Ðức Chúa Trời là Ðấng mà
Ngài là như vậy thì Ngài phải luôn được tìm kiếm vì chính Ngài, chứ đừng bao giờ
xem Ngài như là một phương tiện để hướng về một cái gì đó khác hơn.
Bất kỳ ai tìm kiếm những mục
đích khác hơn là Ðức Chúa Trời, thì anh ta phải tự mình làm lấy; anh ta có thể
đạt được những mục đích đó nếu có đủ năng lực, nhưng sẽ chẳng bao giờ có Ðức
Chúa Trời. Không thể nào tìm gặp Ðức Chúa Trời cách tình cờ được. "Các
ngươi sẽ tìm ta, và gặp được, khi các ngươi tìm kiếm ta hết lòng"
(Giê-rê-mi 29:13).
Bất kỳ ai tìm kiếm Ðức Chúa
Trời như là một phương tiện để hướng về những mục đích lòng mình khao khát sẽ
không gặp được Ngài. Ðức Chúa Trời quyền năng, Ðấng dựng nên thiên đàng và trần
gian, sẽ không phải là một trong nhiều kho báu, cũng không phải là kho báu lớn
nhất so với mọi kho báu. Ngài là Mọi sự trong mọi sự hoặc Ngài không là gì cả.
Ðức Chúa Trời không thể bị sử dụng. Sự nhân từ và ân điển của Ngài là vô hạn và
sự hiểu biết, kiên nhẫn của Ngài vượt quá mọi sự đo lường, nhưng Ngài sẽ không
giúp con người đạt được những mục đích vốn, khi đã đạt được, sẽ thay thế vị trí
Ngài, xét về mọi quyền hạn, và bị nắm giữ trong sở thích và tình cảm của họ.
Nhưng Cơ Ðốc giáo phổ thông
có một trong những đề tài hữu hiệu nhất để nói về ý niệm Ðức Chúa Trời tồn tại
để giúp đỡ con người tiến bộ trong thế giới. Ðức Chúa Trời của người nghèo đã
trở thành Ðức Chúa Trời của một xã hội giàu có. Ðấng Christ không còn từ chối
làm một vị thẩm phán hay một người chia phần giữa những anh em đói khát tiền bạc.
Bây giờ Ngài có thể bị thuyết phục để giúp một anh em đã tiếp nhận Ngài trở nên
tốt hơn người anh em chưa làm điều đó.
Một ví dụ thô thiển của cái
nỗ lực hiện tại để sử dụng Ðức Chúa Trời cho những mục đích ích kỷ là trường hợp
người diễn viên hài kịch nổi tiếng, sau hàng loạt các thất bại, đã hứa với một
ai đó mà anh ta gọi là Chúa rằng nếu Ngài giúp anh ta thành đạt trong thế giới
giải trí, anh ta sẽ báo đáp lại Ngài bằng cách dâng hiến cách rời rộng để chăm
sóc những đứa trẻ bệnh hoạn. Chẳng bao lâu sau đó anh vớ được những buổi diễn lớn
trong các hộp đêm và trên truyền hình. Anh ta đã giữ lời mình và bỏ ra một số
tiền lớn để xây dựng những bệnh viện cho trẻ em. Anh ta cảm thấy những đóng góp
từ thiện này là một cái giá thấp để trả cho sự thành công trong một trong những
lĩnh vực nhớp nhúa nhất của nỗ lực con người.
Một ai đó có thể bào chữa
cho hành động của người làm trò vui này như là một điều gì đó được mong đợi của
một kẻ ngoại giáo thế kỷ hai mươi; nhưng việc một số đông những người theo Tin
Lành ở Bắc Mỹ nên thực sự tin rằng Ðức Chúa Trời có liên quan gì đó đến toàn bộ
công việc vốn là điều không dễ dàng bị xem nhẹ. Quan điểm thấp kém và sai lầm
này về Ðức Chúa Trời là một lý do chính cho tính đại chúng rộng lớn mà Ðức Chúa
Trời có được trong những ngày này giữa vòng những người phương Tây ăn sung mặc
sướng.
Kinh Thánh dạy rằng chính Ðức
Chúa Trời là mục đích con người đã được tạo dựng. "Ở trên trời tôi có ai
trừ ra Chúa? Còn dưới đất tôi chẳng ước ao người nào khác hơn Chúa," tác
giả Thi thiên đã thốt lên như thế (Thi thiên 73:25). Mạng lệnh đầu tiên và lớn
nhất là yêu Chúa với trọn cả năng lực mà chúng ta có. Nơi nào tình yêu đó tồn tại,
nơi đó không thể có một mục đích thứ hai nào khác. Nếu chúng ta yêu Chúa nhiều
như điều chúng ta phải yêu thì chắc chắn một điều là chúng ta không thể mơ tưởng
về một đối tượng yêu thích nào khác hơn là chính Ngài, điều mà Ngài có thể giúp
chúng ta có được.
