Thứ Bảy, 21 tháng 7, 2012

Khảo cổ kinh thánh--1



Dẫn Nhập
Thượng Đế đã giữ hai bản ghi chép lịch sử về sự đối xử đặc biệt của Ngài với con người cũng như sự khải thị với con người. Một bản ghi chép là Kinh Thánh đã được viết trên da cừu và được đặt vào bàn tay của con người với nỗ lực cực kỳ to lớn. Bản ghi chép kia được viết trong các tàn tích và các ngôn ngữ lạ của những vùng đất mà Kinh Thánh đã đến đó.
Con người đã tiếp cận Kinh Thánh và có thể đọc cũng như phác họa cuộc đời của Ngài một cách tương ứng; nhưng chỉ có một số ít người của thế giới phương Tây có thể thăm viếng các vùng đất phương Đông, nhìn xem lãnh thổ của đất nước, quan sát những gì còn sót lại của tàn tích nền văn hóa đã qua đi, và mường tượng ý nghĩa của những mảnh chữ viết kỳ lạ khác nhau được tìm thấy đó đây.


Bằng chứng trên mặt đất thì nhỏ nhoi so với kho tàng vật liệu được chôn vùi trong các mô đất của thành phố thượng cổ. Một số tài liệu được tìm thấy một cách tình cờ, nhưng phần lớn đã được phát hiện khi con người phát triển các công cụ đặc biệt và những phương pháp thích hợp cho công việc sưu tầm - để giải mã những ngôn ngữ còn là ẩn số cũng như xác định mốc thời gian cho từng cuộc khám phá. Sự tiến bộ đến một cách chậm chạp nhờ vào các nỗ lực hiến dâng của con người thuộc nhiều quốc gia và nhiều ngành nghề khác nhau như giáo sư đại học, nhà ngôn ngữ học, mục sư, quân nhân, giáo sị, kiến trúc sư, kỹ sư, hoạ viên, nhiếp ảnh gia và các tài năng vĩ đại khác.


Công cụ ngôn ngữ để hiểu được các ký hiệu và chữ viết huyền bí thì rất là cần thiết, và để nắm vững được các công cụ đó thì một vài lãnh đạo tài ba phải trả giá rất lớn. Hai chìa khóa chính đã được khám phá - Tảng đá Rosetta và câu khắc trên bia Behistun .


Một trong những kỹ sư của Napoleon đại đế đã tìm thấy Tảng đá Rosetta tại Rosetta, Ai Cập, gần cửa sông nhánh phía Tây của sông Nile. Đó là một phiến đá granít màu đen, phần đỉnh hình bầu dục hay có thể là tấm bia có đề khắc với kích thước: cao 3feet2inches, ngang 2feet4inches; dày 7inches. Trên bề mặt của nó là 3 thứ ngôn ngữ thông dụng đối với người thượng cổ tại thung lũng sông Nile. Một là tiếng Hy Lạp, nhưng hai thứ tiếng còn lại thì vẫn là ẩn số. Nhiều người đã cố gắng thử đọc hai ngôn ngữ nầy, tuy nhiên một thanh niên người Pháp lỗi lạc tên là Jean Champollion đã dâng hiến trọn cuộc đời để giải mã các ngôn ngữ chưa được biết nầy. Trong suốt 23 năm ròng rã vật lộn với nội dung của phiến đá với sự ủng hộ của người anh ruột thịt. Cuối cùng vào năm 1822, ông ta đã xuất bản toàn bộ bản dịch tam ngữ của câu khắc trên bia: chữ Hy Lạp cùng với chữ tượng hình và chữ dân gian Ai Cập , như vậy đã chứng tỏ rằng Tảng đá Rosetta được viết bằng ba thứ tiếng - loại tiếng nói của Pha-ra-ôn, nhờ nó mà sau nầy các nhà khảo cổ đã mở ra vô số kho tàng lịch sử và văn học chưa ai biết đến tại thung lũng sông Nile.


Câu khắc Behistun là một ký hiệu nổi-thấp, lớn, ở ngoài trời với kích thước 25feet x 50 feet và cao 350 feet trên bờ vách đá của núi Zagros, ở phía tây nam của Hamadan, Ba Tư. Nó được khắc bằng 3 thứ ngôn ngữ - đều được sử dụng bởi người thượng cổ, nhưng lại rất xa lạ với các học giả thời nay. Công việc giải mã những ngôn ngữ cực kỳ quái lạ, mặc dù rõ ràng là trau chuốt đã thách thức một sĩ quan quân đội Anh tên là Henry C.Rawlinson. Ông ta đã leo lên trên gờ dưới 14 đến 18 inches hoặc ngồi trong một cái lồng lơ lửng, sau 14 năm lao động nguy hiểm, một bảng câu khắc hoàn chỉnh đã làm xong. Sau 18 năm ông ta đã giải mã hoàn toàn ba thứ tiếng - chữ hình nêm Ba Tư cổ, chữ Elamite (Susian) và chữ hình nêm Ba-by-lôn. Với chiếc chìa khóa nầy, Rawlinson cùng với các học giả khác đã mở ra bí mật quí báu của nền văn hóa đã biến mất của Assyria, Ba-by-lôn và Ba Tư - đó là những vùng đất mà con người đóng vai trò quan trọng trong các vở kịch được bày ra trong Kinh Thánh.


Việc sử dụng các ngôn ngữ này trong liên lạc thư từ và liên lạc ngoại giao đã được khám phá vào năm 1887; khi một phụ nữ người Ả Rập du cư đang lúc tìm kiếm các mảnh đất màu mỡ để trồng vườn, bà ta đã đào xới vào mô đất của Tell el Amarna, tại đó, ở bờ đông của sông Nile, có tàn tích của thành phố đẹp thơ mộng của Pha-ra-ôn Akhenaton. Bà ta đã tìm thấy phiến đá có câu khắc và đã bán với giá 50 xu. Giáo sĩ Chauncy Murch hay tin về sự khám phá đó và đã chuyển thông tin ấy đến các viên chức Ai Cập. Sau khi xem xét, người ta đã minh chứng các phiến đá đó chính là các hồ sơ ngoại giao chính thức của bộ ngoại giao Ai Cập dưới thời trị vì của Amenhotep III (1413-1376 TC) và con của ông ta và người kế vị Amenhotep IV (Akhenaton 1375-1358 TC). Trong số các hồ sơ đó có các thông báo chính thức đến từ các quốc vương của Ba-by-lôn, Mitanni và các quốc gia khác của châu Á, nhưng đại đa số các bức thư đều được viết bởi quan tổng đốc của các thành phố và khu vực khác nhau thuộc Palestine, Phoenica và nam Syria (khoảng 150 lá thư của xứ Palestine).


Các phiến đá Tell el Amarna đã tỏ ra là hết sức quan trọng trong việc nghiên cứu Kinh Thánh, đến nỗi nhiều người đã xem nó như là việc cấu thành khám phá quan trọng nhất từng có ở Ai Cập. Chính sự thật rằng hầu hết các phiến đá đều được viết bằng chữ hình nêm của người Ba-by-lôn, dù rằng các phiến đá đã đến từ nhiều quốc gia khác nhau, nói lên rằng chữ hình nêm Ba-by-lôn là một hệ thống chung về văn tự mà hầu hết những con người trong vùng đất Kinh Thánh đều hiểu được trong suốt thời kỳ đặc biệt ấy, và có lẽ cả một thời gian dài trước và sau thời kỳ ấy. Vì vậy các nhân vật Kinh Thánh có thể chuyện trò khá dễ dàng với những người khác nhau khi họ di chuyển từ nước này qua nước khác như đã được chỉ ra trong Kinh Thánh.
Người ta cảm thấy thích thú nhiều hơn với các cuộc khám phá về mặt khảo cổ, và người ta kêu gọi nhiều cuộc nghiên cứu về địa hình hơn cũng như kêu gọi khai quật nhiều hơn nữa các mô đất thành phố. Nước Anh, Đức, Pháp, Hoa Kỳ và nhiều nước khác hưởng ứng ngay. Chính phủ, đại học, viện bảo tàng, cá nhân có sức ảnh hưởng đã tài trợ cho việc thám hiểm, và công việc đã tấn tới dưới sự chỉ đạo của những người có tài năng, đó là những con người đã xúc tiến công việc, khám phá được rằng tàn tích của các nền văn hóa thượng cổ đã ăn khớp như thế nào với những gì được ghi trong Kinh Thánh và các tài liệu cổ khác về các tàn tích đó.
Giờ đây, sau 200 năm nghiên cứu về khảo cổ và địa hình, có thể nói rằng một đội ngũ học giả đông đảo đã và đang tìm ra dòng đời thượng cổ từ hàng ngàn mô đất thành phố và đan kết lại thành một mô hình hoàn toàn khớp với các đời sống và việc làm được ghi lại của các nhân vật Kinh Thánh.
Hàng ngàn các chứng cớ "ngoại tại" chứng thực các câu chuyện kể trong Kinh Thánh đang được phơi bày.

ABEL BETH MAACAH
Cánh đồng của gia đình bị đàn áp) là một thành phố công sự cổ xưa tọa lạc tại miền cực bắc của Palestine; với một vai trò quan trọng trong thời đại Kinh Thánh thượng cổ dù hơi bi thảm. Thủ lĩnh của nhóm phiến loạn là Sheba đã lánh nạn tại đây và Joab cũng đã đuổi theo đến đó. Một người "phụ nữ khôn ngoan" trong thành phố đã ném thủ cấp của kẻ phiến loạn qua khỏi bức tường thành và vì vậy đã cứu thành phố (IISa 2Sm 20:14-22). Dưới thời Bên-ha-đát (IVua 1V 15:20) thì thành phố nầy đã bị người Sy-ri chiếm đóng và sau đó bị người A-si-ri chiếm đóng vào thời Tiếc-la Phi-lê-sê (IIVua 2V 15:29). Trong thời kỳ La Mã thì thành phố nầy mang tên Abila. Ngày nay nơi này được gọi là Tell Abil và là một mô đất (tell) chưa khai quật điển hình, đứng sừng sững trên vùng cao đồng bằng khoảng 6 dặm phía tây Đan, nhìn xuống vùng đất trũng trải dài tới phía đông nam của hồ Huleh.

CỘT ABSALOM

(Bia Áp-sa-lôm) là đài tưởng niệm đẹp dù có phần nào kỳ lạ khi mang tên cột Áp-sa-lôm, tọa lạc tại thung lũng Kidron phía đông Giê-ru-sa-lem, giúp củng cố thêm lời giải thích trong Kinh Thánh nói rằng: "Trong lúc sinh thời Áp-sa-lôm đã chạm một cái cột và dựng lên tại thung lũng Vua như là một đài tưởng niệm cho bản thân, bởi vì ông ta nghĩ rằng "ta không có con trai đặng lưu danh ta" (IISa 2Sm 18:18).
Đài tưởng niệm này cao 47 feet (khoảng 14,1m), phần dưới là một khối đá rắn khoảng 20 feet vuông và cao 21 feet, hoàn toàn tách khỏi vách đá bởi lối đi được đẽo rộng 9 feet và trang trí bằng kiểu cột Ionic (một kiểu cột Hy Lạp cổ).
Phần trên là cấu trúc vòng tròn viền quanh bằng đường gờ dây thừng và trên đỉnh là một tảng đá tạc một cách nghệ thuật có hình phễu uốn cong vào phía trong. Trong đó là một căn phòng với diện tích 8 feet vuông với các kệ để phần mộ ở hai bên.
Đài tưởng niệm này có thể đã do Áp-sa-lôm và thuộc hạ của mình đẽo tạc, nếu có đúng như vậy thì phần trang trí bên ngoài có thể đã được thêm vào sau đó. Theo như sự tồn tại đến hiện nay của bia Áp-sa-lôm thì nó có từ giữa thế kỷ thứ 2 TC và đầu thế kỷ thứ 5 TC - trừ phi Áp-sa-lôm cũng giống như người anh của mình là Sa-lô-môn, đã vay mượn các thiết kế kiến trúc khá lâu trước đó.


ACCO hay ACRE

Được biết đến trong thời đại Kinh Thánh Cựu Ước với cái tên Acco (Cac Tl 1:31) và trong thời Tân Ước thì có tên là Ptolemais, tọa lạc tại đầu cùng phía bắc của bãi biển hình vòng của vịnh Acre.
Nơi đó đầy dẫy các hồi ức lịch sử ngược dòng thời gian về những năm tháng trước khi người Y-sơ-ra-ên có mặt tại Palestine. Nó được nhắc đến như là một địa điểm quan trọng trong các văn bản của người A-si-ri, người Ai Cập, người Maccabe, người Hy Lạp, người La Mã, thập tự quân và trong thời kỳ Napoleon cũng như mãi sau nầy. Tuy vậy, những người Cơ Đốc sẽ luôn luôn ghi nhớ nó như là nơi mà Phao-lô, trong hành trình cuối cùng của ông đến Giê-ru-sa-lem đã "chào hỏi các anh em và lưu lại đó một ngày" (Cong Cv 21:7).
Các tàn tích cổ xưa hơn của Acco không thể khai quật được vì cớ các tòa cao ốc trên đó, còn phần các bức tường và công trình đắp bằng đất là những mẫu mực hoàn toàn cho các công trình xây bằng đá của thế kỷ 18 sau nầy, được xây dựng phần lớn trên nền tảng của thập tự quân bằng những tảng đá lấy từ bức tường thập tự quân.


ACZIB
Ngày nay được gọi là es-zib, đó là một hải cảng cổ xưa của người Phoenix làm chật ních đường bờ biển 9 dặm ở phía Bắc Acco. Bộ tộc Asher được phân chia vùng này, nhưng họ đã không thể tiếp quản thành phố. Ngày nay đây là một làng chài êm đềm giáp biển Địa Trung Hải ở phía tây, một nhánh sông ở phía nam, và sông Chezib ở phía bắc.
Những người khai quật đã mở các ngôi hầm mộ và hố mộ ở phía nam và nghĩa trang ở phía đông, tại đó 400 thi thể đã được hỏa táng và chôn cất trong suốt 300 năm - từ thế kỷ 10 TC cho đến cuối thế kỷ thứ 8 TC. Trong các ngôi mộ nầy có những khí mạnh nghi lễ, các tượng người nặn bằng đất sét, các bình nước đỏ bóng tao nhã, bình (có quai và vòi) với các sớ màu đỏ nổi tiếng của người Phoenic. Tro thi hài của từng người được đặt trong hố hỏa táng phía trên có một cái nắp và niêm phong bằng đất sét bùn.
Một khoảnh đất ở phía nam của mô đất đã được khai quật, tại đó người ta đã phát hiện các tàn tích của thập tự quân, người Ba Tư, người Hê-lê-nít, người La Mã, và các tàn tích trước thời La Mã. Ở phía bắc của mô đất một cái hào dài 40m bộc lộ một công sự thành lũy của thời kỳ Đồ Đồng Giữa mà nó đã bị phá hủy ở đầu thời kỳ Đồ Đồng Muộn. Thành phố đã được tái thiết, và trong sự san bằng của thời kỳ Đồ Sắt là tàn tích của một số tòa nhà công cộng, một trong những tòa nhà đó có vô số các bình (có quai và vòi) đứng cạnh nhau. Một số bình có câu khắc Arama, chẳng hạn như: "Kính dâng chúa tôi, quốc vương."


