa Trời đã hiện hữu từ trước muôn đời cùng với Đức Chúa Cha (Giăng 1:1; Cô-lô-se 1:17; Khải 22:13).

 SA-TAN

Satan là em thần linh của Chúa Giê-xu.
Chúa Giê-xu là Con Một của ĐCT (Giăng 3:16).

 CON
NGƯỜI
Con người hiện hữu từ trước dưới dạng thần linh trước khi thế gian được dựng nên.
Con người được tạo dựng bởi ĐCT vào ngày thứ 6 sáng thế (Sáng 1:26-31). KT không nói gì đến việc con người hiện hữu từ trước dưới dạng thần linh.

Con người trở thành Chúa Trời của một hành tinh khác.
Cơ đốc nhân sẽ thờ phượng ĐCT (Khải 14:1-3), và sống chung với nhau trong sự hiện diện của Ngài ở Thiên đàng (Khải 21-22).
Có nhiều vợ là một phần quan trọng để được tôn vinh trong đời sau.
Trên thiên đàng, sẽ không có cưới gả (Math 22:30). Kiểu mẫu của KT là một chồng một vợ (Sáng 2:24; I Ti 3:12; Tít 1:6).

CỨU 
RỖI
Công việc của Chúa Giê-xu trên thập tự giá không đủ để cứu rỗi. Sự cứu rỗi còn tùy thuộc vào công việc của mỗi người.
Cứu rỗi chỉ bởi đức tin, chớ không bởi việc làm (Êph 2:8,9).
Tất cả đều sẽ được cứu (ngoại trừ, một số ít người thật gian ác).
Tất cả những ai không vâng phục Tin lành đều sẽ bị hình phạt đời đời  (I Tês 1:8-9).

Có ba từng trời, và một nơi hình phạt tạm thời gọi là “nơi tăm tối bên ngoài”.
Có hai nơi để con người đến sau khi chết: Thiên đàng và địa ngục (Luca 16:19-31; Mat 25:31-46).
Tín đồ Mormon tin những điều rất khác với Kinh thánh. Họ có giáo lý khác về Đức Chúa Trời, Chúa Giê-xu, con người, sự cứu rỗi và tương lai. Như thế, chúng ta cần lắng nghe lời của thánh Phaolô trong Ga-la-ti 1:8,9: 
Nhưng nếu có ai, hoặc chính chúng tôi, hoặc thiên sứ trên trời, truyền cho anh em một tin lành nào khác với Tin lành chúng tôi đã truyền cho anh em, thì người ấy đáng bị anathem! Tôi đã nói rồi, nay lại nói lần nữa: Nếu ai truyền cho anh em một tin lành nào khác với Tin lành anh em đã nhận, thì người ấy đáng bị anathem!”

Chúng ta đừng quên rằng giáo phái MORMON không phải chỉ là một hệ phái có nhiều giáo lý khác với Kinh thánh, nhưng giáo phái MORMON cũng đã chối bỏ Kinh Thánh là Lời của Đức Chúa Trời, chối bỏ địa vị cao cả độc tôn của Đức Chúa Trời, và Tin lành của Chúa Giê-xu, rồi đem thay thế bằng một “tin lành” chẳng phải là Tin lành (Ga-la-ti 1:7) và dẫn người tin đến sự hư mất đời đời. Giáo phái MORMON là tà giáo. 
Ms J.S.
Hết