Bernard ở Clairfaux bắt đầu
luận thuyết nhỏ bé nhưng sáng chói của mình về tình yêu của Ðức Chúa Trời với một
câu hỏi và một lời đáp. Câu hỏi là: "Tại sao chúng ta phải yêu Chúa?"
và lời đáp là: "Vì Ngài là Ðức Chúa Trời." Ông phát triển ý tưởng đó
thêm hơn, nhưng đối với một tấm lòng đã được khai sáng thì không cần nói thêm
gì nữa cả. Chúng ta phải yêu mến Ðức Chúa Trời vì Ngài là Ðức Chúa Trời. Các
thiên thần không thể nghĩ xa hơn điều này.
Là Ðấng vốn là như vậy
(being who he is), Ðức Chúa Trời được yêu mến vì chính Ngài. Ngài là lý do để
chúng ta yêu Ngài, cũng giống như Ngài là lý do của sự yêu thương Ngài dành cho
chúng ta cùng với mọi việc khác Ngài đã thực hiện, đang và sẽ không ngừng thực
hiện trên thế giới này. Lý do đầu tiên của Ðức Chúa Trời đối với mọi thứ là sự
vui thích tốt lành của Ngài. Tìm kiếm những lý do thứ nhì là một việc vô cớ và
hầu như vô ích. Nó cung cấp việc làm cho các nhà thần học và làm dầy thêm những
cuốn sách giáo lý, nhưng việc nó lật ngược bất cứ những sự giải thích đúng nào
là điều đáng ngờ.
Nhưng bản chất của Ðức Chúa
Trời là chia sẻ. Những hành động đầy quyền năng của sự sáng tạo và chuộc tội đã
được thực hiện vì ý muốn tốt lành của Ngài, nhưng điều vui thích của Ngài vượt
quá mọi thứ được tạo dựng. Một người nhìn xem đứa trẻ khỏe mạnh đang chơi đùa
hay lắng nghe tiếng chim hót lúc hoàng hôn và anh ta sẽ biết rằng Ðức Chúa Trời
muốn vũ trụ của Ngài là một chốn đầy dẫy niềm vui.
Những ai đã được sự ban cho
thuộc linh để yêu Ðức Chúa Trời vì chính Ngài sẽ tìm thấy hàng ngàn suối nước
tuôn ra từ ngai vàng lấp lánh sắc cầu vồng và đem đến vô số của báu vốn được nhận
lãnh với sự tạ ơn hết lòng, giống như dòng chảy tình yêu của Ðức Chúa Trời luôn
tuôn đổ ra cho con cái Ngài. Mỗi quà tặng là một phần thưởng của ân điển, cái
có thể được thích thú thưởng thức mà không tổn hại gì cho linh hồn, bởi nó
không được tìm kiếm vì chính nó. Những điều này bao gồm cả những phước hạnh đơn
giản của sự sống chẳng hạn như sức khỏe, một căn nhà, gia đình, những người bạn
hợp tính, đồ ăn, nơi nương dựa, những niềm vui thuần khiết của tự nhiên hay những
thú vui có tính chất nhân tạo nhiều hơn như nhạc và họa.
Nỗ lực tìm kiếm những kho
báu này bởi sự tìm kiếm trực tiếp trừ Ðức Chúa Trời ra đã là một hoạt động
chính yếu của loài người xuyên suốt các thế kỷ; và điều này đã là gánh nặng cũng
như nỗi phiền muộn của con người. Nỗ lực đạt được chúng như một động cơ kín đáo
đằng sau việc tiếp nhận Ðấng Christ có thể là một cái gì đó mới dưới mặt trời;
nhưng dù mới hay cũ, nó vẫn là một tội lỗi đưa đến sự đoán phạt vào giờ phút cuối
cùng.
Ðức Chúa Trời muốn chúng ta
yêu mến Ngài vì chính Ngài mà thôi, không vì những lý do kín giấu nào khác, tin
cậy Ngài đối với tất cả chúng ta là cái mà bản chất chúng ta đòi hỏi. Chúa
chúng ta đã phán một điều mà không còn gì sánh bằng: "Nhưng trước hết hãy
tìm kiếm nước Ðức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các
ngươi mọi điều ấy nữa" (Ma-thi-ơ 6:33).