ADULAM
Đây là hang động thường xuyên được dùng làm bộ chỉ huy bí mật của Đa-vít và số thuộc hạ đông đảo khoảng 400-600 người. Theo truyền thống thì hang nầy toạ lạc tại miền đồng vắng ở vách đá cheo leo thuộc miền nam Wadi Khareitun, khoảng 2 dặm về phía nam của Herodium và 3 dặm về phía đông bắc của Tekoa.
Nơi này có vẻ hoang dã và bí hiểm, với các mảnh đá đồ sộ rải quanh hang, còn cái hang thì nằm trên một gờ dài, hẹp ở phía trên cao của đáy khe núi. Một tảng đá lớn gãy khúc nặng hàng tấn, gần như chắn ngang lối vào. Gần đó là một con suối với dòng nước mát và trong vắt.
Lối vào duy nhất của hang là một khe hở hình tròn với chiều cao khoảng 2,1m (7feet). Bên trong có một lối đi thấp và hẹp dẫn vào một cái hang nhỏ, từ cái hang nhỏ nầy có một lối đi quanh co dẫn vào một phòng rộng khoảng 464,5m2 (5000feet vuông). Các lối đi hẹp chẻ nhánh và dẫn đến các phòng lớn khác, một số phòng ở mức thấp hơn. Có một căn phòng rộng đủ chứa 1000 người, Nơi này dường như đáp ứng được yêu cầu nêu trong lời tường thuật của Kinh Thánh, và Đa-vít đã thường xuyên lẩn trốn vua Sau-lơ trong vùng đất nầy.


AI
(Đống tro tàn). Là địa điểm thứ nhì bị người Do Thái nhập cư tấn công dưới thời Giô-suê, là nơi thường được đồng nhất với Et-Tell, cách phía đông Bethel khoảng 2 dặm.
Dựa vào việc khảo sát các mảnh sành trên mặt đất và việc đào bới thử nghiệm vào năm 1928, Giáo sư Garstang và Tiến sĩ Albright kết luận rằng AI có thể đã thất thủ cùng thời điểm với Giê-ri-cô (1400 TC). Vào năm 1934-1935 Juddith Marquet-Krause và S.Yeivin tiến hành hai chiến dịch ngắn gọn mà qua đó họ đã tìm thấy di tích của một thành phố khá phồn vinh nhưng đã bị một trận hoả hoạn thiêu rụi vào khoảng năm 2200 TC. Người ta không tìm thấy các dấu vết xác định về việc chiếm đóng sau đó, ngoại trừ một làng nhỏ của người Hê-bơ-rơ được xây dựng giữa năm 1200 và 1100 TC.
Việc qua đời đột ngột của bà Marquet-Krause làm kết thúc công cuộc khai quật mà phải sau một thời gian dài nữa mới có thể hoàn tất. Báo cáo các kết quả của công cuộc khai quật, M.Dussaud nhấn mạnh những điều khám phá có tính chất phủ định từ năm 2200 TC - 1100 TC.
Một số người đã vội vã tuyên bố rằng, cuối cùng thì Kinh Thánh đã được chứng minh là không đúng sự thật. Tuy vậy, các lời tường thuật được viết cẩn thận trong chương 7 và 8 của sách Giô-suê nói rằng nơi đó có tên gọi là AI (đống tro tàn); đó là một địa điểm nhỏ ở phía đông Bethel; lúc ban đầu chỉ có "vài người đàn ông ở đó" nhưng sau đó, một công sự đã được xây lên nhanh chóng bởi tất cả đàn ông ở AI và Bethel (Gios Gs 7:3 8:17;), cho nên khi họ dại dột bỏ thành phố để đuổi theo Y-sơ-ra-ên, "không còn một người đàn ông nào ở lại AI và Bethel." Sau đó người Y-sơ-ra-ên mai phục ở giữa AI và Bethel. bò vào trong và đốt cháy thành phố. Quân đội của Giô-suê đã đánh bại liên minh AI-Bethel; quân đội Giô-suê trở lại và sau khi mang theo trâu bò cùng chiến lợi phẩm đã đốt rụi AI, để lại "đống hư tàn" (Gios Gs 8:28).


Theo lời kể lại trong Kinh Thánh, ta có lý do vững vàng để tin rằng không hề có sự chiếm cứ trải rộng trên địa điểm của AI vào thời Giô-suê - chỉ hơn một công sự gỗ tạm thời, do các đàn ông của AI và Bethel đồn trú. Vì vậy mà "đống" còn lại sau đám cháy ắt có thể gồm có tro, than và vài viên đá. Chắc hẳn là sau đó người ta đã lượm lặt những viên đá xây sạch sẽ, họ là những người đi tìm các viên đá đẽo sẵn; sau nhiều thế kỷ chia cắt và sự xói mòn mạnh mẽ của gió khiến cho các di tích kể từ thời Giô-suê gần như không thể nhận ra trong thời đại chúng ta. Tuy nhiên, với sự khai quật nhiều hơn và cẩn thận hơn, thì một số tàn tích ít ỏi còn sót lại của AI vào thời Giô-suê có lẽ sẽ được tìm thấy. Hoặc giả, AI với tiếng tăm trong Kinh Thánh sẽ được phát hiện vị trí ở một nơi nào khác.


AKELDEMA
hay "ruộng của người thợ gốm" nhắc nhở chúng ta về trường hợp bi thảm của Giu-đa khi ông ta bán Chúa lấy 30 miếng bạc, sau đó mang tiền đi trả với nỗi dày vò tâm linh và cuối cùng treo cổ mà chết. "Các thầy tế lễ cả lượm bạc và …bàn với nhau dùng bạc đó mua ruộng của kẻ làm đồ gốm để chôn những khách lạ. Nhơn đó ruộng ấy đến nay còn gọi là "ruộng huyết" (Mat Mt 27:6-9).
Ở đầu cùng phía đông của dốc phía nam thung lũng Hinnom là một vùng đá gồ ghề ước chừng 8093m2 (2 mẫu Anh). đã được biết dưới tên "ruộng của kẻ làm đồ gốm kể từ thời Jerome (400 SC). Tại đây, nơi trải dài từ một cái hang thiên nhiên cũng chính là nơi chôn cất khách lạ và kẻ bất hạnh qua nhiều thể kỷ.
Truyền thống thì khăng khăng cho rằng đây chính là vị trí của "nhà của người thợ gốm" mà Giê-rê-mi đã thăm viếng (Gie Gr 18:1-4) và sau đó các thầy tế lễ cả đã mua nó bằng đồng tiền phản bội để làm nơi chôn cất các khách lạ. Điều này có lẽ đúng vì nó đáp ứng được yêu cầu của Kinh Thánh và được nhiều chuyên gia chấp nhận.


ALEXANDRIA
Nơi sanh của Apollos, do Alexander đại đế làm nền móng vào năm 331 TC. Tại đây có cung điện của Ptolemies, các viện bảo tàng tuyệt vời, các thư viện lừng danh, với các dân chúng thông minh sắc sảo của Hy Lạp, Do Thái và Ai Cập, làm cho nơi đây trở thành một trong các trung tâm lớn nhất về tri thức và văn hóa của đế quốc La Mã.
Bản Bảy Mươi (280-170 TC) của Cựu Ước được viết tại Alexandria, và cũng tại đây trong thời Tân Ước, Philo Judaeus lúc sinh thời là một người Do Thái tài ba và kỉnh kiền, đã viết những bài về Ngôi Lời (Logos) ở một phương diện nào đó tương tự như các sách do sứ đồ Giăng viết.
Người Ả Rập chiếm Alexandria vào năm 641 SC, phá hủy các viện bảo tàng tráng lệ, đốt cháy đại thư viện với tất cả sách quý trong đó cùng với các bản thảo, các hồ sơ. Người Thổ Nhĩ Kỳ kế tục vào 1517. Những bức tường của Alexandria và các tòa nhà chỉ còn là đống hư tàn, và sự huy hoàng trước đây của Alexandira không còn nữa. Thành phố hiện đại được xây dựng bên trên các đổng đổ nát; vì vậy các khám phá về khảo cổ học bị hạn chế rất nhiều đối với các di tích như Cột Pompey và hai tháp kỷ niệm của thế kỷ 16 TC tên là "Những Cây Kim của Cleopatra." Vào năm 1878 một trong những tháp nầy được mang đến nước Anh và dựng trên đê sông Thames, gần Toà nhà Quốc Hội. Tháp còn lại được dựng lên ở Công viên Trung Ương, New York vào năm 1881.


AMARNA, TELL EL
Mô đất của Amarna) Nằm giữa chừng của Memphis và Thebes, và là di tích của thủ đô kiểu mẫu của Pha-ra-ôn Akhenaton (Amenhotep IV) đã bị cướp phá và bỏ mặc cho tàn lụi vào khoảng 1358 - 50 TC.
Văn bản, lịch sử, chính trị và quan hệ buôn bán cũng như phương thức và tập quán của vùng đất Kinh Thánh đã được soi sáng rất nhiều, vào năm 1187, một bà nông phu đào bới để tìm đất phì nhiêu trong mô đất của Amarna và đã khám phá văn thư lưu trữ hoàng gia của Amenhotep III và con hoàng tộc của ông là Amenhotep IV, Amenhotep IV khi mới bắt đầu sự nghiệp đã thay đổi tôn giáo và được biết đến như là Akhenaton.
Cuối cùng, hơn 350 phiến đã chữ hình nêm được phục hồi, hầu hết là các bức thư cá nhân chân tình và được gửi từ vua, quan tổng đốc và sĩ quan tại các thành phố và thành luỹ của Ba-by-lôn, Mitanni, Phoenic, Sy-ri và Palestine. Các phiến đá được viết được viết trong khoảng thời gian 1400-1358 TC và gửi đến hai vị Pha-ra-ôn tại cung đình Ai Cập. Một số phiến đá nầy hiện nay đang ở trong Viện Bảo Tàng quốc gia của Anh, Pháp, Ai Cập và Đức; một số khác do những nhà sưu tập tư nhân sở hữu. Các phiến đá nầy có chiều rộng 2-3 inches (5,08-7,62cm), dài 3-9 inches (7,62-22.86cm), khắc chữ ở cả hai mặt.


Hầu hết các phiến đá nầy đều viết bằng chữ hình nêm của Ba-by-lôn, và tiết lộ một sự thật rằng các dân tộc khác nhau của quốc gia Tây Á đã sử dụng chữ hình nêm như là một ngôn ngữ chung trong một thời kỳ dài. Vì vậy, khi Áp-ra-ham đến Sy-ri, Ca-na-an và Ai Cập ông có thể chuyện trò ngay với những con người khác nhau.
Còn về nội dung, những phiến đá bằng đất sét này miêu tả Palestine và các quốc gia xung quanh như là đang ở trong một tình trạng hỗn loạn bên trong, và đang bị tấn công từ bên ngoài. Chẳng hạn, quan tổng đốc và sĩ quan phụ trách Gezer đã viết cho Pha-ra-ôn và nói rằng, sau đây xin trích một phần:
"Xin chúa tôi vua tôi, thái dương trên trời, lưu tâm đến đất đai của Ngài, bởi vì Khabiri hùng mạnh chống lại chúng ta; và xin vua tôi, chúa tôi đưa bàn tay của Ngài đến tôi và xin Ngài giải thoát tôi khỏi bàn tay của họ. Như vậy họ sẽ không tiêu diệt được chúng tôi.


Một số lá thư đến từ Abddi-Heba, quan tổng đốc của Urusalem (Giê-ru-sa-lem), khẩn cầu sự giúp đỡ của Pha-ra-ôn Akhenaton để tránh cho đất nước rơi vào sự thống trị của người Ai Cập. Một đoạn của lá thư đã viết:
Kính gửi chúa tôi,vua tôi. Đầy tớ Ngài là Abdi-Heba xin thưa. Dưới chân của vua, chúa tôi, tôi xin sấp mình 7 lần và 7 lần… Toàn vùng đất đai của vua đang nổi loạn. Chẳng có một quan tổng đốc nào trung thành với vua, tất cả đều nổi loạn. Nguyện xin vua lắng nghe Abdi-Heba và gửi quân đội đến, bởi nếu quân đội không đến trong năm nay thì toàn bộ lãnh thổ của vua sẽ bị mất. Habiru sẽ cướp lấy thành lũy của vua. Nguyện xin vua quan tâm đất đai của Ngài. Habiru đang chiếm lấy các thành phố của vua…nếu không có xạ thủ nội trong năm nay, vậy thì xin vua gửi một đại diện để ông ta có thể giúp đỡ tôi cùng anh em của tôi và chúng tôi chết cùng vua, chúa chúng tôi.
Những phiến đá này thường xuyên sử dụng danh xưng Khabiri khi nói về những kẻ đang dày xéo đất nước. Nhiều học giả đã xem Khabiri như là người Hê-bơ-rơ, và nhiều tài liệu ăn khớp với những ngaỳ tháng đầu tiên (1400 TC) khi người Hê-bơ-rơ bắt đầu chinh phục xứ Ca-na-an dưới thời Giô-suê. Nhưững phiến đá nầy đang nói rằng "Tại đây chúng ta có một câu chuyện về sự chinh phục xứ Ca-na-an của Giô-suê được kể từ phía quân thù."


ANATHOTH
Nhà của thầy tế lễ A-bia-tha (IVua 1V 2:26) và nhà của tiên tri Giê-rê-mi (Gie Gr 1:1), toạ lạc khoảng ba dặm đôgn bắc của Giê-ru-sa-lem. Tên của nơi nầy tồn tại trong một làng nhỏ của Anata , nhưng tàn tích của chính Anathoth cổ lại nằm khoảng 731,5m (800yards) về phía tây bắc, trên đỉnh một ngọn núi rộng ngày nay có tên là Ras el - Kharrubeh . Những người khai quật khám phá rằng nơi đây bắt đầu có người cư ngụ khoảng 1000 trước công nguyên, như là một thành phố của thầy tế lễ Y-sơ-ra-ên, và tiếp tục cho đến thế kỷ thứ 7 SC. Người ta không tìm thấy những vật gì chắc chắn là của Giê-rê-mi, nhưng quang cảnh về phía đông của đồng vắng Giu-đa và biển Chết thì gây ấn tượng mạnh, nhắc nhở chúng ta về lời nói của Đức Chúa Trời thông qua Giê-rê-mi "…Ta há là một đồng vắng hay là một đất tối tăm mờ mịt cho dân Y-sơ-ra-ên sao?"

