Đối với nhiều người, Mormon là một giáo phái có nhiều giáo lý khác với Cơ đốc giáo của Kinh Thánh. Trong bài này, chúng ta sẽ xem xét những giáo lý của giáo phái Mormon, và so sánh với những điều dạy dỗ trong Kinh Thánh. Khi làm như vậy, chúng ta sẽ thấy rằng có những khác biệt rất lớn giữa Tin Lành của Chúa Giê-xu với giáo phái Mormon.
Đầu tiên chúng ta sẽ lược sơ qua lịch sử của giáo phái Mormon.
I. LỊCH SỬ.
Joseph Smith, người sáng lập giáo phái Mormon, sinh năm 1805 ở Vermont, Hoa Kỳ. Năm 1820, khi lên 14 tuổi, vì không biết hệ phái Tin Lành nào là đúng trong số rất nhiều hệ phái hiện có, nên Joseph Smith đi vào trong rừng cầu nguyện. Sau nầy, ông kể rằng, ở đó ông nhận được sự khải thị của Đức Chúa Cha và của Đức Chúa Giê-xu bảo ông đừng theo bất kỳ một hệ phái nào hiện có, vì tất cả đều lầm lạc, tín điều của họ đều đáng kinh tởm, và những người xưng nhận các tín điều đó đều bại hoại cả. Trái lại, theo khải thị này, Joseph Smith được phong chức để tái lập Hội thánh chân chính.
Năm 1823, Joseph Smith cho rằng ông nhận được một khải thị nữa. Lần này là từ một thiên sứ có tên là Moroni (con trai của Mormon, và là nhà lãnh đạo của người Nephite được ông xem là đã sống ở đất Mỹ từ mấy trăm năm về trước), bảo ông ta tìm những bảng vàng chứa đựng Sách Mormon, do chính Mormon viết vào năm 420 SC.
Cho đến ít nhất là năm 1826, Joseph Smith đã dùng một dạng ma thuật huyền bí với một“hòn đá thần” (“hòn đá thấy được”) để tìm ra những kho tàng chôn giấu. Tuy nhiên luật pháp Hoa kỳ không cho phép làm những chuyện như thế, và ngày 26 tháng 3 năm 1826 Joseph Smith bị bắt và kết án là “phù thủy dùng gương để đoán hậu vận” và cũng là một kẻ buông tuồng (theo luật pháp, một kẻ buông tuồng là kẻ tự cho mình có khả năng xem chỉ tay, bói toán và khám phá ra những vật kín giấu). Tuy nhiên, vì đây chỉ là vi phạm lần đầu, nên ông không bị hình phạt nào.
Vào khoảng thời gian đó, ông bắt đầu từ bỏ công việc tìm kiếm kho tàng và xoay ra dùng viên đá thần của mình cho mục đích tôn giáo. Nhờ một viên đá thần mà ông bảo là đã đào lên từ một cái giếng sâu gần 8 mét, ông đã tìm thấy được những bảng vàng chứa đựng Sách Mormon vào ngày 22 tháng 9 năm 1827. Với sự giúp đỡ của thiên sứ Moroni và những cặp kính vàng đặc biệt, ông đã dịch được sang tiếng Anh Sách Mormon chép trong bảng vàng, được viết bằng một thứ chữ tượng hình Ai Cập (mà Joseph Smith gọi là “chữ Ai Cập cải cách”, dẫu rằng các học giả thấy nó không giống gì với chữ Ai Cập cả). Quá trình dịch thuật hoàn tất năm 1830, là năm Sách Mormon được công bố. Tuy nhiên trước đó, các bảng vàng và các cặp kính vàng dùng để dịch đã biến mất.
Năm 1844, sau vụ phá hoại bất hợp pháp một nhà in dùng để in các ấn phẩm chống lại Mormon, Joseph Smith bị bắt và tống giam. Tuy nhiên khi ông đang ở trong tù, một đám đông đã xâm nhập, và một cuộc đấu súng diễn ra. Dù đã cố gắng tự vệ bằng một khẩu súng lục, ông vẫn bị đám đông bắn chết. Người kế vị ông làm Hội Trưởng Giáo hội Mormon (hay“Hội Thánh Đức Chúa Giê-xu Christ Của Các Thánh Đồ Ngày Sau Rốt”, như danh tự xưng của họ) là Brigham Young.