Để Đúng Phải Suy Nghỉ Đúng
Những gì chúng ta suy nghĩ
khi chúng ta được tự do suy nghĩ theo ý muốn chính là cái mà chúng ta là như vậy
hay sẽ sớm trở thành như vậy.
Kinh Thánh đã nói nhiều về
những tư tưởng của chúng ta; thuyết Phúc Âm ngày nay không có gì thực tế hơn để
nói về chúng. Lý do Kinh Thánh nói nhiều là vì những tư tưởng của chúng ta là cực
kỳ quan trọng đối với chính mình; lý do thuyết Phúc Âm nói quá ít là vì chúng
ta phản ứng quá mạnh trước sự sùng bái “tư tưởng”, chẳng hạn (trào lưu) Tư Tưởng
Mới (New Thought), Hiệp Nhất (Unity), Khoa Học Cơ Đốc (Christian Science) và những
cái tương tự như vậy. Những sự sùng bái này khiến tư tưởng chúng ta trở nên rất
gần gũi với mọi sự vật và chúng ta đối đầu bằng cách xem chúng như không có gì
cả. Cả hai vị trí đều sai trật.
Những tư tưởng tự nguyện của
chúng ta không chỉ thể hiện chúng ta là gì, mà chúng còn tiên đoán chúng ta sẽ
trở thành cái gì. Ngoại trừ những hành vi cơ bản phát xuất từ bản năng tự
nhiên, tất cả các hành vi có ý thức đều đến trước và hình thành từ trong tư tưởng
chúng ta. Ý chí có thể trở thành đầy tớ cho tư tưởng, và ở một mức độ rộng lớn
hơn, ngay cả những tình cảm của chúng ta cũng đi theo điều chúng ta suy nghĩ.
“Càng nghĩ về nó nhiều bao nhiêu thì tôi càng điên tiết hơn” là câu nói mà một
con người bình thường hay phát ra, và việc làm đó không chỉ thể hiện chính xác
các quá trình tư duy của cá nhân anh ta, nhưng cũng cống nạp một cách vô ý thức
cho sức mạnh của tư tưởng. Tư tưởng khuấy động cảm xúc và cảm xúc làm phát sinh
hành động. Đó là cách chúng ta đã được tạo dựng và chúng ta cũng chấp nhận nó.
Các sách văn thơ và tiên
tri chứa đựng vô số lời đề cập đến sức mạnh của việc tư tưởng đúng đã đưa đến cảm
xúc tôn giáo và thúc đẩy hành vi đúng đắn. “Tôi tư tưởng về đường lối tôi, bèn
trở bước tôi về chứng cớ Chúa.” “Lòng tôi nóng nảy trong mình tôi, đương khi tôi
suy gẫm, lửa cháy lên, bấy giờ lưỡi tôi nói.” Hết lần này lại lần khác, các tác
giả trong Cựu Ước thúc đẩy chúng ta yên lặng và suy nghĩ về những điều cao cả,
thánh khiết như là một bước mở đầu cho sự biến đổi đời sống trở nên tốt hơn hay
một việc làm tốt hoặc một hành động can đảm.
Cựu Ước không hề cô đơn
trong sự đề cao sức mạnh của tư tưởng con người, cái mà Đức Chúa Trời đã ban tặng.
Đấng Christ dạy rằng con người làm ô uế chính mình bởi tư tưởng tội lỗi và thậm
chí còn đi xa hơn đến chỗ đặt tư tưởng ngang bằng một hành động: “Hễ ai ngó đờn
bà mà động tình tham muốn thì trong lòng đã phạm tội tà dâm cùng người rồi.”
Phao-lô kể ra một loạt các đức tính sáng chói và truyền bảo: “Anh em phải nghĩ
đến.”
Những trích dẫn này là bốn
trong số hàng trăm chỗ khác Kinh Thánh viết về tư tưởng con người. Suy nghĩ về
Đức Chúa Trời và những điều thánh khiết tạo nên một môi trường đạo đức thuận lợi
cho sự tăng trưởng của đức tin, tình yêu thương, sự khiêm nhường và lòng kính sợ
Chúa. Chúng ta không thể dùng tư tưởng để tái sanh tấm lòng, cất tội lỗi đi hay
thay đổi tính nết của mình. Chúng ta cũng không thể dùng tư tưởng mà làm chúng
ta cao thêm một chút, hay khiến cái xấu thành cái tốt, hóa đen ra trắng. Chủ
trương như thế là xuyên tạc lẽ thật Thánh Kinh và dùng nó cho những việc làm
sai trái của cá nhân chúng ta. Nhưng bởi tư tưởng do Thánh Linh cảm thúc, tâm
trí chúng ta sẽ được thuần khiết và trở thành nơi thiêng liêng Đức Chúa Trời
hài lòng khi ngự vào.