ANTIOCH
Là nơi mà những người theo Chúa Giê-xu được gọi là Cơ Đốc nhân, cách Giê-ru-sa-lem khoảng 300 dặm về phía bắc, trên bờ tây của sông Orontes. Vào thời cổ đại nó được gọi là "Hoàng hậu đông phương" do hoàn cảnh xung quanh đẹp đẽ, cũng như tầm quan trọng về thương mại của nơi đây, đây cũng là một vị trí chiến lược nằm trên giao lộ của các đoàn lái buôn giữa đông, tây, nam, bắc.
Đại học Princeton và Viện Bảo Tàng Quốc Gia Pháp bắt đầu khai quật vào năm 1932 tại Antioch, và trong 6 năm tiếp sau đó, hơn 20 nhà thờ đổ nát, vô số nhà tắm, hai nghĩa trang, một sân vận động và nhiều sàn nhà lắp ghép lộng lẫy đã được khái quật. Một số sàn lắp ghép nầy miêu tả sự thờ cúng thần Isis (nữ thần sinh nở của người Ai Cập). Một tranh hình lắp ghép lớn và được giữ gìn tốt (30 x 40 feet ) khoảng 9 x 12m, miêu tả truyền thuyết về chim phượng hoàng, trong khi đó thì một tranh lắp ghép được tìm thấy tại sàn nhà thế kỷ thứ 6 của một tòa nhà gần Cổng Thánh Phao-lô, đã mang câu khắc như sau: "Bình an cho những ai vào đây, những ai nhìn vào tranh nầy; vui mừng và phước hạnh cho những ai ở lại đây."
Tuy nhiên, khám phá gây xúc động mạnh nhất là ột cái cốc uống nước xinh đẹp bằng bạc, tạc từ một cục bạc và bên ngoài được bao bởi một cái ly tiệc thánh được chạm trổ tinh xảo với hình tượng trưng cành nho, ở giữa có 12 nhân vật đang ngồi mà nhiều người đã nghĩ hình ấy tượng trưng cho Đấng Christ và 11 sứ đồ của Ngài. Phần ly bên trong chứa được khoảng 2,35 lít (2,5 quarts chất lỏng), và hiển nhiên đó là một thánh tích thượng cổ với tính thiêng liêng vô cùng. Một vài người, không phải là tất cả, xem đó là Ly Tiệc Thánh của Chúa Giê-xu, được Ngài dùng vào Bữa Ăn Tối Cuối Cùng. Ly này có từ thế kỷ 1 đến thế kỷ thứ 6, hầu hết các học giả lại tán đồng rằng nó có từ thế kỷ 4-5 SC. Cái ly đôi nầy hiện đang để tại Tu viện Cloister, thành phố New York, và nổi tiếng là Ly Tiệc Thánh của Antioch.


ANTIPATRIS
Ngày nay có tên là Ras el Ain, nằm trên một mô đất cao, trên xa lộ cách Giê-ru-sa-lem 42 dặm, vào thời cổ đại, nơi này dẫn xuống thủ đô dọc bãi biển của Caesarea. Hê-rốt Đại đế đã xây dựng nó ngay phía thượng nguồn của sông Aujeh, để tỏ lòng tôn kính cha của ông là Antipater, đồng thời để làm nơi nghỉ chân vui vẻ của lữ khách.
Bảy mươi kỵ binh và 200 bộ binh đã áp tải sứ đồ Phao-lô như một tù nhân đã đi lạc đường lộ này sau khi nghỉ ngơi tại Antipatris, bộ binh đã ở lại và Phao-lô tiếp tục hành trình với kỵ binh để tới Caesarea, 26 dặm về phía bắc (Cong Cv 23:23-33). Nhiều đoạn của đường phố cổ La Mã nầy, từ Giê-ru-sa-lem đến Caesarea, đang được phát hiện gần Antipatris và vẫn còn cho đến ngày nay.


ARABAH
Ngày nay được biết với tên Wadi Arabah, bắt đầu tận phía nam của biển Chết và trải dài 120 dặm về phía nam cho đến vịnh Aqaba. Đó là một vùng lõm, khô cằn với bề rộng 6-12 dặm - thực tế là sự nối dài của thung lũng Great Rift, khu vực này đã được biết từ thời Kinh Thánh cổ đại dưới tên là Arabah. Bắt đầu từ 393,8m (1292 feet) dưới mực nước biển thung lũng cao dần dần về phía nam khoảng 67 dặm cho tới đường phân nước mà tại đây cao 201,2m (660 feet) trên mực nước biển. Từ đây nó xuống thấp nhanh chóng cho tói 45 dặm về phía nam trải dài tới vịnh Aqaba tại Ezion Geber.
Sự thăm dò bề mặt cùng với những cuộc đào bới qui mô nhỏ do Tiến sĩ Nelson Ghueck tiến hành đã khám phá một số làng mạc đổ nát với nhiều mỏ đồng, mỏ bạc mà trong thời Sa-lô-môn (900-1000 TC), người ta đã lấy quặng tại đó cũng như trong thời Nabateans (300 TC-100 SC).


ASHDOD
Niềm kiêu hãnh về quân sự của người Phi-li-tin cổ đại được đặt tại một đồi thấp tròn, cách Ashkelon cổ đại 9 dặm về phía đông bắc, 3,5 dặm phía đông nam của Ashdod - thuộc địa cận đại của người Do Thái. Mô đất có diện tích khoảng 100 acres (40,468 hécta), trong đó gồm có một thành lũy kiên cố và một thành phố ở phía dưới.
Khi người Phi-li-tin cướp lấy hòm giao ước. họ đã đưa hòm đến đây và đặt trong đền thờ Đa-gôn. Sáng hôm sau dân chúng kinh ngạc khi thấy tượng thần Đa-gôn ngã gục trước hòm giao ước của Đức Chúa Trời (ISa 5:3). Tiên tri Ê-sai (EsIs 20:1) báo cáo rằng Sargon, vua A-si-ri (721-705 TC) đã sai Ta-tân là vị tướng của mình đến chiếm lấy thành Ách-đốt. Một vài nhà bình luận có sự tranh cãi về điều này bởi lịch sử thế tục chẳng hề đề cập đến một vị vua như vậy. Nhưng vào năm 1842, M.Botta đã khai quật khorsabad và tìm thấy một cái ống hình tám cạnh có ghi hàng chữ: "Trong cuộc viễn chinh lần thứ 9 đến miền đất bên ngoài biển lớn, đến Phi-li-tin và Ách-đốt tôi đã đi…các thành phố của Ách-dốt và Gimzo của người Ách-đốt, tôi đã bao vây và chiếm lấy."
Herodotus thuật lại rằng Psamtik I (633-610 TC) là Pha-ra-ôn của Ai Cập, bao vây Ách-đốt trong 29 năm trước khi những lá cờ của Ai Cập tung bay trên thành phố. Sau khi làm báp-tem cho viên hoạn quan người Ê-thi-ô-pi thì Phi-líp đã đến thành A-xốt (Ashdod) để giảng Tin Lành.


Trong lúc khai quật tại đây vào năm 1962 thì Moshe Dothan và David Noel Freedman đã khám phá 20 tầng lớp cư ngụ cho thấy sự cư ngụ của con người từ thế kỷ 17 TC đến thời Byzantine. Trong ba tầng lớp xã hội của người Phi-li-tin (XIII-XI) họ tìm thấy một cái cổng vào thành phố, một đền thờ, tàn tích của những ngôi nhà, kho ngũ cốc, máy ép rượu, lò nướng bánh, dụng cụ nông nghiệp, vũ khí, và những con dấu được khắc với chữ viết không ai biết. Việc khai quật xác minh sự ghi chép của Kinh Thánh về sự tàn phá của Uzziah, vua xứ Giu-đa (IISu 2Sb 26:6) và khám phá ba trăm bộ xương người vào lúc Sargon chinh phục thành phố. Việc xác minh được chính xác hơn nhờ mảnh vụn của bia Sargon do ông ta dựng lên vào năm 712 TC.


ASHKELON
Là một trong năm thành phố liên bang của người Phi-li-tin, nằm trên bờ biển Địa Trung Hải, cách Gaza 12 dặm về phía bắc. Trông nó chẳng khác gì một cây cung đang giương về phía biển, và tàu bè của nhiều nước khác nhau đã đến bến cảng cổ đại của thành phố nầy để mua ngũ cốc và chở đi. Tại đây Hê-rốt đại đế đã ra đời, sau nầy ông trang trí thành phố bằng nhiều tòa nhà và phố xá với các dãy cột.
Tiến sĩ J.Garstang và W.J.Phythian-Adams khai quật tại đây vào 1921-1922 và tìm thấy nhiều tàn tích chứng tỏ nhiều người đã sống ở đây - người Ca-na-an, người Phi-li-tin, người Mác-ca-bê, người Hê-lê-nít, người La Mã, thập tự quân và người Ả-rập. Trong số những di tích quan trọng là hoàng cung lớn do Hê-rốt đại đế xây dựng và một ngôi mộ trang trí rất đẹp.

ASSHUR
Đây là nơi đầu tiên trong bốn thủ đô của đế quốc A-si-ri hùng mạnh, ngày nay được gọi là Qala'at Sherqat, toạ lạc tại bờ tây của sông Tigris, cách Mosul hiện đại 60 dặm về phía nam.. Lịch sử của Asshur bắt đầu từ khoảng 3000 TC, các thành phố lần lượt trở nên thịnh vượng, rồi bị phá hủy, thành phố cuối cùng bị tàn phá vào năm 614 TC.
Việc khai quật mô đất nầy lần lượt do Layard, Rassam và Koldewey đảm trách. Layaard cảm thấy hứng thú khi ông ta nghe người Ả-Rập bàn về cái mô đất có chứa "những hình người kỳ lạ tạc bằng đá đen." Ngay sau khi các nhân viên của Layard bắt đầu làm việc, họ tìm thấy một tượng ba-dan đen bằng với cỡ người mà ba phía được phủ đầy các câu khắc chữ hình nêm nói về Shalmaneser III. Sau đó ông ta tìm thấy các viên gạch có khắc chữ, các viên đá làm ranh giới, mảnh vỡ của các phiến đá mỏng có khắc chữ và vài ngôi mộ với đầy đủ nội dung bên trong.
Trong năm 1853 Hormuzd Rassam cùng với công nhân đang đào bới mô đất thì Rawlins gửi một thông điệp khuyến cáo Rassam nên tìm kiếm "viên đá góc nhà" tại nền móng của ngôi miếu cổ (ziggurat: miếu hình kim tự tháp của người A-si-ri và Ba-by-lôn). Ngay sau khi điều tra, Rassam tìm thấy hai "phiến đá móng" của Tiglath - Pileser I (1110-1103 TC) và về sự tái thiết của Tiglath-Pileser khi ông còn sống. Một phiến đá đề cập rằng đây là thành phố Asshur.


Năm 1903, những người Đức dưới sự chỉ đạo của Robert Koldewey, bắt đầu công cuộc khai quật có hệ thống và tiến hành cho đến khi thế chiến thứ nhất bùng nổ. Họ thu thập được khối lượng lớn đồ sứ, dấu vết về đường nét của các đền thờ, miếu thờ, cung điện, phố xá và các công sự, cũng như khám phá nhiều bia có khắc chữ của các vị vua A-si-ri. Họ tìm thấy một bài thơ song ngữ của người A-si-ri nói về sự sáng tạo thế gian và sự khai sinh của nhân loại. Những dấu hiệu cùng với bài viết trông giống như "các nốt nhạc." Quy mô khám phá của người Đức tại Asshur có lẽ sẽ không được người ta biết đến, bởi vì chiến tranh cắt đứt công việc và các báo cáo đầy đủ và ấn phẩm cũng sẽ không bao giờ được thực hiện.


ATHENS
Một trong những trung tâm văn hóa lớn nhất trong thời Phao-lô, phát triển trên một cao nguyên đá ở độ cao 158,5m (520feet) có tên là Acropolis. Tại đây, trên vùng đất cao nầy đứng sừng sững Parthenon nhiều cột, đó là kỳ quan kiến trúc nổi tiếng, và cũng có nhiều công trình xây dựng lớn dành cho việc thiêng liêng, nên chỗ nầy được gọi là "Acropolis nhiều đền thờ."
Về phía bắc của Acropolis là trung tâm hành chánh danh tiếng và khu vực thương mại, mang tên Agora, tại đó người ta không những buôn bán mà còn thăm viếng và thảo luận các vấn đề sôi nổi lúc bấy giờ. Từ Acropolis tiến về phía đông bắc là một đồi đá có tên Areopagus hay Đồi Hoả Thần, tại đây các hội đồng và Tòa Án Tối Cao nhóm họp. Cả hai nơi này đều quen thuộc đối với Phao-lô. Tại khu thương mại, Phao-lô "biện luận…hằng ngày với những người tình cớ có mặt ở đây" (Cong Cv 17:17). Trong số những người theo phái Khắc Kỷ và phái Khoái Lạc đang nghe Phao-lô, có người hiếu kỳ, hâm mộ nhận xét rằng: "Ông ta dường như đang giảng về các thần ngoại quốc." (Cong Cv 17:18). Vì vậy họ đưa Phao-lô lên đồi để nói trước phiên họp không chính thức của tối cao pháp viện. Đứng giữa Đồi Hỏa Thần, trước các vị đại biểu uyên bác vào bậc nhất thời đó, cũng có nhiều người khác đến lắng nghe Phao-lô nói về việc "Thờ Thần Không Biết" và công bố một trong những sứ điệp mạnh mẽ của mọi thời đại. Một số người cười nhạo, một số người xúc động sâu xa, và những người khác đã tiếp nhận Đức Chúa Trời.
Nhờ vào nhóm Nghiên Cứu Cổ Điển Hoa Kỳ, khu thương mại đã được khám phá, các đường sá được vẽ thành sơ đồ, các tòa nhà đổ nát được nhận dạng.
Bậc thang bắng đá gồm 35 nấc được tạc bằng đá ở tận trên đồi Hỏa Thần, và các dấu vết của bàn thờ và nhiều băng ghế đá trên đỉnh đồi có thể thấy được mãi đến nay. Hàng ngàn du khách từ các nơi trên thế giới, đến đứng trên các nấc thang nầy trên đồi Sao Hỏa, họ vẫn còn cảm xúc bởi ngôn từ và sức mạnh tinh thần trong bài thuyết giảng của Phao-lô.
Về phía tây nam là con đường cổ dẫn đến Cô-rinh-tô
Tại A-thên người ta không tìm thấy tàn tích của câu khắc bàn thờ "Kính Lạy Thần Không Biết" mà Phao-lô đã đề cập, nhưng vào năm 1903 người ta tìm thấy một câu khắc giống như vậy trên một bàn thờ khi khai quật thành phố Pergamum (xem thêm 4422).


BAALBEK
Ở giữa bình nguyên Bekaa phì nhiêu, giữa rặng núi Li-băng và Đối Li-băng chính là đống hư tàn khổng lồ của Baalbek, nơi mà người Hy Lạp và người La Mã gọi đó là Heliopolis, "thành phố mặt trời."
Khởi thủy thành phố này có từ rất lâu đến nỗi nó thất lạc trong truyền thuyết cổ đại của Ba-anh "vị thần kiểm soát vận mệnh con người." Trong các thế kỷ đầu tiên của thời đại Cơ Đốc chúng ta, Baalbek đã hết sức thịnh vượng mà còn nổi tiếng nữa. Các tòa nhà mà chúng ta biết ngày nay là do Hoàng đế La Mã Antonius Pius (138-161 SC) khởi công và được tiếp tục bởi Septimius Severus và những nhà cai trị khác cho đến Caracalla (211-217). Người La Mã xây dựng Baalbek để tôn vinh thần Jupiter, Ba-anh và thần Bachus. cũng nhằm tạo ấn tượng về sức mạnh và vĩ đại của La Mã đối với các quốc gia Cận Đông. Là một trung tâm thờ phượng mặt trời, nó được vinh dự như ngôi đền thánh vì được nhiều nhà cai trị cũng như những nhân vật lừng danh xa gần đến viếng thăm.
Dưới thời Constantine, đền thờ Baalbek trở thành nhà thờ Cơ Đốc, nhưng khi người Ả-rập chiếm thành phố vào năm 634 SC thì họ biến toàn bộ đền thờ thành một pháo đài vững chắc có vai trò quan trọng trong chiến tranh thập tự quân vào thời Trung Cổ. Baalbek đã bị cướp phá và hầu như bị tàn phá một đôi lần nhưng vẫn tồn tại. Vào năm 1664 và năm 1750 là các trận động đất dữ dội làm cho nó mãi mãi không phục hồi nữa.