Năm 1847, Brigham Young dẫn tín đồ Mormon đến thành phố Salt Lake, bang Utah, và từ đó thành phố này trở thành trụ sở của giáo phái Mormon.
Ngày nay, giáo phái Mormon có 9 triệu tín hữu, và khoảng 50 ngàn giáo sĩ.
II. HỘI TRƯỞNG GIÁO HỘI MORMON.
Brigham Young, hội trưởng thứ hai của giáo phái Mormon, tự xưng là đã nhận sự chân truyền từ người tiền nhiệm là Joseph Smith. Mỗi hội trưởng của giáo phái Mormon sau này cũng đều tuyên bố mình là “vô ngộ” (không bao giờ sai lầm). Giáo lý này đặc biệt có ý nghĩa quan trọng khi xét đến quan điểm của Brigham Young về A-đam và Đức Chúa Trời (xem phần 6).
III. SỰ SAI LẦM CỦA GIÁO PHÁI MORMON.
Theo sự dạy dỗ của giáo phái Mormon, ngay sau khi các sứ đồ qua đời thì Hội thánh đầu tiên đã bắt đầu bội đạo. Vì đã xa rời lẽ thật, giáo hội bại hoại này đã tiến hành hủy diệt hết mọi dấu vết bội đạo của họ. (Phải thế thôi, bởi vì bằng chứng duy nhất cho một sự bội đạo rộng khắp như thế chỉ nằm trong sự dạy dỗ của Joseph Smith gần 1800 năm sau khi xảy ra cái sự kiện mà ông gọi là bội đạo đó!)
Vì lẽ đó nên giáo phái Mormon tin rằng, vì Hội thánh đích thực của Chúa Giê-xu không còn tồn tại nữa, và Tin Lành đích thực đã thất truyền, cho nên chỉ có qua một khải thị mới thì lẽ thật mới được phục hồi. Trong thời kỳ Cải Chánh, có nhiều cố gắng nhằm phục hưng Hội thánh, nhưng các nỗ lực đó đều không thành công vì lúc đó người ta không nhận được quyền của Đức Chúa Trời để làm. Chỉ có qua Joseph Smith và giáo phái Mormon thì, theo họ, mới có thẩm quyền mới và sự khải thị lẽ thật, hầu cho Tin Lành đích thực và Hội Thánh chân chính mới có thể được phục hồi.
Một ví dụ về giáo lý mà giáo phái Mormon xem là sản phẩm của Giáo hội bại hoại, đó là tín lý Ba Ngôi. Tín lý Ba Ngôi mâu thuẫn với niềm tin của giáo phái Mormon, cho nên họ bảo đó là một trong những sự xuyên tạc do Giáo hội bội đạo đầu tiên đưa vào.
IV. KINH THÁNH.
Giáo phái Mormon tin có bốn quyển kinh là Thánh thư có thần quyền. Đầu tiên là Kinh Thánh (nhưng chỉ là bản King James Anh ngữ, được dịch năm 1611 SC). Ba quyển kia là Sách Mormon, Giáo Lý và Giao Ước, và Ngọc Trai Vô Giá. Dù cũng đáng khích lệ khi Kinh Thánh được đưa vào danh sách Thánh thư, nhưng xem kỹ thì thấy rằng Kinh Thánh bị đặt thấp hơn Sách Mormon. Trong quyển Ngọc Trai Vô Giá do Joseph Smith viết, các giáo điều chủ yếu của giáo phái Mormon được trình bày đủ cả. Giáo điều thứ tám là:
“Chúng tôi tin Kinh Thánh là Lời của Đức Chúa Trời miễn là phải được dịch đúng; chúng tôi cũng tin rằng Sách Mormon là Lời của Đức Chúa Trời”.