Trong một đoạn ở bên trên
tôi có đề cập đến “tư tưởng tự nguyện” của chúng ta và tôi đã thận trọng khi
dùng từ đó. Trong hành trình chúng ta băng qua thế giới tội lỗi và đầy căm thù
này, nhiều tư tưởng sẽ xuất hiện trong đầu chúng ta mà chúng ta không thích và
cũng là những tư tưởng chúng ta không có lấy một chút đồng tình nào về phương
diện đạo đức. Sự cần thiết phải kiếm sống có thể ràng buộc chúng ta nhiều ngày
liền vào sự tiếp nhận những tư tưởng mà không có tra xét. Nhận thức thông thường
về các việc làm của những người chung quanh sẽ gieo các tư tưởng mâu thuẫn vào
linh hồn Cơ Đốc nhân chúng ta. Những cái này ảnh hưởng chúng ta chút ít. Đối với
những tư tưởng này, chúng ta không phải chịu trách nhiệm và chúng có thể lướt
qua tâm trí chúng ta như con chim bay trong không khí, không để lại một dấu vết
gì. Chúng không để lại ảnh hưởng lâu dài trên chúng ta vì chúng không phải là của
chúng ta. Chúng là những kẻ xâm nhập không được hoan nghênh, những cái chúng ta
không dành một chút tình cảm nào, và có thể thoát khỏi một cách nhanh chóng.
Bất kỳ ai muốn kiểm tra
tình trạng thuộc linh thật của mình có thể kiểm tra bằng cách lưu ý xem những
tư tưởng tự nguyện của mình trong những giờ qua hay những ngày qua là gì. Anh
ta nghĩ gì khi được tự do để suy nghĩ về những điều làm mình vui lòng? Lòng anh
hướng về điều gì khi nó được tự do để xoay về hướng mà nó muốn? Khi con chim tư
tưởng được thả ra, nó bay lượn rồi đậu lên những cái xác trôi nổi như con quạ
hay giống như con bồ câu lượn vòng rồi trở về chiếc thuyền của Đức Chúa Trời?
Việc kiểm tra đó rất dễ, và nếu chúng ta thành thật với chính mình, chúng ta có
thể khám phá ra không chỉ việc chúng ta là gì mà cả việc chúng ta sẽ trở nên
cái gì. Chúng ta sẽ sớm trở thành cái mà những tư tưởng tự nguyện của chúng ta
hướng đến.
Khi tư tưởng khuấy động cảm
xúc của chúng ta, và vì nó thế ảnh hưởng mạnh mẽ đến ý chí, thì việc ý chí có
thể là và nên là ông chủ của những tư tưởng là một điều cần lưu ý đến. Mỗi một
con người có thể quyết định điều mà anh ta sẽ suy nghĩ đến. Dĩ nhiên một con
người lo lắng hay đang bị cám dỗ sẽ thấy khó điều khiển tư tưởng và ngay cả khi
tập trung vào một đề tài xứng đáng, những tư tưởng hoang dại và thoáng qua vẫn
có thể xuất hiện trong tâm trí anh như một tia chớp nóng bỏng giữa đêm hè. Những
cái này có khuynh hướng quấy nhiễu hơn là gây hại và trong cuộc chạy đường dài
thì nó cũng không khác gì mấy.
Cách tốt nhất để điều khiển
tư tưởng chúng ta là dâng tâm trí mình lên cho Đức Chúa Trời và hoàn toàn đầu
phục Ngài. Đức Thánh Linh sẽ nhận lấy nó và điều khiển ngay lập tức, rồi sẽ rất
dễ dàng khi suy nghĩ đến những điều thuộc linh, đặc biệt là nếu chúng ta huấn
luyện tư tưởng mình bằng những khoảng thời gian dài trong sự cầu nguyện hàng
ngày. Bài tập trong nghệ thuật cầu nguyện bằng tâm trí (tức là thưa chuyện với
Đức Chúa Trời trong khi chúng ta làm việc hay đi lại) sẽ giúp chúng ta hình
thành thói quen tư tưởng những điều thánh khiết.
A.W.Tozer