Lần đầu tiên châu Âu biết đến Baalbek thông qua hai kiến trúc sư người Anh, Wood và Dawkings, họ đã thăm viếng hiện trường vào năm 1751. Sau chuyến đi Giê-ru-sa-lem và Đa-mách vào năm 1898, Kaiser Wilhelm II và hoàng hậu Đức đã viếng Baalbek. Họ đến nơi vào lúc chiều tối, dựng lều trại trên khu đất trống giữa đống hư tàn, và rời khỏi đó vào sáng hôm sau. Tuy nhiên, cuộc dừng chân ngắn ngủi nầy cũng đủ để thuyết phục vị vua người Đức này làm hết sức mình để bảo tồn đống hư tàn hùng vĩ ấy cho thế hệ mai sau. Sau khi trở về Berlin, vua Kaiser Wilhelm II đã có những biện pháp cần thiết, trong vài tuần sau đó các chuyên gia Đức đã có mặt tại hiện trường. Vào năm 1900, dưới sự giám sát của nhà khảo cổ Otto Pucchstein và kiến trúc sư Bruno Schutz, các chuyên gia và công nhân bắt đầu dọn đống gạch vụn, một tháng sau thì công việc khai quật bắt đầu. Khoảng năm 1904 công việc chính yếu coi như hoàn tất; hàng tấn gạch vụn được dọn sạch và trật tự thay cho sự hỗn độn trước đó. Hiện trạng của thành phố là kết quả công việc được thực hiện cách đây khoảng 75 năm.
Kể từ khi Baalbek được người ta viếng thăm và nhiều du khách đã kinh ngạc về nơi nầy, họ dễ dàng nhận ra rằng Baalbek là một trong những đống hư tàn nổi tiếng nhất vùng Địa Trung Hải. Chỉ có đền thờ Amon tại Karnak, đống hư tàn tại Palmyra và Parthenon (đền thờ nữ thần Athena của Hy-lạp, xây xong vào khoảng 438 TC) tại Athens mới sánh nổi với Baalbek. Baalbek tồn tại được lâu dài một phần nhờ sự xây dựng kiên cố, dầu đây là một công trình có qui mô khổng lồ. Đống hư tàn chỉ có diện tích khoảng 290m x 198m (950feet x 650 feet), nhưng nó là hỗn hợp của công trình kiến trúc La Mã lẫn đông phương, như một nhà quan sát đã nhận xét "đó là sự pha trộn giữa sự đồ sộ và sự duyên dáng", để đem lại cho người xem "một cảm giác thanh thản sâu xa."


BABYLON
Thành phố hùng vĩ nhất của thế giới cổ đại, phần lớn được xây dựng bởi nỗ lực của Hammurabi (1728-1686 TC) và Nê-bu-cát-nết-sa II (604-562 TC). Nó suy tàn theo sự sụp đổ của Nebuchadnezzar, và càng suy sụp hơn dưới thời Bên-xát-sa, cuối cùng tàn lụi dưới tay của người Parthian vào năm 130 TC.
Nieebuhr, Rich và Rassam đã thăm dò kỹ lưỡng đống hư tàn của Ba-by-lôn nằm dọc hai bên sông. Nhưng công lao thuộc về Robert Koldeway và các nhân viên của ông với sự khai quật kỹ lưỡng trong suốt 14 năm ròng rã tại Ba-by-lôn từ 1899 đến 1913.
Các khám phá tại Ba-by-lôn không kém gì những khám phá phi thường. Trong số các khám phá quan trọng hơn gồm có: (1) một bức tường quanh thành phố chính với chiều dài hơn 14 dặm, bề dày khoảng 41,5m (136,5feet); (2) nhiều cổng thành phố, trong số đó có cổng Ishtar có 575 bức hình tráng men các con rồng, bò đực, sư tử là nổi bật nhất; (3) "con đường lễ rước" đi vào thành phố theo Cổng Ishtar ở phía bắc, đi ngang hoàng cung, rồi xuyên thẳng qua thành phố chính đến đền thờ Marduk "Đấng Sáng Tạo, Vua của vũ trụ"; (4) cung điện trang hoàng lộng lẫy của Nê-bu-cát-nết-sa với phòng yến tiệc và phòng đặt ngai vua 51,2m x 17m (168feet x 56feet; (5) nền móng và đường nét bên ngoài của Tháp Ba-bên, có tên là "E-Temen-an.Ki" (Nhà của bệ móng Trời và Đất), người ta tin rằng đó là tàn tích của tháp Ba-bên xấu số được đề cập trong sách Sáng Thế Ký; (6) Vườn Treo hay một đống hư tàn trải rộng như hình tứ giác, tạo nên một hầm mộ với mái vòm cao, hoặc như căn phòng nằm dưới mặt đất được chống đỡ bởi vòm gạch, phía trên phủ bằng bụi bẩn và gạch vụn. Các nhà khai quật tin rằng những đống hư hàn nầy là tàn tích của cấu trúc nền Vườn Treo lừng dành (một trong Bảy Kỳ Quan Của Thế Giới Cổ Đại); (7) và khoảng 300 phiến đá chữ hình nêm đều nói về sự phân phối dầu ăn và lúa mạch cho các tù nhân, công nhân lành nghề đến từ nhiều nước và sống ở Ba-by-lôn và những vùng lân cận, trong khoảng thời gian 595-570 TC. Trong số những con người được đề cập là "yow-keen" (Joiachin) "Vua của xứ Yehud" (Judah hay Giu-đa) và năm người con trai trẻ của ông đang nằm trong tay của Keniah chính là người hầu cận của họ.


BEERSHEBA
Trung tâm của đời sống tộc trưởng, có nghĩa là "Giếng của lời thề", tên nầy bắt nguồn từ lời thề giữa Áp-ra-ham và A-bi-mê-léc, vua của Ghê-ra (SaSt 21:31). Hai trong số những cái giếng ở vùng này đã có từ xưa, người ta nghĩ rằng chúng liên quan đến các tộc trưởng - rất có thể là chính những cái giếng mà tộc trưởng và gia nhân đào lấy. Những cái giếng hình tròn và giếng lớn có đường kính khoảng 3,8m (12,5feet) và sâu chừng 20,1m (66feet). Vào năm 1874, trên một trong những viên đá xây nền được lót trong thành giếng, Condor đã tìm thấy dòng chữ ghi ngày tháng cho biết việc sửa chữa đã được thực hiện vào thế kỷ 12 SC. Thành giếng bằng gạch cũ xưa này bị dây thừng xói rãnh trong nhiều thế kỷ nay được thay bằng một miệng giếng mới hơn và một cái bơm nước có phần nào cận đại. Nhưng nhiều lạc đà, trâu bò, cừu vẫn uống nước ở đây hàng ngày bằng các viên gạch đẽo và máng xi-măng.
BELVOIR
Là một pháo đài danh tiếng của thập tự quân với một trong những bức tường công sự đẹp nhất, trải dài về phía đông từ núi Moreh. Belvoir ở độ cao 426,7m (1400feet), phía trên thung lũng Giô-đanh và cũng chính nhờ tọa lạc ở độ cao như vậy nên có thể quan sát các hoạt động xảy ra trên mọi nẻo đường giữa Ti-bê-ri-át và Beth Shan. Belvoir có thể nhìn rõ hai xa lộ đi lên từ thung lũng Giô-đanh về hướng tây vào trong nội địa, một hướng theo ngã thung lũng Jezreel và một hướng theo lối đi của thung lũng Tabor.
Trong thời La Mã, thì pháo đài của Agrippina được xây tại đây. Vào năm 1168, thập tự quân chiếm nơi nầy và dựng lên Belvoir như là một trong các pháo đài của họ. Belvoir đẩy lùi lực lượng hùng mạnh của người Hồi giáo cho tới tháng 1.1191, khi tháp phía đông bị phá hoại ngầm và bị tiêu diệt. Thấy được cảnh tiếp tục chiến đấu vô vọng, các thập tự quân cầu hòa và được phép tự do đi đến Ty-rơ. Belvoir bị phá hủy vào năm 1241, và một làng Ả-rập đã mọc lên trên đống đổ nát của Belvoir và cuối cùng bị bỏ hoang từ năm 1948.
Vào năm 1966-1967, M.Ben-Dor đại diện Cơ Quan Phụ Trách Công Viên Quốc Gia Do Thái tiến hành việc khai quật khu vực nầy, đã tìm thấy chuồng trại, nhà kho, bể chứa nước, một nhà bếp, một đại sảnh rất đẹp với các cộ bằng đá bazan đen được khám phá gần đống đổ nát của một nhà thờ.


BETHANY
Nhà của Ma-ri, Ma-thê và La-xa-rơ, ngày nay gọi là el-Azarieh ("nơi của La-xa-rơ"). Nó nằm trên dốc phía đông của núi Ô-li-ve, cách Giê-ru-sa-lem hai dặm về hướng đông.
Tàn tích cổ xưa gồm có một cái hang mộ, một số người coi đó là mồ của La-xa-rơ, và có một đống đổ nát của hai căn nhà được người ta nói với du khách rằng đó là nhà của người phung có tên Simon và nhà của Ma-ri, Ma-thê, La-xa-rơ nhưng thật ra chẳng có gì đáng tin cậy cả.
Nơi gọi là "mồ của La-xa-rơ" là một hang động, đi xuống bằng 25 bậc thang. Ta thấy ít có khả năng cái hàng nầy lại có liên quan gì đến mồ mả của La-xa-rơ, tuy vậy người ta đã gọi như thế từ 300 SC. Đống đổ nát hai tháp được người ta biết đến như là nhà của người phung tên Si-môn, tại đó Chúa Giê-xu đã được xức dầu cam tòng hương qúi giá (Mac Mc 14:3-9) thì có nguồn gốc từ thời trung cổ. Nơi tàn tích không mái nhà được cho là nơi Ma-thê "đã mở cửa để chào đón Chúa" (LuLc 10:38) thì khó có thể là că nhà mà Chúa Giê-xu và các môn đồ của Ngài đến thường xuyên tại Bê-tha-ni. Tuy vậy, thì ba đống đổ nát nầy đã tưởng niệm các sự kiện thiêng liêng trong cuộc đời của Chúa chúng ta.

BETHEL
("Nhà của Đức Chúa Trời") Là nơi mà Áp-ra-ham xây bàn thờ thứ nhì, tại đó Gia-cốp đã thấy khải tượng thiên sứ đi lên đi xuống trên thang bắc lên đến tận trời, cũng tại đó, sau hai mươi năm. Gia-cốp đã trở lại theo lời thề hứa để xây một bàn thờ cho Chúa và đặt tên là "El Bethel, vì là nơi Đức Chúa Trời đã hiện ra cùng người…" (SaSt 35:2-7). Giê-rô-bô-am đã làm ô uế nơi này khi ông ta dùng một con bê bằng vàng dâng làm của lễ.
Tiến sị Albright của Học Viện Nghiên Cứu Đông Phương Hoa Kỳ tiến hành thăm dò chiều sâu tại đây vào năm 1927, và có thêm sự tham gia của Tiến sĩ J.L.Kelso của Thần Học Viện Pittsburgh Xenia cùng với nhóm các nhà khảo cổ trẻ vào năm 1934. Công việc khai quật được Tiến sĩ J.L.Kelso thực hiện tiếp tục vào năm 1954.
Các khám phá cho thấy tại đây có sự định canh định cư vào khoảng năm 2000 TC, rồi một đám cháy dữ dội đã phá hủy nơi này vào thế kỷ 13 TC, có thể là vào thời kỳ hỗn loạn của Các Quan Xét, hoặc như một số người đã đồng ý, người Y-sơ-ra-ên nhập cư vào thời Giô-suê đã tàn phá nơi đây. Thị trấn đã được tái thiết vào thế kỷ thứ 9, bị người A-si-ri tàn phá vào 724-722 TC, cùng thời gian với sự bao vây Sa-ma-ri, Bê-tên đã phục hồi nhưng lại bị một đám cháy lớn làm tàn lụi vào năm 597 TC, có lẽ là do quân đội của Nê-bu-cát-nết-sa. Tái thiết vào cuối thời kỳ Ba Tư, Bê-tên phồn thịnh cho đến 70 SC thì bị người La Mã tàn phá, cùng lúc với người La Mã tàn phá Giê-ru-sa-lem.
Những bức tường thành có sớm hơn trước đó là một trong những vật được khám phá quan trọng nhất tại Palestine của thời kỳ ấy và tại đó có một hệ thống mương lót đá được xây dựng cực kỳ tốt đi phía dưới sàn trát thạch cao và dẫn nước mưa cũng như nước tiêu (?) bên ngoài tường thành. Ở cấp độ thành phố ban sơ người ta thấy có nhiều đồ vật cúng tế của người Ca-na-an, nhưng sau khi người Y-sơ-ra-ên chiếm thành phố thì chẳng còn hình tượng nào hoặc đài tưởng niệm dành cho thần giả - chẳng hề còn bết tích của con bê bằng vàng.


BETHESDA
Là một cái ao được cấp nước từ một con suối, xung quanh có năm vòn cửa, tại đây Chúa Giê-xu đã chữa lành người bệnh 38 năm (GiGa 5:2).
Sự ghi nhận duy nhất chỉ ra vị trí của Bê-tết-đa "gần Cửa Chiên." Hiển nhiên Bê-tết-đa nằm ở phần đông bắc của thành phố, bởi vì dựa theo Josephus và các chuyên gia cổ đại thì khu chợ chủ yếu bán chiên cừu tại Giê-ru-sa-lem nằm phía bắc khu vực Đền Thờ, cũng như chợ cừu Ả-rập trong thời đại gần đây được đặt bên ngoài Cổng Hê-rốt. Bản đồ Medeba (thế kỷ thứ 5) cũng cho biết vị trí của cái ao trong khu vực nầy mang tên là Bezetha.
Vào năm 1888 việc trùng tu được thực hiện ở nhà thờ Thánh Ann nằm tại khu vực đông bắc của Giê-ru-sa-lem, lúc đó dường như có một cái hồ lớn chứa nước ở đây. Giáo sư Conrad Schick đã làm tư vấn và tổ chức cho một cuộc thám hiểm và đã khám phá toàn bộ khu vực xuống đến cấp độ La-mã, họ phát hiện hai cái ao lớn có nằm vòm cửa và vô số mảnh vụn của trụ và cột - tất cả theo kiểu kiến trúc La-mã, nhưng hiển nhiên có phần nào muộn hơn thời kỳ của Chúa Giê-xu. Dẫn xuống ao là những bậc thang dốc, ngoằn ngoèo và trên một bức tường lồi ra từ một vòm cửa ao, người ta thấy một bức tranh tường đã phai mờ vẽ một thiên sứ trong nước đang khuấy động. Theo truyền thuyết của giáo hội ban đầu thì đây chính là Bê-tết-đa.