Câu “miễn là phải được dịch đúng” có nghĩa là họ có quyền muốn nhận, muốn bỏ phần nào trong Kinh Thánh cũng được - vì họ có thể bảo rằng những phần nào đi ngược với giáo lý của họ là những phần dịch sai. Trên thực tế, việc làm này tước bỏ hết mọi thần quyền của Kinh Thánh và biến Kinh Thánh ra vô dụng. Điều đó cũng mâu thuẫn với chính Kinh Thánh:
“Cả Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn” (II Ti-mô-thê 3:16).
V. SÁCH MORMON.
Trái với Kinh Thánh, giáo phái Mormon không hề nghi ngờ Sách Mormon. Họ cho rằng bản dịch của sách này là từ những bảng vàng mà Joseph Smith đã tìm thấy, và ông được Đức Chúa Trời linh cảm, do đó không hề sai lầm. Họ xem đó như “một lời chứng khác” - Kinh Thánh là lịch sử về cách xử sự của Đức Chúa Trời với loài người ở phương Đông (ở Y-sơ-ra-ên), sách Mormon là lịch sử về cách xử sự của Đức Chúa Trời (trong khoảng thời gian từ 600 TC đến 400 SC) với hai nền văn minh cổ, mà theo họ, là ở châu Mỹ. Sách Mormon chứa đựng chuyện kể cách Chúa Giê-xu đến rao giảng Tin Lành tại châu Mỹ cho một trong hai nhóm này - người Nephite. Chúa đã thiết lập lễ báp tem, sự thờ phượng, thông công, chức tế lễ, và các nghi thức thần bí khác.
Dù giáo phái Mormon bảo rằng Đức Chúa Trời đã linh cảm cho bản dịch Sách Mormon, nhưng nếu xem xét sách này thì sẽ thấy nhiều vấn đề khiến ta không thể tin lời khẳng định đó.
1. Từ lần xuất bản đầu tiên đến nay đã có 4000 chỗ hiệu đính trong Sách Mormon. Nếu Đức Chúa Trời linh cảm cho bản dịch của sách ấy thì đâu cần phải hiệu đính gì nữa. Nhiều lỗi được hiệu đính là lỗi văn phạm (họ cho ta thấy xem ra Đức Chúa Trời không rành văn phạm tiếng Anh!), nhưng có những lỗi khác nghiêm trọng hơn nhiều. Ví dụ, ấn bản năm 1830 chép một số đoạn nói về “Đức Chúa Trời”, nhưng các ấn bản sau lại sửa là “Con Đức Chúa Trời”. Ví dụ, “Và thiên sứ phán cùng tôi, Này là Chiên Con của Đức Chúa Trời, tức là Cha Đời Đời!” bị đổi thành “Và thiên sứ phán cùng tôi, Này là Chiên Con của Đức Chúa Trời, tức là Con của Cha Đời Đời!” (1 Nephi 11:21, Sách Mormon).
2. Bản dịch ấy có hơn 1000 lần trích dẫn bản Kinh Thánh King James năm 1611 (chiếm một phần tám nội dung của Sách Mormon), và những đoạn trích trong Sách Tin Kính của Hội Thánh Giám Lý, cùng một câu trích tác phẩm của Shakespeare. Thế nhưng Sách Mormon được xem là đã được viết hơn một ngàn năm trước những nguồn trích dẫn trên (tức vào năm 400 trước CN), như thế, đáng lý Sách Mormon phải không chịu ảnh hưởng gì bởi các sách kia mới phải.
3. Bản King James năm 1611 chứa nhiều lỗi dịch sai mà ngày nay đã được sửa lại. Tuy nhiên trong tất cả những trích dẫn trên, Sách Mormon đều theo đúng nguyên bản của bản dịch King James, và do đó giữ lại những chỗ sai trên.
4. Bản dịch Sách Mormon chứa đựng nhiều tên như Ti-mô-thê, Giô-na, và Lachoneus, và cũng dùng những từ “An-pha” (chữ cái đầu tiên trong mẫu tự Hy Lạp) và “Ô-mê-ga” (chữ cái cuối cùng trong mẫu tự Hy Lạp). Thế nhưng Sách Mormon được xem là chuyện kể về Châu Mỹ chớ đâu phải về thế giới Hy lạp. Đáng lý vào thời đó, ở Mỹ không có một ảnh hưởng tiếng Hy Lạp nào mới phải.
Còn tiếp