BETHLEHEM
Thành phố Đa-vít cách Giê-ru-sa-lem về phía nam khoảng 5 dặm. Tại đây Ra-chên đã được chôn cất và Ru-tơ đã mót lúa trên cánh đồng của Bô-ô, Đa-vít đã được xức dầu để làm vua, Đấng Christ đã ra đời trong máng cỏ và các nhà thông thái đến từ đông phương để tìm thờ Cứu Chúa.
Ngày nay ngôi mộ của Ra-chên nằm bên cạnh xa lộ, tại lối vào thành phố. Người Hồi giáo, Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo đều quí trọng ngôi mộ này, và nó được coi là một trong những địa điểm xác thực nhất của Thánh Địa.
Nhà thờ Chúa Giáng Sinh do Helena (mẹ của hoàng đế Constantine) xây vào năm 328-330 SC trên mảnh đất truyền thống nầy, ngày nay nhiều người tin rằng đó chính là nơi sinh ra Chúa Giê-xu. Hoàng đế Justinian (527-565 SC) tái thiết nhà thờ vào thế kỷ thứ 6. Dù điêu tàn nhưng ngôi nhà thờ nầy vẫn tồn tại ở Bết-lê-hem. Vào 1934, ông William Harvey tiến hành việc khai quật hạn chế, ở độ sâu 45,8cm (18 inches) dưới sàn nhà của nhà thờ hiện tại, ông đã khám phá một phần của sàn lắp ghép của nhà thờ nguyên thủy do Helena và Constantine xây dựng. Một số tranh lắp ghép có hình hoa lá, hoa quả, chim chóc; những hình khác là các hình học. Trong các hình trang trí nầy chẳng hề có cảnh tôn giáo bởi vì sàn này được dùng để bước trên đó.
Dưới khu vực ban hát, ở tận phía đông của nhà thờ là dãy cầu thang dẫn xuống hang của Nơi Giáng Sinh, cách sàn nhà độ 7,6m (25feet). Nguyện đường có dạng caai hang này có kích thước 3,65m x 12,2m (12 x 40feet). Các bức tường hoàn toàn bị ẩn khuất bởi các tấm thảm và có những đèn treo rất đẹp trên trần nhà. Ở cuối phía đông của nguyện đường là một cái hầm mộ nhỏ, sàn đá hoa được lắp một sao bằng bạc màu đỏ son và thắp sáng bằng 16 ngọn đèn bằng bạc và sàn được bao quanh bởi một câu khắc đơn giản bằng tiếng La-tinh tuyên bố một sự kiện lạ lùng nhất của lịch sử: "Tại đây, Giê-xu Christ sinh bởi Nữ Đồng Trinh Ma-ri". Gần đó là một máng cỏ làm đầy đủ ý nghĩa của lời tuyên bố sâu sắc: "người sinh con trai đầu lòng, lấy khăn bọc con mình, đặt nằm trong máng cỏ, vì nhà quán không còn chỗ cho họ ở." (LuLc 2:7).


BETHSAIDA
Quê hương của Phi-líp, Anh-rê, Phi-e-rơ, nằm tại bình nguyên Batiha, phía đông và phía bắc là nơi sông Giô-đanh chảy vào biển Ga-li-lê. Bình nguyên trải dài 2 dặm dọc theo Giô-đanh và dọc theo núi hướng đông khoảng 1 dặm.
Et Tell, là một mô đất nhỏ trên rìa bắc của bình nguyên, thường được người ta xác nhận là Bết-sai-đa. Nhưng một đống đổ nát mang tên el-Araj nằm trên bờ biển, và ngay tại phía đông là nơi mà con sông chảy vào thì được một số người nghĩ rằng đó là địa điểm của Bết-sai-đa "làng chài." Một số giả thuyết cho rằng "Bết-sai-đa tại Ga-li-lê" theo sứ đồ Giăng (GiGa 12:21) ám chỉ rằng có hai nơi mang tên Bết-sai-đa, một nơi ở phía tây Giô-đanh gần hơn Ca-bê-na-um. Nhưng theo lời thuật lại trong sách Tin Lành, thì nói chung, dường như chỉ có một Bết-sai-đa, và các truyền thuyết xa xưa hơn đồng ý với quan điểm này. Việc khai quật trong tương lai có lẽ sẽ giải quyết được vấn đề, nhưng có điều chắc chắn là vị trí chính xác của nơi này không ảnh hưởng đến sự tường thuật trong sách Tin Lành.

BETH SHAN
Nằm tận cuối phía đông của thung lũng Jezreel, và nằm trên bơ2 sông phía nam của sông Jalud. Nó canh giữ xa lộ giữa các thung lũng Jezreel và Jordan và vì vậy nó hết sức quan trọng về mặt chiến lược.
Công cuộc khai quật của Đại học Pennsylvania giữa năm 1921 và 1933 do Clarence Fisher, Alan Rowe và G.W.Fitz Gerald tuần tự diễn ra đã mang lại nhiều khám phá và đưa ra ánh sáng cho phần lịch sử của thành phố cùng vai trò của nó trong vở kịch mà Ai-cập, Y-sơ-ra-ên và Phi-li-tin đóng vai chính. Khoảng chín cấp độ cư ngụ đã được khai quật, và người ta đã tìm thấy trong những địa tầng khác nhau những bằng chứng văn hóa như đồ sứ, tượng, đá quý, đồ trang sức hình bọ hung, dấu ấn và hủ bằng vàng nặng cỡ 3kg (6 pound) để dâng thần Ba-anh. Mười ba bia khắc hoặc đài tưởng niệm có khắc chữ đã được khám phá. Hai bia khắc trong số đó có mang câu khắc của Seti I (1318-1301 TC) và một bia của Rameses II (1301-1234 TC) và một cái là tượng của Rameses III (1198-1167 TC).


Bia khắc đầu tiên của Seti I kể lại rất chi tiết rằng ông ta đã gửi "quân đội đầu tiên của Ra" đến Bết-sê-an bằng cách nào để lật đổ liên mih của nhân dân địa phương đang đe dọa sự thống trị của người Ai-cập. Bia khắc đi có nội dung liên quan đến việc đẩy lùi "người Apiru trên núi của Jordan" là người đang muốn bành trướng. Bia khắc này hàm ý nói rằng rất có thể bộ tộc Ma-na-se "không đuổi được dân cư của Bết-sê-an…và các dân cư ở xung quanh họ" (Cac Tl 1:27).
Bia khắc cao 2,74m (9 feet) của Rameses II được đề ngày là năm thứ chín lúc ông trị vì. Hai mươi bốn dòng chữ trên bia khá mòn, nhưng nó đã mô tả vị vua như là "một con chim ưng giữa bầy chim" là người khiến kẻ thù "bay như lông hồng trước gió." Trong những lời khoác lác của mình, có đề cập đến thành phố Rameses (hoặc Raamses) ở Ai-cập. Đáng tiếc là nguời ta cho rằng bia khắc có đề cập đến thành phố Rameses có nghĩa là các lao công nô lệ châu Á đã xây dựng thành phố đó. Báo chí tuyên truyền rộng rãi khám phá này khiến cho nhiều người tin rằng Rameses II phải là Pha-ra-ôn áp bức, còn Merenptah cùng con trai và người kế vị là Pha-ra-ôn trong Xuất Ê-díp-tô Ký. Sau đó, khi báo cáo chính thức được công bố thì công chúng được thông báo rằng dù thành phố Rameses được đề cập nhưng chẳng hề ám chỉ đến việc xây dựng thành phố, cũng chẳng có liên quan gì đến việc thuê mướn người Hê-bơ-rơ hay người châu Á. Alan Rowe, người khai quật đã nói thẳng thắn rằng: "bài văn chẳng đề cập đến hoạt động xây dựng nào mà cũng chẳng nhắc đến người Do Thái."


Tàn tích của nhiều công trình lớn về tôn giáo đã được khám phá trong lúc khai quật mô đất lớn của Bết-sê-an - một đền thờ Hồi giáo, một nhà thờ Cơ Đốc, một đền thờ Do Thái giáo, và khoảng 5 hay 6 đền thờ dùng để tiến hành lễ nghi tôn giáo được mô tả là "của người Ca-na-an nhưng với bề ngoài là của Ai-cập." Vị thần được tôn thờ trong hầu hết những đền thờ đó là "Mekal, Chúa (Ba-anh) của Bết-sê-an". Ở cấp độ thứ 5 người ta phát hiện hai đền thờ mà cả hai đều bị tiêu hủy vào khoảng năm 1000 TC. Theo các dấu hiệu cho biết thì cái đền ở phía bắc mô đất là đền Át-tạt-tê (Asbtoreh) và bên trong bức tường của đền có treo áo giáp của Sau-lơ như là một chiến lợi phẩm sau cái chết thê thảm của ông tại núi Ghinh-bô-a (ISa1Sm 31:8). Ngôi đền ở phía nam có kích thước 24,4m x 18,9m (80feet x 62feet) theo hướng từ đông sang tây. Nó gồm một đại sảnh ở chính giữa với ba tảng đá tròn ở mỗi bên. Những nhà khai quật kết luận rằng đây phải là đền thờ Đa-gôn tại đó có treo đầu của Sau-lơ (ISu1Sb 10:10; ISa1Sm 31:10). Bên ngoài tường thành treo xác của Sau-lơ cùng các con trai của ông.
Thành phố của cấp độ thứ năm dường như đã bị Đa-vít chiếm lấy và tàn phá vào khoảng năm 1000 TC, sau đó nó tiếp tục là đống đổ nát cho đến khi các tòa nhà Hellenistic mọc lên vào năm 300 TC.


BETH SHEARIM
Một ngày của tháng 3 năm 1936, hai đứa bé trai đi ngang qua con sông cạn (chỉ có nước vào mùa mưa) chảy qua phía tây của mô đất Sheikh Abreik, nằm tại một sườn đồi ở phía tây nam của Ga-li-lê, ngay lúc đó chúng nó thấy một con cáo chui tọt vào trong một miệng hang. Bò theo con cáo vào trong hang thì chúng khám phá mình đang ở bên trong một hầm mộ, với các khoang chôn cất mà trên tường có những câu viết và hoa văn được khắc hay sơn đỏ.
Hai đứa bé liền thông báo cho Tiến sĩ Benjamin Maisler về những gì chúng đã thấy, tiến sĩ bèn tập họp ngay một nhóm học giả cùng đi vào hầm mộ, họ đã phát hiện một vài câu khắc trên tường có tên của những hiền nhân Do Thái. Tiếp tục đi theo con lộ lớn dưới mặt đất, họ khám phá rằng mình đang ở trong một nghĩa trang lớn được ẩn giấu bên dưới mô đất Sheikh Abreik, họ kết luận đó phải là hiện trường của Beth Shearim cổ đại.
Theo Josephus, bộ luật Talmud dân sự và tôn giáo Do-thái cùng với các văn hiến Do -thái cổ đại thì Beth Shearim phải có vị trí đâu đó trong khu vực nầy, và thị trấn ấy có một nghĩa trang lớn. Một vài học giả Do-thái đã từng sống ở đây và quản lý một học viện giáo sĩ Do-thái. Thỉnh thoảng toà án Do Thái tối cao họp tại đây. Cái làng trở nên hết sức nổi tiếng bởi vì đó là nơi cư ngụ của "Rabbi", tộc trưởng của Judah I. Bộ luật Talmud Do-thái mô tả về cuộc đời và việc làm của vị tộc trưởng nầy, về học viện mà ông đã dạy, về sự chôn cất trong ngôi mộ được ông chuẩn bị lúc sinh thời. Những kẻ khác muốn được chôn cất gần đó và nó trở thành nơi mai táng không những chỉ dành cho người Do-thái ở Beth Shearim mà còn cho nhiều người ở các xứ sở khác.
Các thủ lĩnh của nhà hội tại Ty-rơ, Si-đôn, Beirut, cũng như các lãnh tụ và thân nhân trong gia đình của các quốc gia lân cận được đưa đến mai táng tại đây - ra-bi, văn sĩ, viên chức nhà nước, thương gia và thợ thủ công. Niềm tin trở nên phổ biến cho rằng "hễ ai được chôn cất trong Đất của Y-sơ-ra-ên cũng chẳng khác gì được chôn dưới bàn thờ," và hơn một thế kỷ Beth Shearim là nơi chôn cất của vô số người Do-thái - cả khi họ đã qua đời tận Ba-by-lôn hay miền Nam Ả-rập. Như một học giả đã bình luận "Thật ra đây là một dạng tụ tập những người Do-thái sau khi chết vì khi sống họ phân tán ở ngoài Đất Thánh."


Tiến sĩ Maisler nhanh chóng tổ chức một cuộc khai quật dưới sự tài trợ của Hiệp Hội Thám Hiểm của Người Do-thái tại Palestine, với Pessach Bar-Adon là trưởng trợ lý và kiến trúc sư Zvi Bar-Adon. Khi tiến hành thám hiểm sơ bộ thì Zvi Bar-Adon bị nhiểm sốt hang và Jacob Kaplan đã thay thế ông.
Việc khai quật tại Beth Shearim được triển khai quanh năm từ 1936-1939. Tổng cộng 11 hầm mộ được dọn sạch, thêm vào đó là một nhà hội ở trên đỉnh mô đất cũng được khai quật. Nhiều hầm mộ có sân, hành lang và đại sảnh. Đại sảnh có nhiều phòng, có kích thước khác nhau với vô số hốc huyệt mộ lõm vào tường. Sân ở phía trước sảnh mai táng thì khá rộng và một vài sân được lót với các mảnh ghép màu mè. Lối vào có cửa bằng đá, hầu hết vẫn còn quay được bằng bản lề. Vài cửa còn nguyên vẹn, nhưng hầu hết đã bị bọn xâm lược làm vỡ.
Trong hầm mộ số 11,16 đại sảnh với cửa đá được phơi bà. Những đại sảnh này có nhiều phòng với vô số hốc huyệt mộ lõm vào tường. Người ta đếm được khoảng 400 chỗ mai táng. Các quan tài làm bằng gỗ, đá, chì hoặc đá hoa và thường được trang trí bằng một trong những biểu tượng truyền thống của người Do-thái như: đèn bảy ngọn (XuXh 37:17-24), tù và bằng sừng dê, xẻng hương. Hầm mộ số 20 có một cái sân rộng với ba lối vào có vòm dẫn tới một đại sảnh dài 50m (164feet) trải dài cả hai phía. Tại đây người ta tìm thấy 130 quách bằng đá vôi, cùng với vô số mảnh vụn của quách cẩm thạch. Hầu hết quan tài đều được chạm trổ đẹp và có ghi những câu khắc đầy ý nghĩa. Khoảng 200 câu khắc được phát hiện, đại đa số bằng tiếng Hy-lạp, chỉ có khoảng 10% bằng tiếng Hê-bơ-rơ. Có lẽ câu khắc nổi bật nhất là ở trên một phiến đá vỡ bằng đá hoa mà nguyên thủy thì nó được gắn trên tường của lăng tẩm hầm mộ số 11. Văn bia trên phiến đá mỏng này cung cấp bằng chứng xác thực rằng các tàn tích khảo cổ tại Sheikh Abreik là thực sự tuộc về Beth Shearim cổ đại. Câu khắc ấy, được cố giáo sư Moshe Schwabe công bố trước tiên như sau:
1. Justus, con trai của Leontios và Sappho, nằm yên nghỉ tại đây, và sau khi ta đã hái trái của mọi trí khôn, ta đã để lại ánh sáng, người cha mẹ khốn khổ thương khóc không dứt. Và những huynh đệ của ta. Thống khổ cho ta tại Besa (ra) (của ta).
Sau khi xuống âm phủ, ta, Justus nằm ở đây.
Với nhiều người của ta, cho số phận ngặt nghèo đã được định như vậy.
Hãy yên ủi, Justus, chẳng có ai là bất tử.


BETH SHEMESH
"Nhà của mặt trời" được tọa lạc cách Giê-ru-sa-lem 24 dặm về phía tây, trên một đỉnh đồi nhìn xuống thung lũng Sorek. Đây là nơi quan trọng bởi vì nó là thành phố của người Lê-vi, và là một đồn biên phòng giữa Giu-đa và Phi-li-tin. Đây cũng là nơi hòm giao ước được đưa trở về trên một chiếc xe do hai con bò sữa kéo, sau khi hòm giao ước bị lọt vào tay người Phi-li-tin.
Mô đất được Tiến sĩ Duncan Mackenzie (1911-1912) khai quật thay cho Quỹ Thám Hiểm Palestine, và bởi Elihu Grant (1928-1931) của Đại học Haverford. Những nhà khai quật tìm thấy năm thành phố chồng lên nhau - thành phố đầu tiên có từ năm 2000 TC, và thành phố cuối cùng bị Nê-bu-cát-nết-sa tàn phá vào 586 TC.
Họ phát hiện các kiến trúc rộng có từ thời kỳ người Ca-na-an, người Y-sơ-ra-ên và người Phi-li-tin. Người ta tìm thấy một lượng lớn đồ sứ rất đẹp, vũ khí, đá quý, đồ trang sức hình bọ hung và vài tay quai của bình có câu khắc. Một tay quai đáng hết sức quan tâm đã ghi "Thuộc về Ê-li-a-kim, quản gia của Yokin (Giê-hô-gia-kin)." Trong cấp độ thế kỷ 14, Grant tìm thấy một mảnh sành có các ký tự Hê-bơ-rơ cổ khắc bằng mực. Ông ta cũng tìm thấy một phiến đá bằng đất sét viết bằng chữ hình nêm tương tự với nhiều văn bản của Ras Shamra (Ugarit). Những thứ nầy cho thấy chữ viết theo chữ cái đã được sử dụng rộng rãi vào thời ấy.

BETH ZUR
Một thành phố pháo đài quân sự nổi tiếng cách Hếp-rôn 4 dặm về phía bắc, được O.R.Sellers và W.F.Albright cùng với năm nhà khảo cổ trẻ khai quật vào 1931.
Họ phát hiện rằng Beth Zur đã có người cư ngụ trong Thời Đại Đồ Đồng giữa (2000-1500 TC), nhưng bị tàn phá vào khoảng 1580 TC, lúc đó Hyksos bị trục xuất khỏi Ai-cập và Palestine. Beth Zur được xây vào thời các quan xét, bị cháy vào khoảng 1000 TC, được Giê-rô-bô-am xây công sự vào khoảng 930 TC và đóng một vai trò quan trọng trong cuộc chiến Mác-ca-bê. Một pháo đài đã được xây và bị phá hủy ba lần trong thời Giu-đa, Giô-na-than và Si-môn. Thành phố nầy suy sụp dưới thời John Hyrcanus và bị bỏ hoang trước khi kỷ nguyên Cơ Đốc bắt đầu.
Trong một chiến dịch khai quật ngắn ngủi, người ta tìm thấy những bức tường xây hồ vững chắc, một pháo đài, một nơi nhóm chợ, một phòng chứa của tiệm tượu, nhiều cái lò, một hầm chứa, một hồ chứa nước, các phòng tắm rộng, tất cả là của thời kỳ Hê-lê-nít. Tại đây cũng có đồ trang sức hình bọ hung của Rameses II và Thutmose III, và một dấu ấn Hê-bơ-rơ với dòng chữ "Của Ge'alyahu, con trai của Vua." Người ta cũng tìm thấy nhiều đồ vật nhỏ, chẳng hạn những quả cân có khắc chữ và không có khắc chữ, con lăn cọc sợi và con sút, nút, khuy, hạt (của xâu chuỗi), nhẫn, kim, đầu tên, mũi giáo và 279 đồng xu - một tuyển tập tuyệt hảo nhất về các đồng tiền xưa được phát hiện từ trước đến nay trong một chiến dịch ngắn ngủi như vậy. Tuy nhiên "ở đây không có nơi chôn giấu báu vật, và chỉ có hai trường hợp là hai đồng tiền được tìm thấy cùng lúc." Sáu đồng tiền trong số nầy là của thời kỳ Ba-tư, và nhằm chỉ rằng người Do-thái đã sử dụng các tiêu chuẩn đo lường A-tên (?)trong thời Nê-hê-mi, E-xơ-ra như đã nói trong các sách Sử Ký.
Các tài liệu văn học liên quan đến Beth Zur như ta thấy trong Kinh Thánh, I Mác-ca-bê và Josephus cho ta sự xác nhận nổi bật thông qua những đồng tiền và các chứng cớ khảo cổ dồi dào được phám phá trong lúc khai quật.


CAESAREA
Thủ đô La-mã của Giu-đê trong thời của Đấng Christ và Phao-lô, nằm gần Địa Trung Hài, cách Joppa 32 dặm về phía bắc và cách Giê-ru-sa-lem 60 dặm về phía tây bắc. Hê-rốt đại đế khởi công xây dựng thành phố vào 25 TC và hoàn tất vào năm 13 TC. Trong lễ dâng thành phố vào năm 12 TC, Hê-rốt đã đặt tên là Sê-sa-rê để tỏ lòng tôn kính Sê-sa và biến nó thành thủ đô La-mã của Giu-đê. Chẳng bao lâu nơi đây trở thành một hải cảng sầm uất, một trung tâm thương mại lớn, và một trong những thành phố thu hút nhất của thời ấy. Thành phố nầy được xây dựng hoàn hảo và trên cơ sở một kế hoạch tuyệt vời đến nỗi nó thường xuyên được gọi là "tiểu La-mã." Nhà truyền giáo Phi-líp sống ở đây, sứ đồ Phao-lô đã từng bị cầm tù ở đây trong 2 năm, trong thời gian đó ông ứng hầu trước Phê-lít, Phê-tu và vua Ạc-ríp-ba.
Thành phố đã đứng vững với nhiều vận mệnh khác nhau mãi cho đến năm 1256 SC thì vua Bibars của Ai-cập, theo Hồi giáo đã chiếm lấy thành phố và tàn phá các bức tường và hầu hết các công trình kiến trúc trong đó. Nó tiếp tục bị điêu tàn trong nhiều thế kỷ tiếp sau đó chỉ còn lại đồ sứ bể vụn, những phần của cổng và lâu đài, mảnh vụn của các cột đá hoa và đá granít , chỉ một phần nhô lên khỏi cát và phần kia chìm trong nước biển cạn.
Sở Đồ Cổ của chính phủ Y-sơ-ra-ên đang tiến hành khai quật Sê-sa-rê. Cho đến nay thì các khám phá lớn gồm có một lâu đài thập tự quân rất tráng lệ; hí viện, nhà hát tròn, trường đua xe ngựa, và lề đường của nhà hội - có thể chính là cái nhà hội mà Cọt-nây đã từng tham gia thờ phượng và được Phi-líp, Phi-e-rơ, Phao-lô thăm viếng. Trong hí viện họ tìm thấy một phiến đá có khắc chữ mang danh hiệu của Phi-lát và Ti-bê-ri-út. Đây là lần đầu tiên tên của Phi-lát được tìm thấy trên một dòng chữ khắc trên đá. Người ta cũng tìm thấy một đền thờ lớn dâng cho Sê-sa của La-mã, trong đó có một tượng lớn phi thường của hoàng đế.
Vào năm 1960 Cơ quan The Link Expedition to Israel đã thăm dò và vẽ sơ đồ hải cảng rộng do Hê-rốt đại đế xây dựng. Chỉ có phần đỉnh của những tảng đá làm công phu của đê chắn sóng nhô khỏi mặt nước đó đây, nhưng việc thám hiểm dưới biển đã xác nhận sự miêu tả của Josephus về hải cảng Sê-sa-rê là đồ sộ và rộng lớn.


CAESAREA PHILIPPI
Được tọa lạc tại chân núi Hẹt-môn, như một dòng suối lấp lánh, nguồn nước cực đông của sông Giô-đanh trào ra từ một cái hang dưới nền của một vách đá lớn và gặp các nguồn nước khác của những con sông nổi tiếng. Nhờ được cấp nước đầy đủ, nơi này có đủ loại cây cối, dây leo, và bụi cây có trổ bông và là một trong những nơi đẹp nhất của Đất Thánh. Trong thời Cựu Ước tại đây có một cái miếu thờ thần Ba-anh, sau đó người Hy-lạp xây một miếu thờ cho thần Pan, thần thiên nhiên, và đặt tên là Paneas (thành phố của Pan).
Vào năm 20TC, Hê-rốt đại đế xây một đền thờ lớn bằng đá hoa tại đây và dâng cho Augustus Caesar. Khi Hê-rốt băng hà thì thành phố nầy giao cho con trai của ông là Hê-rốt Phi-líp, ông này đã mở rộng và chỉnh trang thành phố ấy rồi đặt tên là Sê-sa-rê Phi-líp, nhằm đẹp lòng Hoàng đế Tiberius Caesar, cũng để phân biệt với các thủ đô và hải cảng khá nổi tiếng khác ven bờ biển của Caesarea.


Đây cũng là nơi với vẻ đẹp thiên nhiên mà Chúa Giê-xu đã dẫn các môn đệ của Ngài đến nghỉ ngơi và cầu nguyện trong khoảng thời gian ngắn, cũng tại đó, sau khi cầu nguyện, Ngài đã hỏi họ: "Các con nói ta là ai?" Si-môn Phi-e-rơ đã đưa ra lời tuyên bố hùng hồn: "Ngài là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời hằng sống" (Mat Mt 16:16; Mac Mc 9:18). Vào thời trung cổ (1120 SC) Thập tự quân đã xây một lâu đài tại đây trên sườn núi nhô cao khoảng 350,5m (1150feet) phía trên suối phun, và đặt tên là Lâu đài của Subeibeh.
Ngày nay, hàng khối đá xây dựng, những mảnh cột gãy, và mái vòm chôn một phần dưới mặt đất được rải rác khắp nơi trong thành phố. Trên mặt của một vách đá thật lớn quanh cái hang là nơi dòng suối chảy qua, ta thấy vài cái hốc và một câu khắc Hy-lạp với ý nghĩa "thần Pan và các nữ thần của Ngài hiện ra ở nơi đây." Một câu khắc khác thì nói rằgn "Thầy tế lễ của thần Pan."
Một nơi cất giấu các đồng tiền đã được khám phá. Trên đồng tiền có hình cái khèn của Pan; trên đồng tiền khác ta thấy hình Pan tựa vào cây và thổi sáo; trên đồng tiền thứ ba có hình miệng hang và Pan thổi sáo trong đó; trên đồng tiền thứ tư là tên của thành phố "Caesarea Paneion."
Từ trên núi nhìn xuống Caesarea Philippi, ta thấy Lâu đài Subeibeh bao bọc bởi những bức tường dày 3,9m (10feet) và cao 34,9m (100feet), được củng cố bởi vô số tháp tròn. Bên trong của pháo đài cổ nầy là một khoảng đất không bằng phẳng với diện tích 16.187-20234m2 (4-5 acres), lác đác đó đây vài căn nhà, bể chứa nước, tường cao và các sân rộng. Lâu đài trở nên cũ kỹ và hư hao theo thời gian cùng mưa gió, nhưng nó vẫn được bảo tồn tốt hơn các lâu đài khác trong vùng.


CALAH
Ngày nay được gọi là Nimrud, ở cách Ni-ni-ve 20 dặm về phía nam, trên bờ sông phía tây của ông Tigris. Theo SaSt 10:11 thì nơi đây được Nim-rốt xây trước tiên: "Nim-rốt đi đến A-si-ri tại đó ông xây Ni-ni-ve, Rehoboth Ir, Calah."
Henry Layard bắt đầu thăm dò mô đất vào năm 1845 và tìm thấy tàn tích của những bức tường thành phố cổ đại có kích thước 2134m x 168m (7000feet x 5500feet). Phía trong những bức tường ấy ông tìm thấy tàn tích cung điện của ba vị vua: Ashurnasirpal (885-860 TC), Shalmaneser III (860-825 TC) và Esarhaddon (680-669 TC) cùng với nhiều công trình điêu khắc trên tường. Trong số đó, công trình điêu khắc gây hứng thú nhất là một loạt những ghi nhận về sự thắng lợi của Tiglath-Pileser III, Phun vua của A-si-ri trong IIVua 2V 15:19 Những hình vẽ nầy cho thấy, theo kiểu đồ thị, việc triệt thoái khỏi thành phố, những cuộc hành quân gắn liền với một cuộc vây hãm, và việc đối xử thô bạo đối với tù nhân. Những công trình điêu khắc nầy dường như được vua Esarhaddon dọn khỏi hoàng cung cũ và đặt trong hoàng cung ở Calah.
Tượng Nebo, thần thông thái và sáng tác, được khai quật tại Nimrud và có từ thời của Adadnirari III (812-782 TC). Sau đây là dòng chữ khắc trên pho tượng: "Tin cậy Nobo; đừng tin cậy thần khác."
Phù điêu tại hoàng cung của Tiglath-Pileser III cho thấy bốn bức tượng thần được vác trên vai binh sĩ A-si-ri ra khỏi thành phố bị chinh phục.
Tuy vậy, khám phá quan trọng nhất tại Calah chính là Tượng Đài Đen do Shalmaneser III dựng lên tại tòa nhà trung tâm. Đó là một đài tưởng niệm rất rộng, bệ làm bằng đá hoa đen cao 1,97m (6feet6inches) và nhọn dần lên phía đỉnh. Tượng đài có 20 phù điêu thỏ sơ nhỏ, 5 cái mỗi bên, thể hiện việc các viên chức của năm quốc gia khác nhau mang cống vật đến dâng cho vua. Bên trên, bên dưới và ở giữa các phù điêu là 210 dòng chữ khắc hình nêm kể về thành tựu của vua trong cả chiến tranh lẫn hoà bình, trong suốt 31 năm trị vì. Trong số những cá nhân được đề cập, có Ha-xa-ên của Đa-mách và Giê-hu của Y-sơ-ra-ên. Trên tưởng niệm đài của Shalmaneser nói rằng:
Trong thời gian 18 năm trị vì của ta, ta băng qua Ơ-phơ-rát 16 lần. Ha-xa-ên của Đa-mách đặt sự tin tưởng vào đội quân hùng hậu của ông ta, triệu tập quân đội với con số khổng lồ, biến núi Senir (sa-ni-ru) đối ngang Li-ban, thành pháo đài của ông. Ta đã đánh trận với ông ấy và đánh bại ông ta, giết 16.000 binh sĩ tinh nhuệ bằng lưỡi gươm. Ta đoạt được 1121 cỗ xe ngựa, 470 ngựa cưỡi cùng với doanh trại. Ông ta tháo chạy thoát thân nhưng ta đuổi theo đến Đa-mách tận hoàng cung của ông ta. Tại đó, ta phá hỏ những vườn hoa bên ngoài thành phố và tiến quân cho đến núi Hauran, ta phá hủy, đốt cháy vô số thị trấn, mang về chiến lợi phẩm nhiều không đếm xuể. Sau đó ta tiến quân đến tận các ngọn núi của Ba'lira'si, gần bờ biển và dựng lên một bia khắc có hình ta như là đấng quân vương. Trong thời gian đó ta nhận cống vật của các dân cư thuộc Ty-rơ, Si-đôn và của Giê-hu, con trai Ôm-ri.
Sau đó trong câu khắc có một đoạn gây nhiều hứng thú cho cả sinh viên nghiên cứu Kinh Thánh. Nội dung là:
Cống vật của Giê-hu, con trai Ôm-ri: Ta nhận từ hắn bạc, vàng, một cái chén vàng, một bình vàng đáy nhọn, những chiếc ly (có chân) bằng vàng, những bức hình bằng vàng, những thỏi chì, vương trượng và những cây lao, ta đã nhận.
Giê-hu đang quỳ trước mặt Shalmaneser cùng cống vật. Vị quân vương A-si-ri có hai viên hầu cận đứng cạnh (một người cầm dù che nắng cho vua), vua đứng kiêu hãnh với biểu tượng của Ashur và Ishtar khắc ở phía trên. Vua Giê-hu của Y-sơ-ra-ên có chòm râu ngắn, tròn, đội mũ da mềm và áo ghi-lê không tay, áo đánh dấu ông ta như một tù nhân. Theo sau Giê-hu là những người Do-thái mặc áo choàng dài mang theo vàng bạc cùng các cống vật khác. Phù điêu này hết sức quan trọng bởi đó là bức phù điêu chạm trổ duy nhất mà chúng ta có được về một vị vua Do-thái.


Ngày nay được gọi là Nimrud, ở cách Ni-ni-ve 20 dặm về phía nam, trên bờ sông phía tây của ông Tigris. Theo SaSt 10:11 thì nơi đây được Nim-rốt xây trước tiên: "Nim-rốt đi đến A-si-ri tại đó ông xây Ni-ni-ve, Rehoboth Ir, Calah."
Henry Layard bắt đầu thăm dò mô đất vào năm 1845 và tìm thấy tàn tích của những bức tường thành phố cổ đại có kích thước 2134m x 168m (7000feet x 5500feet). Phía trong những bức tường ấy ông tìm thấy tàn tích cung điện của ba vị vua: Ashurnasirpal (885-860 TC), Shalmaneser III (860-825 TC) và Esarhaddon (680-669 TC) cùng với nhiều công trình điêu khắc trên tường. Trong số đó, công trình điêu khắc gây hứng thú nhất là một loạt những ghi nhận về sự thắng lợi của Tiglath-Pileser III, Phun vua của A-si-ri trong IIVua 2V 15:19 Những hình vẽ nầy cho thấy, theo kiểu đồ thị, việc triệt thoái khỏi thành phố, những cuộc hành quân gắn liền với một cuộc vây hãm, và việc đối xử thô bạo đối với tù nhân. Những công trình điêu khắc nầy dường như được vua Esarhaddon dọn khỏi hoàng cung cũ và đặt trong hoàng cung ở Calah.
Tượng Nebo, thần thông thái và sáng tác, được khai quật tại Nimrud và có từ thời của Adadnirari III (812-782 TC). Sau đây là dòng chữ khắc trên pho tượng: "Tin cậy Nobo; đừng tin cậy thần khác."
Phù điêu tại hoàng cung của Tiglath-Pileser III cho thấy bốn bức tượng thần được vác trên vai binh sĩ A-si-ri ra khỏi thành phố bị chinh phục.
Tuy vậy, khám phá quan trọng nhất tại Calah chính là Tượng Đài Đen do Shalmaneser III dựng lên tại tòa nhà trung tâm. Đó là một đài tưởng niệm rất rộng, bệ làm bằng đá hoa đen cao 1,97m (6feet6inches) và nhọn dần lên phía đỉnh. Tượng đài có 20 phù điêu thỏ sơ nhỏ, 5 cái mỗi bên, thể hiện việc các viên chức của năm quốc gia khác nhau mang cống vật đến dâng cho vua. Bên trên, bên dưới và ở giữa các phù điêu là 210 dòng chữ khắc hình nêm kể về thành tựu của vua trong cả chiến tranh lẫn hoà bình, trong suốt 31 năm trị vì. Trong số những cá nhân được đề cập, có Ha-xa-ên của Đa-mách và Giê-hu của Y-sơ-ra-ên. Trên tưởng niệm đài của Shalmaneser nói rằng:
Trong thời gian 18 năm trị vì của ta, ta băng qua Ơ-phơ-rát 16 lần. Ha-xa-ên của Đa-mách đặt sự tin tưởng vào đội quân hùng hậu của ông ta, triệu tập quân đội với con số khổng lồ, biến núi Senir (sa-ni-ru) đối ngang Li-ban, thành pháo đài của ông. Ta đã đánh trận với ông ấy và đánh bại ông ta, giết 16.000 binh sĩ tinh nhuệ bằng lưỡi gươm. Ta đoạt được 1121 cỗ xe ngựa, 470 ngựa cưỡi cùng với doanh trại. Ông ta tháo chạy thoát thân nhưng ta đuổi theo đến Đa-mách tận hoàng cung của ông ta. Tại đó, ta phá hỏ những vườn hoa bên ngoài thành phố và tiến quân cho đến núi Hauran, ta phá hủy, đốt cháy vô số thị trấn, mang về chiến lợi phẩm nhiều không đếm xuể. Sau đó ta tiến quân đến tận các ngọn núi của Ba'lira'si, gần bờ biển và dựng lên một bia khắc có hình ta như là đấng quân vương. Trong thời gian đó ta nhận cống vật của các dân cư thuộc Ty-rơ, Si-đôn và của Giê-hu, con trai Ôm-ri.
Sau đó trong câu khắc có một đoạn gây nhiều hứng thú cho cả sinh viên nghiên cứu Kinh Thánh. Nội dung là:
Cống vật của Giê-hu, con trai Ôm-ri: Ta nhận từ hắn bạc, vàng, một cái chén vàng, một bình vàng đáy nhọn, những chiếc ly (có chân) bằng vàng, những bức hình bằng vàng, những thỏi chì, vương trượng và những cây lao, ta đã nhận.
Giê-hu đang quỳ trước mặt Shalmaneser cùng cống vật. Vị quân vương A-si-ri có hai viên hầu cận đứng cạnh (một người cầm dù che nắng cho vua), vua đứng kiêu hãnh với biểu tượng của Ashur và Ishtar khắc ở phía trên. Vua Giê-hu của Y-sơ-ra-ên có chòm râu ngắn, tròn, đội mũ da mềm và áo ghi-lê không tay, áo đánh dấu ông ta như một tù nhân. Theo sau Giê-hu là những người Do-thái mặc áo choàng dài mang theo vàng bạc cùng các cống vật khác. Phù điêu này hết sức quan trọng bởi đó là bức phù điêu chạm trổ duy nhất mà chúng ta có được về một vị vua Do-thái.

CALVARY hay GÔ-GÔ-THA
Cả hai từ - từ thứ nhất bắt nguồn từ tiếng La-tinh, từ thứ nhì bắt nguồn từ tiếng A-ram - đều có nghĩa là "cái sọ" hoặc "chỗ cái sọ", đều chỉ nơi Chúa Giê-xu bị đóng đinh trên cây thập tự (Mat Mt 27:33; LuLc 23:33). Nơi nầy thường được gọi là "đồi sọ" vì là nơi hành hình (có nhiều sọ người ở đó), hay vì nó giống hình cái sọ người thì cũng chỉ là sự phỏng đoán.
Địa điểm chính xác chưa được biết đến vì Titus tàn phá Giê-ru-sa-lem vào năm 70 SC và thành phố đã hoang tàn trong suốt 60 năm. Một số ít Cơ Đốc nhân trở về đó, và những người đã di tản khi trở về được cũng không còn nhận dạng được thành phố vì đã bị tàn phá hoàn toàn suốt thời gian dài đến 60 năm. Kinh Thánh chỉ đề cập đến sự kiện ác nghiệt (?) xảy ra bên ngoài bức tường thành, trên một chỗ mà ai cũng có thể thấy từ xa. Nó gần một cổng thành, gần một lòng đường, hiển nhiên là đi xuyên qua cổng và gần nơi hành hình (GiGa 19:20; HeDt 13:12; LuLc 23:49; Mat Mt 27:39). Giăng đề cập đến ngôi mộ nằm trong một vườn hoa gần đó (GiGa 19:47).
Nhiều địa điểm khác nhau đã được gợi ý nhưng chỉ có hai nơi là đáng nghiên cứu cáchnghiêm túc. Thứ nhất là trong Nhà Thờ Thánh Mộ; hai là Calvary của Gordon với Ngôi Mộ Hoa Viên ở đó.
Nhà Thờ Thánh Mộ đã tồn tại như sau: Vào năm 312 SC, Constantine thấy một khải tượng về một thập tự giá trên không trung, với dòng chữ "Chiến thắng bởi vật nầy." Ông đã chọn thập tự làm quân kỳ, sau sự thành công lạ thường cùng với nỗ lực của ông, cuối cùng Constantine trở thành đại đế của châu Âu và Tây Á. Ao ước được đền ơn Đấng Christ và Cơ Đốc giáo, ông đã nhờ mẹ ông là Helena sang Đất Thánh để tìm kiếm ngôi mộ đã chôn Chúa Giê-xu. Với sự giúp đỡ của Eusebius là giám mục của Sê-sa-rê và Macarius là giám mục của Giê-ru-sa-lem, người ta đã dọn đống gạch vụn khỏi một mô đất, phát hiện một ngôi mộ gần đó. Tại đây người ta tìm thấy ba cây thập tự, và các bằng chứng khác đã làm cho họ gọi nơi đó là Calvary, và ngôi mộ phải là một trong những ngôi mộ mà Chúa đã nằm.


Helena loan truyền tin ấy, cộng đồng Thiên Chúa giáo hồ hởi và hoàng đế Constantine dựng lên một nhóm tòa nhà tráng lệ trên địa điểm "được khám phá một cách kỳ diệu." Tất cả những công trình ấy hoàn tất và làm lễ dâng vào năm 335 SC, đặt tên là Nhà Thờ Thánh Mộ. Vào năm 333 SC, lúc nhà thờ chưa hoàn tất, một nhóm người mộ đạo từ Bordeaux (Pháp) hành hương đến dây đã mô tả đó là "một nhà thờ với vẻ đẹp thần kỳ."
Tòa nhà đã đứng vững cho tới năm 614 SC thì bị Chosroes II san bằng. Nhờ sự quyên góp của dân chúng mà nhà thờ được tái thiết và bị tàn phá vào năm 1010 bởi cái gọi là "Caliph Hakem điên cuồng." Với thời gian 38 năm tái thiết, rồi sau đó bị thập tự quân chiếm đóng khi họ tiến quân vào Giê-ru-sa-lem năm 1099. Ngay tức thì, họ nới rộng và chỉnh trang công trình ấy, để rồi bị cháy vào tháng 9 năm 1808. Sau đó người ta quyên góp được ba triệu đô-la và một nhà thờ khác mọc lên ở đó, dầu không lớn và đẹp như ngôi nhà thờ trước, và nó tồn tại đến hôm nay, và là niềm kiêu hãnh vinh quang của những Cơ Đốc nhân phương đông. Đó là một kiến trúc kép, che lên cả phần đóng đinh Chúa và phần mộ được cho là của Chúa. Ở đây có những nhà nguyện ngăn riêng ra cho người Công giáo La-mã, Chính thống Hy-lạp, người Ạc-mê-ni Gregory, người Copt, người Gia-cô-bi.


Chính Thánh Mộ được đặt trong gian phòng lớn hình tròn ở tận phía tây của gian giữa nhà thờ, tại đó từng nhóm tín đồ Cơ Đốc thay phiên nhau thờ phượng vào những dịp đặc biệt. Cách đó vài mét, cao hơn ngôi mộ khoảng 1,52m là "cây thập tự thật" gắn đầy những ngọc chạm và đá quý trị giá hằng triệu đô-la. Gần đó là một khe nứt trong tảng đá được người ta cho là do động đất mà có vào lúc Chúa bị đóng đinh.
Đối với người Cơ Đốc thì không có nơi nào bị cho là khủng khiếp và lại được tôn kính bằng tòa nhà có tên "Nhà Thờ Thánh Mộ". Không có nơi nào đã được đấu tranh và mong mỏi bằng nơi ấy. Người ta ước tính rằng hai phần ba tín đồ Cơ Đốc trên thế giới yêu mến nơi nầy hơn hẳn những nơi khác bởi vì họ tin rằng cái đồi phải là Gô-gô-tha và ngôi mộ là nơi Chúa bị đóng đinh và chôn ở đấy. Tuy vậy thì nơi đó nằm phía trong những bức tường hiện nay của Giê-ru-sa-lem và nhiều người thắc mắc ước gì nó không nằm phía trong các bức tường của thành phố Hê-rốt.
Calvary của Gordon và Ngôi Mộ Hoa Viên nằm trên ngọn đồi riêng lẻ màu xám ở phía bắc Giê-ru-sa-lem, "một khoảng ngắn có thể ném đá tới" từ bức tường cổ, và khoảng 213,4 (700feet) bên ngoài cổng Đa-mách, là một địa điểm nổi bật trải ra trên một diện tích độ 12140,4m2 và có thể nhìn thấy rõ ràng từ mọi hướng. Là một ngọn đồi cao hơn khu vực chung quanh khoảng 12,2m-15,2m (40-50feet), sườn đồi quay về phía thành phố, đỉnh đồi có hình tròn trông hao hao giống như chiếc sọ người. Có những hang như là hốc mắt, một tảng đá nhô ra như là cái mũi, một cái khe dài như là cái miệng và một cái gò phía dưới như là cái cằm - "một sự giống nhau khá rõ rệt được bắt gặp trong hầu hết những tương đồng thiên nhiên, được người ta nhân ra một cách phổ biến tại nhiều nơi khác nhau trên thế giới."


Vào năm 1842 Otto Thenius của Oresden nghiên cứu tỉ mỉ ngọn đồi nầy và cho rằng nó là Gô-gô-tha. Ông ta chỉ ra rằng theo truyền thuyết của người Do Thái thì đó là nơi để ném đá, nơi đó nằm ngoài thành phố, vì lẽ ấy nó có hình dạng cái sọ người (!). Rồi đến một ngày của năm 1885, một đại tướng trong quân đội Anh là Charles G.Gordon, cũng là một Cơ Đốc nhân danh tiếng đang đi bộ bên ngoài bức tường phía bắc của Giê-ru-sa-lem. lúc đó ông ta quan sát, nghiên cứu sự hình thành các tảng đá có hình sọ người. Ngay khi trở về khách sạn, ông nói "Hôm nay tôi phát hiện đúng chỗ của Calvary." Tướng Gordon viết thư cho em gái và những người khác về sự phát hiện nầy, ba năm sau ông bị sát hại tại Khartoum, châu Phi. Lew Wallace, Captain Condor và những người khác đều đồng ý với quan điểm của Gordon. Vì thế mà sau một thời gian, người ta đã mua một phần mảnh đất phía tây đồi sọ. Trong khi khai quật người ta tìm thấy một vườn hoa cổ đại, trong đó một ngôi mồ đã từng bị niêm phong bởi một hòn đá lăn. Sự khai quật gần đó cho thấy những phần mộ của Cơ Đốc nhân ngày xưa.
Một công ty của tín đồ Tin Lành người Anh đã mua nơi đó và đặt một người canh giữ ngôi mộ. Ngày nay nơi nầy được nổi tiếng với tên Calvary của Gordon và Ngôi Mộ Hoa Viên. Ngôi mộ chẳng có sự trang trí hoặc phô trương, và chính như vậy càng làm cho ngôi mộ gây ấn tượng hơn. Chẳng có ai thờ phượng nơi đó và chúng ta tin tưởng rằng họ sẽ chẳng bao giờ làm vậy, nhưng nhiều buổi lễ Phục Sinh tiếng tăm đã được cử hành ở đây. Moody và Talmage đã giảng đạo tại đây, và hàng trăm ngàn người từ bốn phương trời tụ tập ở đây một cách tôn kính, trong một chừng mực bé nhỏ, họ cảm nhận được năng lực và tính bình dị trong lời nói của thiên sứ: "Hãy đến xem chỗ Ngài đã nằm" (Mat Mt 28:6).


Nhiều cuộc khai quật đã được thực hiện và nỗ lực nhằm lần ra dấu vết của lộ trình mà bức tường phía bắc phải được lấy đi trong thời của Chúa Giê-xu (?). Công trình xây dựng Herodian bên dưới cổng Đa-mách nói lên sự hiện diện của bức tường trong vùng ấy vào thời Chúa Giê-xu, nhưng lộ trình chính xác của bức tường từ cổng Jaffa đến Đa-mách phải đước đánh dấu trước khi quyết định được lộ trình ấy nếu vị trí đó nay bị Nhà Thờ Thánh Mộ choán lấy có hoặc không có kèm theo bức tường thành. Cho đến lúc ấy mới có thể nói được vị trí chính xác của Calvary.


CANA Của GALILEE
Ngôi làng Chúa Giê-xu đã làm phép lạ đầu tiên, thường được người ta cho rằng chính là Kefr Kenna, cách Na-xa-rét khoảng 4 dặm về hướng đông bắc. Làng này nằm trên đường đi Ca-bê-na-um và là một địa điểm truyền thống. Làng có nhiều vườn nho, vườn cây vả sai trái và nguồn nước dồi dào. Sự khai quật hạn chế đã được thực hiện ở đây, trong lúc chưa đưa ra được bằng chứng xác thực thì nơi đây rất khớp với tất cả những gì mà Giăng đã kể về Ca-na.
Tuy nhiên, nhiều học giả hiện đại lại muốn cho rằng Ca-na chính là Khirbet Kana, một đống đổ nát trên đỉnh một ngọn đồi cách Na-xa-rét khoảng hơn 8 dặm về phía bắc. Người ta chưa khai quật nơi đây, nhưng Josephus và vài khách hành hương thời trung cổ miêu tả nơi này như là "Ca-na của Ga-li-lê" khi họ biết Khirbet Kana.

CAPERNAUM
Tọa lạc tại bờ tây bắc biển Ga-li-lê tại một nơi có tên Tell Hum. Đó là một trung tâm thương mại và xã hội của vùng nầy vào thời Chúa Giê-xu thi hành chức vụ. Tại đây, trên một xa lộ rộng lớn giữa Sy-ri và Palestine, người ta thu thuế hải quan và có một đội quân đồn trú La-mã đóng tại đây. Sau khi rời Na-xa-rét thì Chúa Giê-xu đã đến dây và nhà của Phi-e-rơ trở thành nơi trú ngụ của Ngài. Tại đây Ngài kêu gọi Ma-thi-ơ cũng như đã dạy dỗ, giảng đạo và làm nhiều công việc lớn lao.
Chúa Giê-xu tiên đoán Ca-bê-na-um sẽ sụp đổ, ngày nay còn những đống đá bazan đen nằm rải rác trên suốt chiều dài dọc theo bờ biển. Đó đây người ta còn thấy những đường nét mờ nhạt của những tòa nhà hiện ra trên mặt đất. Điều quan trọng hơn trong số đó chính là đống hư tàn của một kiến trúc hình bát giác mà ngày nay được cho là nhà của Phi-e-rơ (càng có khả năng hơn đó là một tòa nhà tưởng niệm ngay trên vị trí của nhà sứ đồ Phi-e-rơ), và di tích của một trong những nhà hội đẹp nhất và được bảo tồn tốt nhất tại Ga-li-lê.
Mọi công tác khai quật ở đây đều nhằm vào nhà hội ấy, đó là nhà hai tầng, mái có đầu hồi, nhà có diện tích 18,3m x 24,4m (60 x 80 feet) hướng về Giê-ru-sa-lem. Ở phía tây nhà hội có một cổng vòm trông hấp dẫn. Chính nhà hội được xây bằng đá vôi trắng, và bên trong có một hàng cột ở mỗi bên để gia cố tòa nhà và tạo thành bao lơn để phụ nự có thể thờ phượng ở tầng hai.
Những trang trí của trụ ngạch bên trong, trên mái đua, và trên ngạch cửa của các cánh cửa thuộc nhà hội ấy thì vô cùng đa dạng. Đó là những hình giống như cây cối, chim muông, những sinh vật trong huyền thoại, cũng như những hình vẽ hình học. Người ta cũng bắt gặp những biểu tượng thiêng liêng quen thuộc của người Do Thái như chân đèn cầy bảy ngọn, sao sáu cạnh.


Trên trụ ngạch là một phù điêu tiêu biểu cho hòm giao ước đi phía trước đoàn dân Do Thái đang lang thang trong đồng vắng. Trên một trong những trụ đá vôi trắng ta thấy dòng chữ khắc bằng tiếng A-ram ghi rằng "HLPW, con của Zebidah, con của Johanan, đã dựng nên cột nầy. Nguyền xin người ấy được phước." Theo tiến sĩ Glueck thì "những tên gọi ấy đại để tương ứng với A-phê, Xê-bê-đê, và Giăng được đề cập đến trong danh sách của môn đệ Chúa Giê-xu và gia đình họ (Mac Mc 3:17-18).
Nhiều người tin rằng đó là nhà hội do thầy đội xây cất và được Chúa Giê-xu thăm viếng tại Ca-bê-na-um, nhưng hầu hết những nhà khảo cổ lại nghĩ rằng nó được dựng lên nào thế kỷ thứ 2 hoặc thứ 3 SC, ngay trên địa điểm của nhà hội vào thời Chúa Giê-xu. Họ đưa ra kết luận trên cơ sở kiến trúc và nhất là đựa trên những hình tiết trang trí.

CARCHEMISH
Hiện nay được gọi là Jerablus, là thủ đô phía đông của đế quốc Hittite cổ đại, và là trung tâm thương mại và quân sự chiến lược của bắc Sy-ri. Nó nằm phía tây của sông Ơ-phơ-rát, nơi chỗ cạn của thượng nguồn con sông, cách thành phố Aleppo hiện đại 65 dặm về phía đông bắc.
Carchemish đã từng là nơi xảy ra những trận chiến sống còn. Kinh Thánh và lịch sử đại cương đã đề cập như thế và khảo cổ học cũng đã làm sáng tỏ, nhất là trận chiến Carchemish A-si-ri thất thủ, thủ đô Ni-ni-ve rơi vào tay liên quân Ba-by-lôn vào năm 612 TC và vào tay Haran vào 610 TC. Sau đó thủ đô được đặt tại Carchemish. Pha-ra-ôn Neco II trên đường đi đến Carchemish để tiếp viện người A-si-ri chống lại liên quân Ba-by-lôn khi vị vua tốt bụng Giô-si-a mất mạng lúc đón Neco tại đèo Mê-ghi-đô (IISu 2Sb 35:20). Đón lần nữa tại Riblah(IIVua 2V 23:31). Cuối cùng, Pha-ra-ôn đã đến Carchemish quá trễ. Nê-bu-cát-nết-sa đột kích và chiếm lấy Carchemish của người A-si-ri; sau đó chống lại người Ai-cập dưới sự lãnh đạo của Neco và đánh bại hoàn toàn người Ai-cập trong cuộc chiến xáp lá cà. Nê-bu-cát-nết-sa đuổi theo người Ai-cập đến Hamoth đến nỗi, như sự tích của người A-si-ri kể rằng: "chẳng còn một người đàn ông nào thoát được về nhà." Trận chiến Carchemish năm 606 TC đã chấm dứt đế quốc A-si-ri, Ai-cập chỉ còn là cường quốc hạng nhì và Ba-by-lôn dành được uy thế khắp Trung Đông lúc bấy giờ.
Địa điểm nầy được khai quật trong thời gian 1912-1914 bởi Sir Leonard Woolley và T.E.Lawrence (sau đó trở thành Lawrence của Ả-rập), họ làm việc cho Viện Bảo Tàng Anh. Họ tìm thấy tàn tích đáng kể của một thành phố hùng mạnh với pháo đài, cung điện, đền thờ, nơi nhóm chợ và một bức tường khổng lồ điêu khắc hình một đoàn hiệp sĩ và vua cùng thái tử ăn mừng chiến thắng. Người ta tìm thấy nhiều món đồ, và vô số những câu khắc trong một nguyên bản đã làm lúng túng nhiều nhà khảo cổ học và nhà ngôn ngữ học mãi cho đến gần đây. Những khám phá nầy chứng thực và làm sáng tỏ những gì tường thuật trong Kinh Thánh và các tài liệu lịch sử khác.


COLOSSE
Tọa lạc tại thung lũng Lycas, cách Lao-đi-xê 11 dặm về phía đông. Nhờ nằm trên tuyến thương mại đông-tây, từ Ê-phê-sô đến Ơ-phơ-rát, Cô-lô-se nổi tiếng và phồn vinh mãi cho đến thế kỷ thứ 8 SC; khi ấy có sự thay đổi lớn về hệ thống đường sá làm cho Lao-đi-xê có được lợi thế nầy. Người Thổ Nhĩ Kỳ tàn phá Cô-lô-se vào thế kỷ 12 và cứ để cho nó hoang tàn cho đến nay.
Vào năm 1835, William J.Hamilton đã xác minh và thăm dò tàn tích của thành phố và những thành quách. Ông quan sát thấy nhiều cột đá hoa, một nhà hát điêu tàn với nhiều chiếc ghế được bảo tồn, một nghĩa trang thành phố với phần mộ bằng đá đẽo.
Những khám phá về khảo cổ hạn chế trong vài câu khắc, một số đồng xu và một ngôi nhà thờ cổ. Dù hạn chế như vậy, chúng cũng tăng thêm ý nghĩa cho lá thư của Phao-lô gửi tín hữu Cô-lô-se.


CORINTH
Một thành phố kiêu hãnh, giàu có và gian ác của thế giới cổ đại, tọa lạc trên một dải đất rộng bốn dặm nối liền Peloponnesus ở miền Nam với đại lục Hy-lạp. Bởi tọa lạc trên xa lộ bắc-nam, có hai hải cảng sầm uất của Cenchrea ở phía đông và Lechaeum ở phía tây, nó đúng nghĩa là "giao lộ", và dễ dàng trở thành trung tâm thương mại lớn nhất của Hy-lạp. Xung quanh Cô-rinh-tô là những vùng đất mầu mỡ, trồng ô-li-ve, nho, chà là và những loại cây trái khác.
Với tư cách là lãnh tụ của liên minh Achaean , nó bị Mumnius tàn phá vào năm 146 TC , đó là một lãnh tụ côn đồ của La-mã và đã đưa xuống tàu những pho tượng của Cô-rinh-tô , những bức tranh và kho tàng nghệ thuật về La-mã . (Phân đoạn nầy nên xem lại ).
Julius Caesar đã tái thiết thành phố vào năm 46 TC, tạo cho Cô-rinh-tô những đường phố rộng, những nơi họp chợ, những đền thờ, những nhà hát, những pho tượng, những suối phun, và những diễn đàn bằng đá hoa trắng hay màu lam, tại đó thường có những cuộc hùng biện hay xét xử. Về phía nam là ngọn đồi tên Acrocorinth cao hơn thành phố khoảng 152,4m (500feet). Trên mô đất là tượng nữ thần Aphrodite (Astarte) , biểu tượng về tình yêu và sinh sản, đó là vị thần không những có ảnh hưởng lớn đến đời sống tôn giáo và xã hội của thành phố mà sự tôn thờ vị thần có xu hướng ấp ủ và làm phổ biến tính phi đạo đức trong dân cư lẫn khách du lịch.
Phao-lô đến Cô-rinh-tô khoảng năm 52 SC, ở lại đó một năm sáu tháng, sống tự túc bằng nghề may trại để dạy đạo, nhờ đó nhiều người Do-thái lẫn Hy-lạp đã đầu phục Chúa, nhóm lại thờ phượng Chúa và trưởng thành, ông đã viết cho họ hai bức thư bất hủ.


Thành phố hầu như liên tục có người định cư mãi cho đến 1858, một trận động đất khủng khiếp đã tàn phá nơi nầy. Những cư dân sống sót đã phải dọn ra xa bốn dặm và xây một Cô-rinh-tô mới. Thành phố cũ chỉ con là đống đổ nát, dần dần bị vùi lấp dưới lớp đất cao hằng thước, cho đến năm 1896 thì Học Viện Nghiên Cứu Cổ Điển Hoa Kỳ tại A-thên đã sở hữu chỗ ấy, đào bới hai mươi đường hào thử nghiệm tại nhiều vị trí khác nhau. Tại đường hào số 3 họ phát hiện một con đường lát rộng 14m (46feet), có lề đường và rãnh nước nhưng không dấu vết bánh xe có nghĩa là con đường đó chỉ dành cho người đi bộ. Con đường đi ra hướng nam và hướng bắc, vì vậy người đào bới cứ theo con đường với hy vọng sẽ tìm ra nơi tụ tập của người Hy-lạp hoặc nơi họp chợ.
Trong nhiều chiến dịch khác nhau tiếp sau đó, những người khai quật thực hiện được nhiều cuộc khám phá chẳng hạn như những mảnh vụn điêu khắc, mảnh vụn bình chậu, phù điêu, đồ sứ, một tiền cổ bằng vàng, một ngạch cửa bằng đá hoa trên có khắc câu "Nhà hội của người Hê-bơ-rơ" và một khối đá vôi trên đó có dòng chữ khắc của thế kỷ đầu tiên nói rằng Erastus, Uỷ viên thành phố, đã lát quảng trường này (khoảng 5,5742m2) bằng tiền của ông. Phao-lô có viết về quan coi kho bạc thành phố tên Ê-rát (RoRm 16:24) và có thể chính là tên của người được đề cập trên câu khắc mà sau đó ông nầy đã trở thành Cơ Đốc nhân và là một trợ thủ đắc lực cho Phao-lô.
Những khám phá to tát hơn gồm một nhà hát Hy-lạp, đền thờ Apollo, một tòa án cổ đại và suối phun Peirene, nơi họp chợ và diễn đàn xét xử, rất có thể tại đó Phao-lô được dẫn đến hầu trước mặt Ga-li-ôn và đang tuyên bố vô tội. Lề đường phía dưới mà tại đó người Hy-lạp chống lại Sốt-then, chủ nhà hội, đánh đòn trước toà án. Nhưng Ga-li-ôn tỏ ra có quan tâm (Cong Cv 18:15-17)